.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

  Phong Thu

Những cánh hoa tim

  • 16.12.2007

         Sau hàng loạt phóng sự Huân viết về cuộc khủng bố tại Trung Tâm Mậu Dịch Quốc Tế (WTC) và Pentagon, Huân tiếp tục sang Afghanistan để thuật lại diễn biến cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ và đồng minh. Những bài phóng sự nóng bỏng của anh đã gây được sự chú ý của báo chí Việt ngữ và của Mỹ. Một số nhà báo nước ngoài đã bị chết trong cuộc săn tin ở xứ Đạo Hồi có nhiều phần tử cuồng tín như Afghanistan, còn anh cứ sống nhăn răng. Bạn bè hỏi tại sao anh lại thích đến những nơi  nguy hiểm thì Huân chỉ trả lời họ bằng một nụ cười và một câu nói bất tử: “ Sinh nghề tử nghiệp. Làm nghề báo phải sống chết cho sự thật nên  mình phải đi tìm sự thật”. Có thể Huân hơi lý tưởng quá công việc của mình. Không phải ai cũng như anh, có người cầm bút vì bất đắc dĩ. Đôi khi họ cầm bút vì nhu cầu đời sống nhưng ít và hiếm ai hiểu được rằng người cầm bút bao giờ cũng cần sự hy sinh, dấn thân và có lương tâm nghề nghiệp. Ngày xưa, còn mẹ và Thảo để anh nhớ thương mà trở về. Hôm nay, một thân một mình lưu lạc trên xứ người còn ai đâu để nhớ mà về. Mẹ đã qua đời. Thảo lưu lạc phương trời nào Huân cũng không biết.  Anh đã gát súng quá sớm. Anh đã thất bại trên chiến trường và trở thành kẻ vô dụng. Anh đã bỏ mặc cho đồng đội chiến đấu một mình. Phải chi ngày đó, mảnh đạn trái pháo giết anh ngay mặt trận để xác anh được nằm lại nơi đất mẹ hiền. Anh không phải đau đớn triền miên trong mối hận mất quê hương. Anh chờ hoài, chờ hoài đến mòn mõi nhưng ngày trở về quê hương trong bóng cờ xưa đã lùi quá xa. Những ngày xuân xa xưa dù đây đó khét mùi thuốc súng, chiến trường Miền Nam đang sôi động, nhưng hoa mai vẫn nở rực rỡ, vàng hanh cả lưng chừng núi. Anh vẫn còn thấy hương vị quê hương trong ngày Tết dù ở tận rừng sâu, núi thẳm. Ở đây, anh có trở về hay không cũng không còn ai đón. Nếu anh có chết cũng không ai nhỏ cho anh một giọt lệ bên chiếc quan tài. Huân chỉ còn duy nhất vài người bạn chiến đấu ngày xưa trong quân ngũ. Tất cả tuổi đã quá lục tuần và bạn bè ai cũng phải lo chén cơm manh áo. Nhiều người còn mãi chaỵ theo ảo tưởng của danh vọng nên cũng không ai hiểu Huân.

 

Chuyến đi thăm vùng đất người Hồi Giáo là một dịp may hiếm có hay đúng hơn là giấc mơ của anh. Huân đã nhìn thấy những ngôi làng đổ nát, tang hoang đầy vết đạn lổ chổ. Anh thấy những  người già, những em bé chạy loạn, kẻ mất cha người mất chồng. Huân nhìn thấy những người phụ nữ  Hồi Giáo sống dưới chế độ Taleban thật khắc nghiệt và tăm tối. Họ phải ăn mặc trùm phủ từ đầu tới chân và chỉ còn lại một tấm lưới đủ cho hai con mắt nhìn ánh sáng mặt trời. Nếu bọn man rợ và bọn cuồng tín  thắng trên toàn thế giới thì chắc chắn loài người sẽ bị tận diệt.  Nhiều thành phố đã bỏ hoang từ thời kỳ đất nước nầy chống lại Liên Xô. Người dân Afghanistan sống trong nghèo đói, chết chóc triền miên.  Và mấy tháng gần đây, cuộc oanh kích của Hoa Kỳ và đồng minh đã tạo cho họ niềm hy vọng chế độ Taleban sẽ tan rã và cuộc sống của họ sẽ có ánh bình minh. Hoa Kỳ và quốc tế đã viện trợ khẩn cấp về thực phẩm, thuốc men và quần áo để cứu họ thoát khỏi sự đói khát và lạnh lẽo. Nhiều lúc Huân không cầm được nước mắt khi nghe một người già, một phụ nữ, hoặc một đứa trẻ nói về đời sống và sự đau khổ của họ. Vâng, chỉ có ai đã từng trãi qua chiến tranh mới thấm thía nỗi đau của sự nghèo đói, dốt nát, bần cùng và mất mát.

