Những cánh hoa tim
Sau hàng loạt phóng sự Huân viết về cuộc khủng bố tại Trung Tâm Mậu
Dịch Quốc Tế (WTC) và Pentagon, Huân tiếp tục sang Afghanistan để
thuật lại diễn biến cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và đồng
minh. Những bài phóng sự nóng bỏng của anh đã gây được sự chú ý của
báo chí Việt ngữ và của Mỹ. Một số nhà báo nước ngoài đã bị chết
trong cuộc săn tin ở xứ Đạo Hồi có nhiều phần tử cuồng tín như
Afghanistan, còn anh cứ sống nhăn răng. Bạn bè hỏi tại sao anh lại
thích đến những nơi nguy hiểm thì Huân chỉ trả lời họ bằng một nụ
cười và một câu nói bất tử: “ Sinh nghề tử nghiệp. Làm nghề báo phải
sống chết cho sự thật nên mình phải đi tìm sự thật”. Có thể Huân
hơi lý tưởng quá công việc của mình. Không phải ai cũng như anh, có
người cầm bút vì bất đắc dĩ. Đôi khi họ cầm bút vì nhu cầu đời sống
nhưng ít và hiếm ai hiểu được rằng người cầm bút bao giờ cũng cần sự
hy sinh, dấn thân và có lương tâm nghề nghiệp. Ngày xưa, còn mẹ và
Thảo để anh nhớ thương mà trở về. Hôm nay, một thân một mình lưu lạc
trên xứ người còn ai đâu để nhớ mà về. Mẹ đã qua đời. Thảo lưu lạc
phương trời nào Huân cũng không biết. Anh đã gát súng quá sớm. Anh
đã thất bại trên chiến trường và trở thành kẻ vô dụng. Anh đã bỏ mặc
cho đồng đội chiến đấu một mình. Phải chi ngày đó, mảnh đạn trái
pháo giết anh ngay mặt trận để xác anh được nằm lại nơi đất mẹ hiền.
Anh không phải đau đớn triền miên trong mối hận mất quê hương. Anh
chờ hoài, chờ hoài đến mòn mõi nhưng ngày trở về quê hương trong
bóng cờ xưa đã lùi quá xa. Những ngày xuân xa xưa dù đây đó khét mùi
thuốc súng, chiến trường Miền Nam đang sôi động, nhưng hoa mai vẫn
nở rực rỡ, vàng hanh cả lưng chừng núi. Anh vẫn còn thấy hương vị
quê hương trong ngày Tết dù ở tận rừng sâu, núi thẳm. Ở đây, anh có
trở về hay không cũng không còn ai đón. Nếu anh có chết cũng không
ai nhỏ cho anh một giọt lệ bên chiếc quan tài. Huân chỉ còn duy nhất
vài người bạn chiến đấu ngày xưa trong quân ngũ. Tất cả tuổi đã quá
lục tuần và bạn bè ai cũng phải lo chén cơm manh áo. Nhiều người còn
mãi chaỵ theo ảo tưởng của danh vọng nên cũng không ai hiểu Huân.
Chuyến đi thăm vùng đất người Hồi Giáo là một dịp may hiếm có hay
đúng hơn là giấc mơ của anh. Huân đã nhìn thấy những ngôi làng đổ
nát, tang hoang đầy vết đạn lổ chổ. Anh thấy những người già, những
em bé chạy loạn, kẻ mất cha người mất chồng. Huân nhìn thấy những
người phụ nữ Hồi Giáo sống dưới chế độ Taleban thật khắc nghiệt và
tăm tối. Họ phải ăn mặc trùm phủ từ đầu tới chân và chỉ còn lại một
tấm lưới đủ cho hai con mắt nhìn ánh sáng mặt trời. Nếu bọn man rợ
và bọn cuồng tín thắng trên toàn thế giới thì chắc chắn loài người
sẽ bị tận diệt. Nhiều thành phố đã bỏ hoang từ thời kỳ đất nước nầy
chống lại Liên Xô. Người dân Afghanistan sống trong nghèo đói, chết
chóc triền miên. Và mấy tháng gần đây, cuộc oanh kích của Hoa Kỳ và
đồng minh đã tạo cho họ niềm hy vọng chế độ Taleban sẽ tan rã và
cuộc sống của họ sẽ có ánh bình minh. Hoa Kỳ và quốc tế đã viện trợ
khẩn cấp về thực phẩm, thuốc men và quần áo để cứu họ thoát khỏi sự
đói khát và lạnh lẽo. Nhiều lúc Huân không cầm được nước mắt khi
nghe một người già, một phụ nữ, hoặc một đứa trẻ nói về đời sống và
sự đau khổ của họ. Vâng, chỉ có ai đã từng trãi qua chiến tranh mới
thấm thía nỗi đau của sự nghèo đói, dốt nát, bần cùng và mất mát.
Huân đã trở lại Hoa Kỳ được một tuần, anh chưa kịp ra phố để mua quà
giáng sinh tặng cho một vài người bạn thì ông chủ nhiệm lại yêu cầu
anh trở lại New York. Huân có dịp nhìn lại đống gạch vụn của Trung
Tâm Thương Mại Thế Giới. Vào những ngày cuối năm, nhiệt độ xuống
thật thấp. Trời vào đông lạnh như cắt da cắt thịt và không một tia
nắng. Cây cối hai bên đường trơ trụi lá trông như những bộ xương khô
khốc. Những ngày cuối cùng của năm 2001, du khách từ khắp nơi trên
thế giới đổ xô về New York. Mọi người cho rằng họ phải được một lần
chứng kiến tận mắt vùng đất “Ground Zero” đã chôn sống hàng mấy ngàn
người. Nhiều người phải đứng sắp hàng chờ đợi gần ba bốn tiếng đồng
hồ mới tới lượt mình. Nhưng họ vẫn vui vẻ đứng dưới thời tiết giá
lạnh mà không một lời cằn nhằn, than thở. Cảnh sát thành phố đã dựng
một hàng rào ngăn cản không cho mọi người đến gần trung tâm Mậu Dịch
Thế Giới. Nhưng từ khu vực gần đó, người ta có thể quan sát được
những gì đang diễn ra ở hai toà cao ốc bị sụp đổ. Huân có thẻ phóng
viên nên việc anh đến đó rất dễ dàng. Anh vẫn còn thấy những cuộn
khói bốc lên như những làn sương mỏng. Bụi cát, giấy, gạch vụn vẫn
bao phủ một khu vực rộng lớn. Huân chụp thêm một loạt hình mới và
đến gần những khu tưởng niệm. Trên nhiều bức tường ở New York, vẫn
còn treo rất nhiều hình của những nạn nhân bị chết trong cuộc khủng
bố. Huân tháo cuộn phim ra khỏi máy và lấp vào cuốn phim mới. Ống
kính anh hiện ra một người đàn bà mặc bộ đồ đen, đầu choàng chiếc
khăn len đen. Khuôn mặt khắc khổ, trắng xanh bị che kín bởi cặp
kính cũng màu đen. Người đàn bà đứng ngay bức tường rất lâu. Bà ta
đặt xuống đất bên cạnh tấm hình một người đàn ông một bó hoa. Bà quỳ
xuống, bàn tay xương xương, gầy gò sờ mãi tấm hình người quá cố.