 

Huân đã trở lại Hoa Kỳ được một tuần, anh chưa kịp ra phố để mua quà giáng sinh tặng cho một vài người bạn thì ông chủ nhiệm lại yêu cầu anh trở lại New York.  Huân có dịp  nhìn lại đống gạch vụn của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Vào những ngày cuối năm, nhiệt độ xuống thật thấp. Trời vào đông lạnh như cắt da cắt thịt và không một tia nắng. Cây cối hai bên đường trơ trụi lá trông như những bộ xương khô khốc. Những ngày cuối cùng của năm 2001, du khách từ  khắp nơi trên thế giới đổ xô về New York. Mọi người cho rằng họ phải được một lần chứng kiến tận mắt vùng đất “Ground Zero” đã chôn sống hàng mấy ngàn người. Nhiều người phải đứng sắp hàng chờ đợi gần ba bốn tiếng đồng hồ mới tới lượt mình. Nhưng họ vẫn vui vẻ đứng dưới thời tiết giá lạnh mà không một lời cằn nhằn, than thở. Cảnh sát thành phố đã dựng một hàng rào ngăn cản không cho mọi người đến gần trung tâm Mậu Dịch Thế Giới. Nhưng từ khu vực gần đó, người ta có thể quan sát được những gì đang diễn ra ở hai toà cao ốc bị sụp đổ. Huân có thẻ phóng viên nên việc anh đến đó rất dễ dàng. Anh vẫn còn thấy những cuộn khói bốc lên như  những làn sương mỏng. Bụi cát, giấy, gạch vụn vẫn bao phủ một khu vực rộng lớn. Huân chụp thêm một loạt hình mới và đến gần những khu tưởng niệm. Trên nhiều bức tường ở New York, vẫn còn treo rất nhiều hình của những nạn nhân bị chết trong cuộc khủng bố. Huân tháo cuộn phim ra khỏi máy và lấp vào cuốn phim mới.  Ống kính anh hiện ra một người đàn bà mặc bộ đồ đen, đầu choàng chiếc khăn len đen. Khuôn  mặt khắc khổ, trắng xanh bị che kín bởi cặp kính cũng màu đen.  Người đàn bà đứng ngay bức tường rất lâu. Bà ta đặt xuống đất bên cạnh tấm hình một người đàn ông một bó hoa. Bà quỳ xuống, bàn tay xương xương, gầy gò sờ mãi tấm hình người quá cố. Người đàn bà gục đầu khá lâu khiến Huân xúc động. Anh bấm liên tục nhiều tấm ảnh và đứng ra xa quan sát. Cuối cùng, bà đã đứng lên, lấy ra một chiếc khăn tay, tháo đôi kính đen xuống và lau vội những giọt lệ. Bà ngước mắt nhìn quanh thành phố và bước vội vàng rồi biến mất trong sự huyên náo của đám đông.

 

Huân mang phim đi rửa và chuẩn bị cho bài phóng sự cuối năm. Anh chợt khựng lại khi nhìn tấm hình người đàn bà mặc đồ đen hôm nào. Một tấm hình có một nút ruồi đen nằm ở khoé môi trái khiến anh cứ boăn khoăn. Ai đây? Lại nút ruồi đen, đôi mắt hơi sâu, dịu hiền ... Huân lắc đầu mấy cái cố xua tan đi ảo ảnh đang bất chợt hiện về từ hình ảnh người đàn bà có nét Á Đông. 

 

***

 

Huân đến toà soạn như  thường lệ để gặp gở đồng nghiệp vào những ngày cuối năm. Ông chủ nhiệm Ngọc Tùng quăng trên bàn một đống thư và cười khà khà:

_ Huân à! Cậu đi có mấy tuần mà thư một đống như cái núi. Có nhiều bà, nhiều cô si tình gởi thư đến đòi gặp mặt cậu khiến tôi cũng ghen lây. Ê! Chọn một cô nào đi, nhiều em còn tươi như hoa...cứ sống cô đơn hoài sao?

Thành, một phóng viên vui tính và trẻ nhất toà soạn xen vô:

_ Anh hai đừng có lo cho anh Huân, ổng khôn tổ sư. Không lấy vợ để được nhiều đàn bà đẹp tôn thờ. Chết thì nhiều người khóc. Còn anh em mình chỉ có một bà thôi. Coi vậy mà anh ta thông  minh hơn mình.

Huân cười khì:

_ Vậy tại sao không chịu thờ chủ nghĩa độc thân hả? Lấy vợ rồi ân hận ngàn năm.

Tú Linh, cô thư ký nghe vậy chạm tự ái la oai oái:

_ Không có vợ thì ráng đốt đuốc đi tìm. Có đi xuống biển, xuống đất,  lên trời gì cũng moi cho ra. Khi có vợ rồi thì muốn có thêm. Bởi vậy ở giá cho đáng đời.

Huân biết trúng phải bà chằng lửa nên xuống giọng năn nỉ:

_ Thôi mà cô Tú Linh. Tôi đâu có nói gì cô phải hôn.

Tư Lùn la lớn:

_ Trời ơi! Hai hôm nay có một người đàn bà lạ lắm cứ gọi điện thoại đòi đến gặp anh. Tụi tôi ghen với anh, tại sao anh đã hơn năm mươi mà người ta mê anh dữ vậy? Còn tụi em “trẻ như măng mới mọc đầu làng” mà các bà không thèm để mắt tới. Tức ói máu!

Một giọng khác  trêu chọc:

_ Không biết anh Huân thì thôi, biết rồi chán như cơm nếp.

_ Vậy mà có người biết rồi vẫn mê đó.

Mọi người liếc mắt nhìn Lệ Chi, cô ký giả trẻ đẹp đang ngồi ở cuối phòng. Huân chấp hai tay ra phía trước làm dấu lạy mọi người và nói nhỏ:

_ Thôi cho tôi xin đi. Tuổi tôi đã bóng xế chiều hôm. Tôi không dám mơ ước chuyện không tưởng.

_ Trời ơi! Anh đi xa, cô ấy buồn thiu. Cô ấy cứ hỏi em về thân thế của anh. Em nói chỉ biết anh sống một mình, không có gia đình. Anh về Lệ Chi vui lắm – Tú Linh nói thêm.

_ Thật vậy sao?

Lệ Chi đến gần mọi người vừa cười vừa nói:

_ Linh nói xấu gì về tôi cho anh Huân nghe phải không?

Tú Linh chối bai bãi:

_ Đâu có. Chỉ chúc mừng anh Huân trở về bình an.

Tư  Lùn chỏ mồm vô:

_ Mấy tuần nay, Lệ Chi ngồi đâu hát đó: “...Không có anh, bầu trời như không có nắng. Không có anh mây ngàn sẽ ngừng trôi... Không có anh, đêm về em không ngủ...”

Lệ Chi đá vào chân Tư Lùn một cái, khiến anh ta cụt hứng la ơi ới!

_ Nói đúng tim đem rồi đá người ta. Bớ bà con ơi! Gà mái đá gà cồ....

Tất cả mọi người trong toà soạn phá lên cười. Lệ Chi đỏ mặt tía tai. Huân gở rối cho cô:

_ Thôi tha cho người ta đi Tư Lùn.

Mọi người cười thoải mái nhưng biết ý rút lui có trật tự. Còn lại một mình Huân và Lệ Chi, anh mời cô vào phòng anh và từ tốn hỏi:

_ Lệ Chi có khoẻ không? Có gì mới từ ngày tôi đi công tác xa?

_ Mọi chuyện vẫn vậy. Em mừng khi anh trở lại bình yên.

_ Muốn trở thành phóng viên giỏi là phải lăn vào những nơi nguy hiểm. Với lại anh chỉ có một mình. Tuổi đời, tuổi nghề đã cao. Anh chịu đựng gian khổ đã quen.