Người đàn bà gục đầu khá lâu khiến Huân xúc động. Anh bấm liên tục
nhiều tấm ảnh và đứng ra xa quan sát. Cuối cùng, bà đã đứng lên, lấy
ra một chiếc khăn tay, tháo đôi kính đen xuống và lau vội những giọt
lệ. Bà ngước mắt nhìn quanh thành phố và bước vội vàng rồi biến mất
trong sự huyên náo của đám đông.
Huân mang phim đi rửa và chuẩn bị cho bài phóng sự cuối năm. Anh
chợt khựng lại khi nhìn tấm hình người đàn bà mặc đồ đen hôm nào.
Một tấm hình có một nút ruồi đen nằm ở khoé môi trái khiến anh cứ
boăn khoăn. Ai đây? Lại nút ruồi đen, đôi mắt hơi sâu, dịu hiền ...
Huân lắc đầu mấy cái cố xua tan đi ảo ảnh đang bất chợt hiện về từ
hình ảnh người đàn bà có nét Á Đông.
***
Huân đến toà soạn như thường lệ để gặp gở đồng nghiệp vào những
ngày cuối năm. Ông chủ nhiệm Ngọc Tùng quăng trên bàn một đống thư
và cười khà khà:
_ Huân à! Cậu đi có mấy tuần mà thư một đống như cái núi. Có nhiều
bà, nhiều cô si tình gởi thư đến đòi gặp mặt cậu khiến tôi cũng ghen
lây. Ê! Chọn một cô nào đi, nhiều em còn tươi như hoa...cứ sống cô
đơn hoài sao?
Thành, một phóng viên vui tính và trẻ nhất toà soạn xen vô:
_ Anh hai đừng có lo cho anh Huân, ổng khôn tổ sư. Không lấy vợ để
được nhiều đàn bà đẹp tôn thờ. Chết thì nhiều người khóc. Còn anh em
mình chỉ có một bà thôi. Coi vậy mà anh ta thông minh hơn mình.
Huân cười khì:
_ Vậy tại sao không chịu thờ chủ nghĩa độc thân hả? Lấy vợ rồi ân
hận ngàn năm.
Tú Linh, cô thư ký nghe vậy chạm tự ái la oai oái:
_ Không có vợ thì ráng đốt đuốc đi tìm. Có đi xuống biển, xuống
đất, lên trời gì cũng moi cho ra. Khi có vợ rồi thì muốn có thêm.
Bởi vậy ở giá cho đáng đời.
Huân biết trúng phải bà chằng lửa nên xuống giọng năn nỉ:
_ Thôi mà cô Tú Linh. Tôi đâu có nói gì cô phải hôn.
Tư Lùn la lớn:
_ Trời ơi! Hai hôm nay có một người đàn bà lạ lắm cứ gọi điện thoại
đòi đến gặp anh. Tụi tôi ghen với anh, tại sao anh đã hơn năm mươi
mà người ta mê anh dữ vậy? Còn tụi em “trẻ như măng mới mọc đầu
làng” mà các bà không thèm để mắt tới. Tức ói máu!
Một giọng khác trêu chọc:
_ Không biết anh Huân thì thôi, biết rồi chán như cơm nếp.
_ Vậy mà có người biết rồi vẫn mê đó.
Mọi người liếc mắt nhìn Lệ Chi, cô ký giả trẻ đẹp đang ngồi ở cuối
phòng. Huân chấp hai tay ra phía trước làm dấu lạy mọi người và nói
nhỏ:
_ Thôi cho tôi xin đi. Tuổi tôi đã bóng xế chiều hôm. Tôi không dám
mơ ước chuyện không tưởng.
_ Trời ơi! Anh đi xa, cô ấy buồn thiu. Cô ấy cứ hỏi em về thân thế
của anh. Em nói chỉ biết anh sống một mình, không có gia đình. Anh
về Lệ Chi vui lắm – Tú Linh nói thêm.
_ Thật vậy sao?
Lệ Chi đến gần mọi người vừa cười vừa nói:
_ Linh nói xấu gì về tôi cho anh Huân nghe phải không?
Tú Linh chối bai bãi:
_ Đâu có. Chỉ chúc mừng anh Huân trở về bình an.
Tư Lùn chỏ mồm vô:
_ Mấy tuần nay, Lệ Chi ngồi đâu hát đó: “...Không có anh, bầu trời
như không có nắng. Không có anh mây ngàn sẽ ngừng trôi... Không có
anh, đêm về em không ngủ...”
Lệ Chi đá vào chân Tư Lùn một cái, khiến anh ta cụt hứng la ơi ới!
_ Nói đúng tim đem rồi đá người ta. Bớ bà con ơi! Gà mái đá gà
cồ....
Tất cả mọi người trong toà soạn phá lên cười. Lệ Chi đỏ mặt tía tai.
Huân gở rối cho cô:
_ Thôi tha cho người ta đi Tư Lùn.
Mọi người cười thoải mái nhưng biết ý rút lui có trật tự. Còn lại
một mình Huân và Lệ Chi, anh mời cô vào phòng anh và từ tốn hỏi:
_ Lệ Chi có khoẻ không? Có gì mới từ ngày tôi đi công tác xa?
_ Mọi chuyện vẫn vậy. Em mừng khi anh trở lại bình yên.
_ Muốn trở thành phóng viên giỏi là phải lăn vào những nơi nguy
hiểm. Với lại anh chỉ có một mình. Tuổi đời, tuổi nghề đã cao. Anh
chịu đựng gian khổ đã quen.
_ Em cũng muốn đi theo anh, nhưng ông chủ nhiệm không cho. Vừa rồi
hay tin nhiều phóng viên bị thiệt mạng làm em lo cho anh.
Giọng nói cô chân tình đến nỗi làm anh xúc động. Cô gái nầy đã yêu
mình từ lâu. Tại sao cô lại có thể yêu một người đàn ông tuổi lớn
hơn cô gấp bội? Cô cần gì nơi anh? Tiền thì anh không có, anh là một
người đàn ông nghèo, đồng lương một ký giả chỉ đủ trả tiền nhà,
tiền điện nước, xăng, bảo hiểm... Anh lại không phải là người hào
hoa đẹp trai như hầu hết những người trẻ tuổi đang làm việc trong
toà soạn. Tình yêu thật kỳ lạ. Tình yêu không có biên giới giàu
nghèo, sang hèn, địa vị, tuổi tác. Nó đến tự nhiên như mưa gió, cỏ
cây, vạn vật và con người không thể định nghĩa được. Cô còn quá trẻ
để nhận ra thực tế của đời sống. Tất cả, thật ra chỉ là những chiếc
bóng ảo ảnh mà người đời đang đeo đuổi. Cuộc sống không như một
giấc mơ. Cuộc sống là sự thật trần trụi, tàn nhẩn, sần sùi như sỏi
đá. Khi anh còn ở xa tầm tay với, cô còn khao khát, còn ngưỡng mộ,
còn xem anh như thần tượng. Nhưng biết đâu, khi đời anh gắn bó với
Lệ Chi thì thần tượng sẽ vụt tắt. Nàng sẽ nhận ra một ông già vô
dụng, bất lực trước một cô gái tình yêu còn bốc lửa. Sự chênh lệch
về thể chất, tâm hồn và khoảng cách của thời gian giữa hai thế hệ là
một nghịch lý mà anh nhìn thấy. Đó là một cái hố mà những người đàn
ông thông minh, sáng suốt, mạnh mẻ mới hiểu một cách đầy đủ. Dù cho
anh có trẻ trung hoá tâm hồn, dù cho anh có thể gần gủi với giới trẻ
về tư tưởng, nhưng anh như một nhánh cây khô đã hết nhựa sống. Huân
đặt một bàn tay trên vai cô:
_ Em làm anh cảm động quá! Nhớ đi chơi với bạn bè, hưởng trọn tuổi
xuân và đừng quá lo cho anh. Cuộc sống vui tươi của em mới là quan
trọng.
_ Em chỉ vui khi thấy anh vui thôi.
Huân lại cười, nét mặt anh thật nghiêm, anh nhìn sâu vào đôi mắt đen
láy đang mở to của cô và nói:
_ Anh sẽ nói chuyện với em nhiều hơn nếu có dịp. Cuộc đời đang mở
cửa chào đón em. Đừng dừng lại một góc nhỏ rồi nghĩ rằng đó là bầu
trời thơ mộng của mình. Nhớ lời anh dặn – Huân trở lại bàn viết, anh
lấy một gói quà nhỏ trao cho Lệ Chi – Đây là quà của em.
Lệ Chi đón lấy và vui sướng reo lên khe khẻ:
_ Cảm ơn anh.
_ Huân à! Cậu lại có khách – Ông chủ nhiệm Ngọc Tùng trở lại nói nhỏ
vào tai Huân.
_ Anh có khách nữa rồi. Anh sẽ nói chuyện với em sau.
Lệ Chi bước ra khỏi phòng Huân, cô chạm mặt một người đàn
bà đứng tuổi ăn mặc rất thanh lịch. Lệ Chi khẻ cúi đầu chào và bước
nhanh.
Huân ngạc nhiên khi nhận ra người đàn bà anh đã gặp bên bức
tường tưởng niệm tại New York hôm nào. Bà ta chào anh rất lịch sự và
tháo cặp kính đen xuống. Huân như người bị thôi miên. Anh đứng bật
dậy như bị một luồng điện chạy dọc sống lưng. Cố gắng trấn tỉnh
trong vài phút, anh mời bà ta ngồi vào chiếc ghế đối diện.
_ Thưa bà, bà tìm tôi có điều gì không?
Người đàn bà chậm rãi trả lời:
_ Tôi đã đọc bài viết của ông đăng trên báo và tôi thấy tấm
hình của tôi bên cạnh. Cám ơn những dòng chữ ông viết về người đàn
bà cô đơn bên bức tường tưởng niệm người quá cố. Bài viết làm tôi
xúc động quá! Tôi phải đến đây trực tiếp gặp ông – Ngừng lại trong
một phút, người đàn bà tiếp – Không ngày nào tôi quên đọc những bài
viết của ông đăng rãi rác trên các báo, nhất là những truyện ngắn,
ký sự, phóng sự...và cả những bài thơ...tôi đã cắt dán trong một bộ
sưu tập lớn. Tôi cứ tưởng tượng ông là một người nào đó rất quen của
tôi từ thuở thiếu thời...
Đôi mắt người đàn bà linh động nhìn Huân khiến anh bối rối
nhìn nơi khác. Ai đây trời! Khuôn mặt phảng phất hình bóng cũ dù
tháng năm đã tàn phá nét đẹp của tuổi thanh xuân. Mái tóc lấm tấm
những sợi bạc. Những nét nhăn khắc sâu dưới hai khoé mắt được phủ mờ
đi bằng một lớp phấn mịn màng. Vầng trán vuông với những sợi tóc li
ti bạc trắng phủ xuống những dấu chân chim. Và nốt ruồi trên khoé
môi đã nhắc nhở anh về một bóng dáng yêu thương còn sâu đậm trong
tâm hồn anh. Huân cố gắng xua đuổi nỗi ám ảnh đang hiện ra trong
đầu.
_ Cảm ơn bà đã dành cho tôi nhiều ưu ái. Bà có người thân
chết trong cuộc khủng bố vừa qua ở New York?
Người đàn bà gật đầu. Nơi khoé mắt bà ngân ngấn những giọt
lệ:
_ Người đó là chồng tôi. Anh là một trong những hành khách
trong chuyến bay định mệnh.
_ Bà có tìm được thi hài của ông ấy không?
_ Không. Tất cả đã thành tro bụi. Tôi đã đến đây nhiều lần
nhưng không tìm ra được một chút dấu vết nào của ông ấy. Tôi chỉ
nhận được một nắm tro mà ông thị trưởng New York đã trao lại.
Người đàn bà nghẹn ngào. Nước mắt từ từ lăn xuống đôi gò má
xanh xao. Huân đứng lên, anh lấy ly rót cho bà một ly nước và an ủi:
_ Tôi thành thật chia buồn cùng bà. Thật là đau xót và kinh
hoàng khi chết mà không được toàn thây.
Người đàn bà lau vội những giọt lệ:
_ Tôi không ngờ ngày anh ấy trở về với tôi cũng là lần anh
ấy ra đi vĩnh viễn.
_ Tôi chưa hiểu hết ý của bà.
_ Chúng tôi đã chia tay nhau rất lâu. Những tháng gần đây,
không hiểu vì lý do gì anh ấy thường xuyên gọi điện thoại cho tôi và
than buồn. Anh ấy nói lời tạ lỗi và muốn quay trở về với tôi sống
nốt cuộc đời còn lại. Nhưng định mệnh thật trớ trêu, tôi chờ mãi,
chờ mãi cho đến ngày anh thật sự ra sân bay cũng là ngày anh ấy
không bao giờ trở về...– Đôi mắt người đàn bà mờ lệ. Bà ngập ngừng
rất lâu rồi bắt đầu tiếp –Ông là người duy nhất được nghe tôi kể một
phần câu chuyện nầy.
Huân lặng người rất lâu khi nghe người đàn bà xa lạ kể
chuyện đời mình. Huân đã có một thời trai trẻ để yêu. Anh có một
tình yêu đầu đời đẹp như ánh trăng thơ mộng. Khi mất nàng vĩnh
viễn, trái tim anh biến thành gỗ đá. Tháng năm cứ trôi đi mà đời
người thật ngắn ngủi. Những giấc mơ anh ôm ấp chưa thành sự thật thì
đầu đã bạc. Đất trời luôn luân lưu, còn đời anh thì đã đóng băng từ
dạo xa nàng. Anh ngồi nghe người đàn bà xa lạ kể chuyện đời bà sao
đáng thương quá. Huân lái câu chuyện sang hướng khác để tránh cho bà
ta bớt xúc động.