_ Em cũng muốn đi theo anh, nhưng ông chủ nhiệm không cho. Vừa rồi hay tin nhiều phóng viên bị thiệt mạng làm em lo cho anh.

Giọng nói cô chân tình đến nỗi làm anh xúc động. Cô gái nầy đã yêu mình từ lâu. Tại sao cô lại có thể yêu một người đàn ông tuổi lớn hơn cô gấp bội? Cô cần gì nơi anh? Tiền thì anh không có, anh là một người đàn ông nghèo, đồng lương một ký giả chỉ đủ trả tiền nhà, tiền  điện nước, xăng, bảo hiểm... Anh lại không phải là người hào hoa đẹp trai như hầu hết những người trẻ tuổi đang làm việc trong toà soạn. Tình yêu thật kỳ lạ. Tình yêu không có biên giới giàu nghèo, sang hèn, địa vị, tuổi tác. Nó đến tự nhiên như mưa gió, cỏ cây, vạn vật và con người không thể định nghĩa được.  Cô còn quá trẻ để nhận ra thực tế của đời sống. Tất cả, thật ra chỉ là những chiếc bóng ảo ảnh mà người đời đang đeo đuổi. Cuộc sống không như  một giấc mơ. Cuộc sống là sự thật trần trụi, tàn nhẩn, sần sùi như sỏi đá. Khi anh còn ở xa tầm tay với, cô còn khao khát, còn ngưỡng mộ, còn xem anh như thần tượng. Nhưng biết đâu, khi đời anh gắn bó với Lệ Chi thì thần tượng sẽ vụt tắt.  Nàng sẽ nhận ra một ông già vô dụng, bất lực trước một cô gái tình yêu còn bốc lửa. Sự chênh lệch về thể chất, tâm hồn và khoảng cách của thời gian giữa hai thế hệ là một nghịch lý mà anh nhìn thấy. Đó là một cái hố mà những người đàn ông thông minh, sáng suốt, mạnh mẻ mới hiểu một cách đầy đủ. Dù cho anh có trẻ trung hoá tâm hồn, dù cho anh có thể gần gủi với giới trẻ về tư tưởng, nhưng anh như một nhánh cây khô đã hết nhựa sống. Huân đặt một bàn tay trên vai cô:

_ Em làm anh cảm động quá! Nhớ đi chơi với bạn bè, hưởng trọn tuổi xuân và đừng quá lo cho anh. Cuộc sống vui tươi của em mới là quan trọng.

_ Em chỉ vui khi thấy anh vui thôi.

Huân lại cười, nét mặt anh thật nghiêm, anh nhìn sâu vào đôi mắt đen láy đang mở to  của cô và nói:

_ Anh sẽ nói chuyện với em nhiều hơn nếu có dịp. Cuộc đời đang mở cửa chào đón em. Đừng dừng lại một góc nhỏ rồi nghĩ rằng đó là bầu trời thơ mộng của mình. Nhớ lời anh dặn – Huân trở lại bàn viết, anh lấy một gói quà nhỏ trao cho Lệ Chi – Đây là quà của em.

Lệ Chi đón lấy và vui sướng reo lên khe khẻ:

_ Cảm ơn anh.

_ Huân à! Cậu lại có khách – Ông chủ nhiệm Ngọc Tùng trở lại nói nhỏ vào tai Huân.

         _ Anh có khách nữa rồi. Anh sẽ nói chuyện với em sau.

         Lệ Chi bước ra khỏi phòng Huân, cô chạm mặt một người đàn bà đứng tuổi ăn mặc rất thanh lịch. Lệ Chi khẻ cúi đầu chào và bước nhanh.

         Huân ngạc nhiên khi nhận ra người đàn bà anh đã gặp bên bức tường tưởng niệm tại New York hôm nào. Bà ta chào anh rất lịch sự và tháo cặp kính đen xuống. Huân như người bị thôi miên. Anh đứng bật dậy như bị một luồng điện chạy dọc sống lưng. Cố gắng trấn tỉnh trong vài phút, anh mời bà ta ngồi vào chiếc ghế đối diện.

         _ Thưa bà, bà tìm tôi có điều gì không?