_ Xin lỗi, tôi có thể gọi bà là gì cho phải phép?
_ Bạn bè thường gọi tôi là Thảo. Ông cũng có thể gọi tôi
như vậy.
_ Thảo. Thảo...Tôi cũng có một người thân tên Thảo.
_ Vậy à! Người nhà của ông chăng?
_ Không người bạn gái cùng quê.
Người đàn bà tiếp lời anh:
_ Làng Trúc Sơn có phải không ông?
Huân đứng bật dậy. Anh đang ngở ngàng và cố gắng nhận diện
người đàn bà nhưng bà ta dột ngột đứng lên từ giả:
_ Tôi ngồi hơi lâu, sợ phiền ông – Người đàn bà mở chiếc
xách tay và lấy ra một phong bì đặt trên bàn – Ông có thể về nhà mở
ra xem. Đây là món quà đầu năm mà tôi đã dành cho ông từ lâu. Xin
phép ông tôi về và thành thật cảm ơn ông đã bỏ nhiều thời gian cho
tôi hôm nay.
Huân chưa kịp nói lời từ giả thì bóng bà ta đã lướt qua
khung cửa. Cái gì nữa đây? Trong cuộc đời làm báo, Huân đã gặp biết
bao nhiêu chuyện bất ngờ, kỳ thú. Nhưng lần nầy, Huân thật sự ngạc
nhiên trước thái độ lạ lùng của người đàn bà. Huân cầm phong thư
trên tay và vội vàng mở ra xem. Bên trong là tấm hình trắng đen đã
ngã sang màu vàng và chân dung một cô gái mặc áo bà ba tóc dài ngang
lưng đang hôn những cánh hoa hình Trái Tim được kết lại, khuôn mặt
đẹp dịu dàng và đôi môi xinh xinh có một nút ruồi đang mỉm cười.
Tim Huân như ngừng đập. Anh kêu lên một tiếng thản thốt:
_Trời! Thảo. Có thể nào là nàng.
Bên trong bì thư còn một tấm hình lúc Huân và Thảo đang thả diều
trên ngọn đồi đầy dây Tơ Hồng. Ngày xưa...lại chuyện ngày xưa...
...Nhà Huân và nhà Thảo cách nhau một dòng sông. Hàng ngày
đi học, Huân phải đi ngang nhà cô bé. Khi cô bé mười hai, học lớp Đệ
Thất, Huân đã vào lớp Đệ Tứ.
Nhà cả hai gần bờ sông nên thỉnh thoảng Huân hay dẫn cô bé ra bến đò
nhìn dòng sông và những chuyến đò ngang. Dù chiến tranh mỗi ngày mỗi
ác liệt, nhưng dòng sông vẫn hiền hoà trôi xuôi mang theo những đám
lục bình có hoa tím nở và những chiếc xuồng con chở đầy rau quả, cây
trái xuôi ngược mỗi ngày. Huân thường ví dòng sông là anh và con đò
là cô bé. Dòng sông luôn mang nặng phù sa, mang nước về tắm mát cây
trái xóm làng và dòng sông không thể thiếu con đò. Ngày nào vắng
chuyến đò ngang, dòng sông buồn hiu hắt vì thiếu tiếng cười của cô
gái quê mộc mạc. Nghe Huân nói, cô bé chỉ mỉm cười ngây thơ, đôi mắt
trong veo nhìn xa xa những cánh chim rừng đang xoãi cánh bên kia
cánh rừng trùng điệp. Mỗi độ hè sang, Huân thường làm những con diều
to bằng những cây trúc uốn cong và dán bằng những loại giấy học trò
đủ màu. Diều của Huân thường có màu vàng, dán hình hai con mắt một
nhắm, một mở và một cái lưỡi thè ra rất dài, đuôi diều ngắn, màu da
cam. Diều của cô bé thì màu xanh da trời, hai đuôi dài được dán thật
đẹp bằng nhiều màu nối tiếp từ trên xuống. Và đặc biệt giữa cánh
diều có hình một trái tim. Những ngày hè trời nắng ráo, Huân và cô
bé lên đồi Tơ Hồng thả diều. Đồi Tơ Hồng nằm dọc theo bờ sông nên
mát rượi và thơ mộng. Nơi đây, cây Tơ Hồng mọc rất nhiều. Xung quanh
cỏ mọc xanh rì và nhiều bóng cây to có tán xoè rộng. Từ nơi nầy,
Huân và cô bé có thể chạy nhảy trên đồi và thả cho diều bay căng
trong gió lộng giữa trời cao rực nắng. Cô bé cười thích thú khi thấy
cánh diều mỗi ngày một nhỏ lại như một con chim đại bàng đang đùa
giỡn với mây trời. Huân trao cho cô bé chùm mận chín đỏ ao và gói
muối ớt, cả hai ngồi ăn ngon lành. Huân hỏi cô bé:
_ Thảo biết tại sao người ta gọi đây là đồi Tơ Hồng không?
_ Tại có nhiều cây Tơ Hồng.
_ Không phải vậy đâu.
_ Anh Huân nói cho Thảo nghe đi.
_ Ngọn đồi nầy linh thiêng lắm. Ai lên đây một lần thì về sẽ mang
bịnh tương tư.
Cô bé chớp chớp đôi mắt:
_ Bệnh tương tư là bệnh gì? Mang bệnh rồi có chết không?
_ Không chết nhưng người lâng lâng như ở trên mây.
_ Bệnh gì kỳ vậy?
_ Bệnh tương tư khó giải thích lắm. Vài năm nữa khi Thảo lớn lên thì
Thảo sẽ hiểu.
Cô bé bấu Huân thật đau và làm nủng:
_ Nhưng bây giờ Thảo đã mười hai tuổi rồi.
_ Mười hai tuổi còn bé lắm. Thảo chỉ thích ăn ô mai và làm nủng
thôi. Chẳng hạn như mùa hè nào cũng đòi anh làm diều, thích đi tắm
sông và leo cây thì làm người lớn với ai.
_ Vậy mùa hè năm sau, Thảo không thèm thả diều nữa. Thảo thích làm
người lớn để nghe anh nói về chứng bệnh “tương tư”.
Cô bé cũng hỏi mẹ nhiều lần nhưng mẹ chỉ cười và trả lời y hệt Huân.
Còn mấy đứa bạn tinh nghịch thì cười lên ầm ỉ và trêu chọc cô bé đến
đỏ mặt tía tai.
Mấy năm sau, Huân đã học xong đệ nhị cấp. Huân đậu tú tài toàn phần
thì có lệnh tổng động viên. Anh xin gia nhập quân đội. Ngày anh nhập
ngũ, cô bé tóc mới chấm vai. Đôi mắt thơ ngây đã biết chớm buồn và
thoáng chút mộng mơ. Huân nắm bàn tay thon thả bé bỏng của cô bé và
gởi lại nơi đó một nụ hôn. Cô bé khóc, hai bờ vai run len nhè nhẹ:
_ Anh nhớ về thăm Thảo nha anh!
Huân lau mắt cho cô bé, anh hiểu cuộc chiến không dễ gì dập tắt, đã
có biết bao bạn bè ra đi rồi không bao giờ trở lại. Bom đạn vô tình
đã cướp đi biết bao người anh yêu mến. Biết đâu ngày mai, trong góc
rừng, trên cao nguyên mù sương nào đó, anh sẽ ngã xuống, xác thân
anh sẽ hoà lẫn vào cát bụi, cỏ cây. Thế cũng xong một đời người phải
không cô bé. Tại sao anh lại quá nặng lòng với cô bé đến thế ? Cô bé
có hiểu được rằng hình bóng cô bé đã đè nặng tim anh không? Cô bé
còn thơ ngây quá! Huân không muốn gieo vào lòng cô một suy nghĩ nào
đó khác hơn tình bạn? Cô bé chưa đủ trí khôn để nhận diện ra tình
yêu thầm kín mà anh đã dành cho cô bé. Huân dúi trên tay cô bé tấm
hình mà cả hai ngồi thả diều trên đồi Tơ Hồng. Phía sau, anh có
viết hai câu thơ ngắn gọn: “Dây Tơ Hồng không trồng mà mọc. Xa em
rồi anh nhớ nghìn năm”. Chưa xa mà đã xa, có phải chăng hai câu thơ
như một dấu hiệu của định mệnh để sau nầy Huân mất cô bé vĩnh viễn.
Có phải chăng chiến tranh nghiệt ngã đã làm tan nát quê hương và vùi
dập biết bao lứa tuổi đang yêu? Huân thường xuyên viết thư về thăm
gia đình và cô bé. Huân còn một người mẹ để nhớ và một người bạn gái
để mơ ước ngày yên tiếng súng trở về. Hàng năm, anh chỉ được có ba
ngày phép. Những ngày anh về, nhà vui như ngày hội. Mẹ nấu đủ món
cho anh ăn. Mẹ chăm sóc cho anh giống như ngày anh còn bé. Cô bé
thì mỗi ngày một lớn. Cô mang đến cho anh những lá thư đã viết mà
chưa kịp gởi. Trong đó có cả những bài luận văn cô viết về người
lính để tặng anh. Niềm vui đó chỉ thoáng qua ngắn ngủi, rồi anh lại
trở về đơn vị.
Chiến trường vào những năm 70 vô cùng ác liệt. Cộng sản đã mở chiến
dịch tấn công nhiều mặt. Anh đã xin phép đơn vị nhiều lần nhưng vẫn
không được về thăm nhà. Đầu năm 71, anh được về phép ba hôm. Ngày
về biết bao háo hức, vui buồn lẫn lộn. Mẹ anh chờ anh bên khung cửa.
Bà hôn anh trong màng nước mắt. Cả đêm bà không ngủ, bà rờ nắn tay
chân anh, đắp chăn cho anh và nói chuyện cho đến nữa đêm. Hôm sau,
anh đến nhà thăm Thảo, cô bé ngày xưa bây giờ tóc đã dài đến nữa
lưng. Đôi mắt long lanh nhìn anh ngở ngàng vui sướng. Huân choáng
váng một phút trước nét đẹp dịu hiền của người thiếu nữ.
Nàng cười mà nước mắt rưng rưng:
_ Anh đã về.
Huân không dám đến ôm nàng như ngày xưa. Cô bé Thảo đã thành thiếu
nữ.
_ Anh không còn nhận ra em – Huân sung sướng nhìn nàng.
_ Em mong tin anh từng ngày và hàng đêm cầu trời khẩn Phật Trời cho
anh bình an trở về.
Đêm đó Huân đưa Thảo ra phố. Anh đến gian hàng hoa và mua tặng nàng
một chậu hoa rất lạ. Đài hoa có hình Trái Tim, màu hồng phấn, nhuỵ
trắng xếp thành từng chùm. Huân đi bên nàng hồn lâng lâng như say.
Huân ao ước nếu đất nước thanh bình, anh sẽ trở về làng xưa mở
trường dạy học và sẽ cưới nàng làm vợ. Nhưng mơ ước đó anh giấu kín
trong tim cho mãi đến sau nầy.
Những ngày phép ngắn ngủi trôi qua nhanh, Huân luyến tiếc thành phố
nhỏ, con sông xanh, ngọn đồi lộng gió, mẹ hiền và người yêu để trở
về đơn vị. Đêm chia tay, Thảo khóc rất lâu. Nàng gục đầu trên vai
anh thì thầm:
_ Em mơ ngày anh trở về ở mãi bên em.
Huân cười buồn:
_ Cuộc chiến nầy không biết bao giờ chấm dứt. Lỡ sinh ra làm trai
thời loạn thì phải đền nợ nước. Anh cũng có mơ ước như em. Hãy cầu
nguyện cho anh.
Không ai nói lời yêu đương nhưng cả hai hiểu rằng tình yêu đã chín
mùi trong tim mình. Huân vuốt mái tóc nàng và hôn lên nhè nhẹ. Mái
tóc đen nhánh, mượt mà thơm mùi hoa bưởi, hoa lài để suốt cuộc hành
quân anh có cảm giác mùi thơm luôn phảng phất bên anh.
Mùa hè năm đó, trong trận đánh tại Phước Long, anh đã bị thương nặng
bên trán trái. Nếu không chửa trị kịp thời anh có thể bị mù vĩnh
viễn. Anh khuyên mọi người đừng báo tin cho gia đình. Anh sợ mẹ buồn
rầu rồi sinh bệnh và anh sợ Thảo lo lắng đau buồn. Do tình trạng
thương tích và thuốc men thiếu thốn, nên Anny, người bạn Mỹ cùng đơn
vị đề nghị đưa anh sang Hoa Kỳ chửa trị. Nhờ Anny, anh đã sống đến
hôm nay, nhưng Anny đã tử trận trên chiến trường Miền Nam sau đó.
Huân vẫn gởi thư về điều đặn cho mẹ và Thảo. Anh không nói tình
trạng thương tích của mình mà chỉ nói mình đi du học. Mấy năm sau,
sức khoẻ Huân hoàn toàn bình phục cũng là lúc anh hay tin Miền Nam
rơi vào tay cộng sản. Thế là hết. Mưa sa đã che kín lối về...