         Người đàn bà chậm rãi trả lời:

         _ Tôi đã đọc bài viết của ông đăng trên báo và tôi thấy tấm hình của tôi bên cạnh. Cám ơn  những dòng chữ ông viết về người đàn bà cô đơn bên bức tường tưởng niệm người quá cố. Bài viết làm tôi xúc động quá! Tôi phải đến đây trực tiếp gặp ông – Ngừng lại trong một phút, người đàn bà tiếp – Không ngày nào tôi quên đọc những bài viết của ông đăng rãi rác trên các báo, nhất là những truyện ngắn, ký sự, phóng sự...và cả những bài thơ...tôi đã cắt dán trong một bộ sưu tập lớn. Tôi cứ tưởng tượng ông là một người nào đó rất quen của tôi từ thuở thiếu thời...

         Đôi mắt người đàn bà linh động nhìn Huân khiến anh bối rối nhìn nơi khác. Ai đây trời! Khuôn mặt phảng phất hình bóng cũ dù tháng năm đã tàn phá nét đẹp của tuổi thanh xuân. Mái tóc lấm tấm những sợi bạc. Những nét nhăn khắc sâu dưới hai khoé mắt được phủ mờ đi bằng một lớp phấn mịn màng. Vầng trán vuông với những sợi tóc li ti bạc trắng phủ xuống những dấu chân chim. Và nốt ruồi trên khoé môi đã nhắc nhở anh về một bóng dáng yêu thương còn sâu đậm trong tâm hồn anh. Huân cố gắng xua đuổi nỗi ám ảnh đang hiện ra trong đầu.

         _ Cảm ơn bà đã dành cho tôi nhiều ưu ái. Bà có người thân chết trong cuộc khủng bố vừa qua ở New York?

         Người đàn bà gật đầu. Nơi khoé mắt bà ngân ngấn những giọt lệ:

         _ Người đó là chồng tôi. Anh là một trong những hành khách trong chuyến bay định mệnh.

         _ Bà có tìm được thi hài của ông ấy không?

         _ Không. Tất cả đã thành tro bụi. Tôi đã đến đây nhiều lần nhưng không tìm ra được một chút dấu vết nào của ông ấy. Tôi chỉ nhận được một nắm tro mà ông thị trưởng New York đã trao lại.

         Người đàn bà nghẹn ngào. Nước mắt từ từ lăn xuống đôi gò má xanh xao. Huân đứng lên, anh lấy ly rót cho bà một ly nước và an ủi:

         _ Tôi thành thật chia buồn cùng bà. Thật là đau xót và kinh hoàng khi chết mà không được toàn thây.

         Người đàn bà lau vội những giọt lệ:

         _ Tôi không ngờ ngày anh ấy trở về với tôi cũng là lần anh ấy ra đi vĩnh viễn.

         _ Tôi chưa hiểu hết ý của bà.

         _ Chúng tôi đã chia tay nhau rất lâu. Những tháng gần đây, không hiểu vì lý do gì anh ấy thường xuyên gọi điện thoại cho tôi và than buồn. Anh ấy nói lời tạ lỗi và muốn quay trở về với tôi sống nốt cuộc đời còn lại. Nhưng định mệnh thật trớ trêu, tôi chờ mãi, chờ mãi cho đến ngày anh thật sự ra sân bay cũng là ngày anh ấy không bao giờ trở về...– Đôi mắt người đàn bà mờ lệ. Bà ngập ngừng rất lâu rồi bắt đầu tiếp –Ông là người duy nhất được nghe tôi kể một phần câu chuyện nầy.

         Huân lặng người rất lâu khi nghe người đàn bà xa lạ kể chuyện đời mình. Huân đã có một thời trai trẻ để yêu. Anh có một tình yêu đầu đời đẹp như ánh trăng thơ mộng.  Khi mất nàng vĩnh viễn, trái tim anh biến thành gỗ đá. Tháng năm cứ trôi đi mà đời người thật ngắn ngủi. Những giấc mơ anh ôm ấp chưa thành sự thật thì đầu đã bạc. Đất trời luôn luân lưu, còn đời anh thì đã đóng băng từ dạo xa nàng.  Anh ngồi nghe người đàn bà xa lạ kể chuyện đời bà sao đáng thương quá. Huân lái câu chuyện sang hướng khác để tránh cho bà ta bớt xúc động.