***
Đứng tần ngần trước căn nhà nhỏ xung quanh bao bọc bởi một hàng rào
bằng gổ sơn xanh, Huân vẫn chưa dám mở cổng bước vào sân. Nàng có
chờ ta như ngày xưa chăng? Chẳng hiểu nàng nghĩ gì khi ta đã viết
thư nói rõ nguyên nhân ta không trở về như lời hẹn? Nàng đã không
trả lời trực tiếp bằng điện thư như mọi khi mà mong gặp được ta tại
nhà nàng. Ba mươi năm chia tay, nhưng tình yêu vẫn còn nóng bỏng,
tha thiết, sôi nổi và hồi hộp đến vậy sao? Có thể vì ta chưa bao giờ
được yêu nàng trọn vẹn để mơ ước thầm kín cứ ầm ỉ ngày tháng không
bao giờ tắt. Đã có bao nhiêu người đàn bà trôi qua trong cuộc đời
lưu lạc, ta cũng không nhớ hết. Ta vẫn cứ dững dưng với họ như
những chiếc lá cuối thu rơi rụng bên đường hay một cơn mưa tắm mát
cho ta trong một ngày nắng hạ. Huân còn lưởng lự suy nghĩ thì có
tiếng chân và bóng Thảo xuất hiện. Huân ngẩn người nhìn nàng không
chớp mắt. Thảo mở cổng mời:
_ Xin mời anh vào nhà.
Huân theo chân Thảo bước vào trong. Căn nhà bày trí rất gọn
gàng. Một bộ bàn ghế bằng gỗ đặt cạnh cửa sổ nhìn ra vườn. Một chiếc
tủ dài, thấp có đặt khung hình của hai người đàn ông, một bình hoa
còn tươi, một lư hương và hai chiếc đèn cầy. Trên tường là một bức
tranh vẽ làng Trúc Sơn và dòng sông thân yêu của quê anh. Huân ngồi
xuống bộ so-fa và nhận từ tay Thảo ly nước trà còn nóng bốc khói.
Hôm nay, trông Thảo tươi tắn hơn, đôi mắt sâu nhiều quầng thâm đã
biến mất, nét mặt vui và bình thản.
_ Anh tìm nhà có khó lắm không?
Huân uống một ngụm nước và đáp:
_ Chỉ sợ Thảo còn ở Việt Nam thì không tìm ra mà thôi.
Giọng anh ngọt ngào và tia nhìn đắm đuối khiến Thảo quay
mặt nhìn đi nơi khác. Ôi! Cũng giọng nói thân yêu, vóc dáng chàng
không thay đổi bao nhiêu. Chàng vẫn gầy, cao và phong trần, duy chỉ
có mái tóc đã bạc quá nửa. Thảo nói như trách hờn:
_ Năm đó anh đi biền biệt và không bao giờ trở về. Em sống
trong loạn ly và biết bao nhớ nhung...
Lời Thảo như từng mũi dao đâm xuyên qua ngực Huân:
_ Lúc đó anh sợ em buồn, em lo. Nhất là anh sợ mình tật
nguyền rồi làm khổ em.
_ Em chấp nhận tất cả dù cho anh trở về không còn trọn vẹn
như xưa.
_ Anh chỉ sợ mình trở thành gánh nặng cho em – Huân chỉ tay
lên bàn thờ hỏi – Ai trên bàn thờ mà trông quen quá? Chồng em đó
phải không?
_ Vâng, chồng em. Còn người trẻ kế bên là con trai em –
Thảo nghẹn ngào – Cuối cùng rồi mọi người đều lần lượt bỏ em lại một
mình.
Huân đứng lên bước đến ngồi bên cạnh Thảo. Anh không cầm
giữ được mãi tình cảm nên đã ôm nàng vào đôi tay. Người thiếu phụ
ngã vào lòng anh khóc như mưa. Những giọt nước mắt tủi buồn cứ thế
thay phiên nhau rơi xuống vai anh. Chỉ chờ có vậy, anh ghì Thảo
trong đôi tay và hôn lên mái tóc. Nụ hôn anh làm Thảo xao xuyến. Đã
lâu lắm rồi, Thảo chưa được đón nhận nụ hôn đó. Nàng khao khát tình
yêu như như nắng hạn chờ mưa, nhất là được một lần yêu đương, ân ái
với người mà nàng hằng mơ tưởng. Nhưng Thảo đã kiềm mình lại, nàng
sợ vong linh người chồng vừa mới qua đời tủi hờn. Nàng cố gắng gở
dần đôi tay nồng ấm của Huân và nói nhỏ, giọng run run:
_ Gặp lại anh, em mãn nguyện lắm rồi. Em không còn mơ gì
hơn.
Thảo rời khỏi vòng tay Huân và ngồi nép một bên để tránh sự
va chạm. Anh hơi bất ngờ trước cử chỉ của nàng nhưng vẫn lặng thinh
không nói gì. Thảo chỉ tấm hình của chồng và hỏi:
_ Anh biết người đó là ai không?
_ Anh không nhận ra.
_ Anh Tuấn, người cùng quê với mình mà anh quên rồi sao?
Huân vỗ trán mấy cái:
_ À! Cái thằng đẹp trai, đi lính không quân đó phải không?
Huân nhớ lại khuôn mặt điển trai nhưng nham nhở của Tuấn.
Anh ta con nhà giàu nên được hưởng mọi đặc ân của kẻ có tiền. Thỉnh
thoảng anh về phép có gặp Tuấn lãng vảng trong các quán cà phê, quán
rượu. Có một lần, anh và Thảo đã chạm mặt Tuấn trong một quán nước.
Tuấn nhìn anh rồi giễu cợt:
_ Ê! Huân, đi rừng hoài làm sao giữ được người yêu. Ráng
kiếm chút đỉnh tiền để làm lính kiểng cho sướng.
Huân cười khẩy đáp:
_ Ai cũng như cậu thì cộng sản đã chiếm Miền Nam từ lâu.
_ Chuyện đó không có liên hệ gì đến tôi. Cái gì có lợi cho
mình thì mình cứ hưởng. Tội gì?
Huân quay mặt đi tỏ dấu khinh bỉ. Một thằng tham sống, sợ
chết. Hắn chỉ biết bảo vệ cho chính bản thân hắn trong khi đồng đội,
bạn bè và hàng vạn người lính băng rừng lội suối, sống chết dưới lằn
tên, mũi đạn để bảo vệ cho hắn ăn no, ngủ yên rồi đi săn gái. Một
loại sâu bọ mà còn vênh mặt lên để nói với anh rằng “thấy cái gì có
lợi cho bản thân thì hưởng”. Nếu không có Thảo, anh đã nện vào mặt
cái thằng trân tráo bẩn thỉu đó.
_ Kể chuyện của em cho anh nghe đi. Em sống thế nào?
_ Chuyện của em dài lắm. Nhưng chắc chẳng bao giờ em kể cho
anh nghe đâu.
_ Tại sao?
_ Vì quá buồn. Em không muốn anh gặp em rồi chỉ nghe chuyện
buồn.
Thảo nhìn lên bàn thờ và có cảm giác như người chết đang ghen hờn,
căm giận khi nàng mời người đàn ông nầy vào nhà. Khi Tuấn còn sống,
Tuấn đã từng ghen với hình bóng của Huân. Tuấn đay nghiến nàng đủ
điều và hành hạ nàng như một con vật. Hai mươi lăm năm chung sống,
nàng chưa có một ngày hạnh phúc. Thảo luôn phải chứng kiến cảnh
chồng đi lang thang tìm hết người đàn bà nầy đến người đàn bà khác.
Nàng luôn đơn độc trong căn nhà lạnh vắng. Tuấn không cho nàng ra
khỏi nhà tiếp xúc với ai. Cái ơn nghĩa mà Tuấn đã đem cả gia đình
nàng sang Mỹ đã khiến cho nàng âm thầm chịu đựng một người đàn ông
bội bạc, xem nàng như con ở. Nàng cũng không hiểu vì sao nàng phải
sống bên cạnh một người đàn ông ích kỷ, nhỏ nhen và tàn nhẩn đến như
vậy? Có thể đó là một cuộc trả thù dai dẳng để thoả mản lòng tự ái
của Tuấn chăng? Khi bé Khương ra đời, nàng đã có niềm vui. Bao
nhiêu tình thương nàng dành hết cho con. Nhưng định mệnh trớ trêu đã
giáng xuống số phận nàng. Người con trai duy nhất, niềm hạnh phúc
của đời nàng đã vĩnh viễn rời bỏ nàng. Khương bị tai nạn xe hơi và
chết ở tuổi đôi mươi. Nàng gần như mất trí một thời gian khá lâu. Và
dĩ nhiên, Tuấn có dịp để rời xa nàng đi tìm những người đàn bà khác.
Những người đàn ông lãng mạng, đa tình, ham gái thì cho đến tuổi nào
họ vẫn có ảo giác là họ có thể chinh phục bất cứ người nào họ muốn.
Họ không bao giờ nhìn lại mình để xem vị trí, địa vị của họ trong
hoàn cảnh mới. Họ không bao giờ chịu xếp áo để trở về với vai trò
đứng đắn của một người lớn tuổi cần được mọi người yêu thương và
kính trọng. Cho đến những năm gần đây, dù đã hơn năm mươi, Tuấn vẫn
ăn mặc chải chuốt như thuở còn trẻ để đi tìm đàn bà lạ đủ loại. Tuấn
không kịp hiểu rằng đàn bà không phải ai cũng thèm khát mơ tưởng một
người đàn ông có vợ tuổi đã quá năm mươi. Những cô gái trẻ thì chỉ
cần tiền, hết tiền là hết tình...Khi chồng nàng đã qua đời, nàng
cũng không hiểu tại sao mình lại có thể chịu đựng nỗi một người đàn
ông như Tuấn giữa một xã hội văn minh mà đàn bà giữ vai trò trọng
yếu?
_ Sao em không nói gì với anh hết. Em đang nghĩ gì? Vui hay
buồn nói cho anh biết. Em sống với Tuấn có hạnh phúc không?
Thảo giật mình, nàng thở dài:
_ Thôi nói chuyện của anh nhé! Khi con em chết, Tuấn chạy theo một
cô gái trẻ đẹp, em sống như người chết. Em buồn nhưng được tự do đôi
chút. Em có thể ra phố, gặp được vài người quen cũ. Tình cờ em đọc
được tờ báo Song Thao, em có linh cảm anh chính là tác giả. Anh kể
nhiều chuyện về làng Trúc Sơn. Em theo dõi tìm hiểu và biết chắc
chắn rằng người đó là anh. Đôi lúc em muốn tìm đến thăm anh, nhưng
em sợ chồng em sẽ không tha cho em. Em vẫn âm thầm theo dõi anh và
biết rằng anh chưa bao giờ lập gia đình. Những bài viết của anh buồn
quá làm cho em khóc thầm. Em mơ ước ngày hôm nay đã quá lâu.
Huân cười, anh lật mái tóc sang một bên, Thảo choáng váng
khi nhìn thấy một mảnh da đầu đã thành một vết sẹo sâu hóm. Nơi đó
tóc không bao giờ còn mọc lại được. Thảo rùng mình khi nghĩ đến
những ngày cô đơn, thương tật của Huân. Nàng đến vuốt nhẹ lên vết
sẹo:
_ Em không ngờ anh lại bị thương nặng như vậy. Trời cũng
thương để anh sống sót đến ngày nay.
Huân kéo Thảo vào lòng. Cả hai tâm sự với nhau cho đến khi
trời sụp tối. Huân chưa muốn về nhưng Thảo đã nhắc nhở:
_ Anh Huân. Gặp lại anh, em mừng lắm. Trời sụp tối rồi, anh
nên về cho kịp lúc trăng lên.
_ Anh không thể ở lại đây đêm nay với em sao?
_ Chưa phải lúc đâu anh. Chồng em vừa mới nằm xuống. Em
không muốn vong linh anh ấy tủi hổ.
Huân thở dài. Anh hôn nàng. Thảo cố dỗ dành và ngọt ngào
nói:
_ Anh về đi nhé! Chúng mình còn gặp lại nhau mà.
***
Huân chưa bao giờ mời Lệ Chi đi ăn. Anh hết sức tránh để cô
và mọi người đừng hiểu lầm về anh. Là một nhà văn, một nhà báo, Huân
có thể sống buông thả, bê bối, vô luân như phần lớn nhiều người khác
quan niệm. Nhưng với anh, thời gian hình như không còn để cho anh
hoang phí. Anh thấy tuổi già, cái chết đã gần kề mà những dự định
lớn để lại cho đời những tác phẩm giá trị không còn nữa. Nhất là khi
biết mình không thể mang lại hạnh phúc cho những người chân thật,
đáng yêu, đáng trân quí như Lệ Chi thì anh càng không muốn làm nàng
tổn thương và đau khổ.
_ Đi ăn với anh một bửa nhé!
Lệ Chi mở tròn mắt vui vẻ nhận lời:
_ Anh mời em thật à!
_ Vâng. Vì anh muốn nói với em một chuyện quan trọng.
Cả hai lái xe ra phố, cơn mưa cuối cùng của buổi chiều đã
chấm dứt. Những cánh chim bay từng đàn tụ tập trên những cột điện và
những hàng cây hai bên đường gọi nhau về tổ. Aùnh hoàng hôn đã chụp
xuống không gian. Mùa đông về, nên đêm xuống nhanh. Đường trơn trợt,
ẩm ướt và loang loáng nước. Huân đưa nàng vào một nhà hàng rất sang
trọng của người Tàu. Anh bảo Lệ Chi chọn món ăn. Anh nhìn cô ăn mà
không nói lời nào.
_ Sao anh không ăn gì hết vậy.
_ Anh đãi em mà. Anh thích ngồi nhìn em ăn.
Lệ Chi ăn nhỏ nhẹ và chắc lưỡi khen ngon. Khi Lệ Chi đã ăn
xong, Huân trả tiền và mời cô một chung trà. Huân uống hết một chung
trà và bắt đầu nói:
_ Lệ Chi à! Em cũng biết anh thương em như em gái phải
không? Mấy tuần nay, anh biết em đang thắc mắc về người đàn bà lạ
thường gọi điện thoại và đến thăm anh phải không?
Lệ Chi gật đầu nhè nhẹ. Khuôn mặt trắng hồng của cô thoáng
nét suy tư:
_ Bà ta là ai mà anh có vẻ quan tâm nhiều quá vậy?
_ Anh không muốn giấu em bất cứ chuyện gì. Bà ta là người
yêu cũ của anh đã thất lạc hơn ba mươi năm.
Lệ Chi hỏi dồn dập:
_ Anh còn yêu bà ta?
_ Vâng, vì nàng mà anh không bao giờ muốn lập gia đình. Bây
giờ tình cờ gặp lại nhau. Lời thề xưa không trọn nên anh quyết định
sẽ chung sống với nàng cho trọn đạo.
Lệ Chi ngẩn nhìn anh, tim nàng như muốn vở tan. Một giọt lệ
nóng bỏng chảy xuống khuôn mặt non tơ kiều diễm của người con gái
đôi mươi. Huân thấy thương cô quá. Hình ảnh cô giống y hệt hình ảnh
của Thảo cách đây hơn ba mươi năm về trước. Tuổi đầy mộng đẹp, đầy
mơ ước, đầy hoài bảo về một tình yêu và cuộc sống hạnh phúc, bình
yên. Nhưng cuộc chiến nghiệt ngã đã cướp đi tất cả. Hôm nay, một
ngày mùa đông rét mướt, ngồi trước một thiếu nữ yêu kiều như Lệ Chi
để từ chối tình yêu thì không có gì đáng trách hơn. Nhưng anh không
muốn cô phải khổ. Trái tim anh đã trao hết cho một người đàn bà đầu
tiên và cũng là người sau cùng. Lệ Chi run run nói:
_ Em hiểu. Em không dám trách phiền gì anh. Em đã đọc được
trong mắt anh những lời chối từ ngay từ đầu. Anh chỉ xem em là một
cô bé con thôi.
Huân nắm tay Lệ Chi và xoa nhè nhẹ như an ủi:
_ Em đừng khóc. Anh buồn lắm! Anh rất thương em. Thương như
một người em gái bé bỏng. Em nhìn xem. Tóc anh và tóc em không còn
giống nhau nữa.
Lệ Chi rút vội tay về, giọng cô hờn trách:
_ Em không cần biết tóc anh màu gì? Em chỉ biết rằng em yêu
anh một cách lạ lùng thế thôi.
_ Anh lại không dám...
_ Anh là một người hèn nhát. Anh sống đạo đức, anh sợ dư
luận, anh sợ miệng lưỡi người đời. Còn em, em cóc cần...
Lệ Chi bỏ chạy ra khỏi nhà hàng. Huân đuổi theo cô nhưng
không còn kịp nữa. Lệ Chi đã đón xe taxi và về nhà một mình. Suốt
đêm, Huân không thể ngủ được. Anh trăn trở nghĩ về Lệ Chi và Thảo.
Anh trấn an lòng mình khi đã nói ra tất cả sự thật cho Lệ Chi nghe.
Anh cảm thấy buồn nhưng không hối hận, thà nói cho Lệ Chi biết, còn
hơn để cô nuôi dưỡng mối hy vọng.
Hôm sau, anh đến sở hơi muộn. Khi anh bước vào toà soạn thì
nghe ông chủ nhiệm Ngọc Tùng hỏi ngay:
_ Cậu và Lệ Chi giận nhau?
_ Không.
_ Cô ấy đã xin nghĩ việc và dọn đồ đạc đi rồi.
Mặt Huân tái đi. Anh lặng lẻ không nói gì rồi bước vào
phòng. Trên bàn anh là một lá thư ngắn gọn.
“Em đã đổi đi tiểu bang khác mà không kịp từ giả anh. Đừng
giận khi em có những lời không phải với anh. Anh đúng! Em chỉ là một
cô bé. Em sẽ không bao giờ quên anh. Vẫn yêu mến, kính trọng anh”.
Lệ Chi.
Huân thẩn thờ. Anh ngồi lặng đi rất lâu trước khung hình
lớn chụp toàn thể nhân viên trong toà soạn. Lệ Chi như đang nhìn anh
hờn trách...
Một năm sau, trời bắt đầu vào xuân...
Huân ăn mặc cẩn thận hơn thường ngày và chạy nhanh ra cửa.
Anh rồ ga và lái xe phóng như bay. Ghé vào một nhà hàng, anh mua
thức ăn, một chai rượu và không quên vào tiệm mua chậu hoa có những
cánh hoa hình Trái Tim, màu hồng phấn.
Anh dừng xe trước cổng nhà Thảo rồi nhanh chân mở cửa bước
vào trong. Căn nhà vắng tanh. Anh đi vòng quanh gọi lớn:
_ Thảo ơi! Thảo ơi!
Không có tiếng đáp lại. Anh đặt chậu hoa trên bàn, sắp đặt
lại thức ăn và chén đủa. Từ buồng tắm, Thảo bước ra. Mái tóc nàng
còn ướt và thơm mùi xà phòng. Nàng mặc chiếc áo ngủ màu huyết vụ.
Huân thấy Thảo tươi mát và đẹp như khi còn con gái. Nàng mỉm cười và
tỏ dấu ngạc nhiên:
_ Trời ơi! Anh đến mà không báo. Em đang tắm – Nhìn thấy
thức ăn bày sẳn, một chậu hoa Thảo reo lên vui sướng – Lại những
cánh hoa hình Trái Tim mà em yêu thích. Anh định làm tiệc gì đây? –
Huân không trả lời mà nhìn nàng đắm đuối, Thảo chợt nhận ra mình
đang mặc chiếc áo quá mõng . Thảo lí nhí – Em đi thay quần áo.
Huân tiến về phía nàng. Anh kéo nàng ngồi trên đôi chân của
anh và thì thầm lời yêu đương:
_ Anh chờ em đã mõi mòn. Hơn ba mươi năm rồi. Anh khao khát
được sống bên em. Hôm nay, là ngày cưới của chúng mình. Đám cưới chỉ
có hai đứa thôi – Huân lấy trong túi ra một chiếc nhẩn có đính một
hạt kim cương nhỏ và đeo vào tay nàng – Bằng lòng lấy anh chớ?
Thảo áp người vào anh và trao anh một nụ hôn nồng nàn. Hai
trái tim yêu thương, lưu lạc lại tìm đến với nhau trong niềm vui
đoàn tụ. Aùnh hoàng hôn đang chiếu lấp lánh ngoài khung cửa sổ. Một
đôi chim Sơn Tước đứng rỉa lông cho nhau bên hàng dây leo có hoa tím
nở. Một bản nhạc mùa xuân reo vui vang lên “...Xa nhau đã mấy mùa
hoa nở. Chiều không em nổi nhớ ngập lòng. Hương cây rừng ngở như
hơi thở. Người yêu ơi một thuở hẹn thề...anh sẽ về mãi mãi bên
em...”
Phong Thu
(Trích trong tập truyện “Đoá Phù Dung”)
|