         _ Xin lỗi, tôi có thể gọi bà là gì cho phải phép?

         _ Bạn bè thường gọi tôi là Thảo. Ông cũng có thể gọi tôi như vậy.

         _ Thảo. Thảo...Tôi cũng có một người thân tên Thảo.

         _ Vậy à! Người nhà của ông chăng?

         _ Không người bạn gái cùng quê.

         Người đàn bà tiếp lời anh:

         _ Làng Trúc Sơn có phải không ông?

         Huân đứng bật dậy. Anh đang ngở ngàng và cố gắng nhận diện người đàn bà nhưng bà ta dột ngột đứng lên từ giả:

         _ Tôi ngồi hơi lâu, sợ phiền ông – Người đàn bà mở chiếc xách tay và lấy ra một phong bì đặt trên bàn – Ông có thể về nhà mở ra xem. Đây là món quà đầu năm mà tôi đã dành cho ông từ lâu. Xin phép ông tôi về và thành thật cảm ơn ông đã bỏ nhiều thời gian cho tôi hôm nay.

         Huân chưa kịp nói lời từ giả thì bóng bà ta đã lướt qua khung cửa. Cái gì nữa đây? Trong cuộc đời làm báo, Huân đã gặp biết bao nhiêu chuyện bất ngờ, kỳ thú. Nhưng lần nầy, Huân thật sự ngạc nhiên trước thái độ lạ lùng của người đàn bà.  Huân cầm phong thư trên tay và vội vàng mở ra xem. Bên trong là tấm hình trắng đen đã ngã sang màu vàng và chân dung một cô gái mặc áo bà ba tóc dài ngang lưng đang hôn những cánh hoa hình Trái Tim được kết lại, khuôn mặt đẹp dịu dàng và đôi môi xinh xinh có một nút ruồi đang mỉm cười.  Tim Huân như ngừng đập. Anh kêu lên một tiếng thản thốt:

         _Trời! Thảo. Có thể nào là nàng.

 

         Bên trong bì thư còn một tấm hình lúc Huân và Thảo đang thả diều trên ngọn đồi đầy dây Tơ Hồng. Ngày xưa...lại chuyện ngày xưa...

 

         ...Nhà Huân và nhà Thảo cách nhau một dòng sông. Hàng ngày đi học, Huân phải đi ngang nhà cô bé. Khi cô bé mười hai, học lớp Đệ Thất, Huân đã vào lớp Đệ Tứ.

 

Nhà cả hai gần bờ sông nên thỉnh thoảng Huân hay dẫn cô bé ra bến đò nhìn dòng sông và những chuyến đò ngang. Dù chiến tranh mỗi ngày mỗi ác liệt, nhưng dòng sông vẫn hiền hoà trôi xuôi mang theo những đám lục bình có hoa tím nở và những chiếc xuồng con chở đầy rau quả, cây trái xuôi ngược mỗi ngày. Huân thường ví dòng sông là anh và con đò là cô bé. Dòng sông luôn mang nặng phù sa, mang nước về tắm mát cây trái xóm làng và dòng sông không thể thiếu con đò. Ngày nào vắng chuyến đò ngang, dòng sông buồn hiu hắt vì thiếu tiếng cười của cô gái quê mộc mạc. Nghe Huân nói, cô bé chỉ mỉm cười ngây thơ, đôi mắt trong veo nhìn xa xa những cánh chim rừng đang xoãi cánh bên kia cánh rừng trùng điệp. Mỗi độ hè sang, Huân thường làm những con diều to bằng những cây trúc uốn cong và dán bằng những loại giấy học trò đủ màu. Diều của Huân thường có màu vàng, dán hình hai con mắt một nhắm, một mở và một cái lưỡi thè ra rất dài, đuôi diều ngắn, màu da cam. Diều của cô bé thì màu xanh da trời, hai đuôi dài được dán thật đẹp bằng nhiều màu nối tiếp từ trên xuống. Và đặc biệt giữa cánh diều có hình một trái tim. Những ngày hè trời nắng ráo, Huân và cô bé lên đồi Tơ Hồng thả diều. Đồi Tơ Hồng nằm dọc theo bờ sông nên mát rượi và thơ mộng. Nơi đây, cây Tơ Hồng mọc rất nhiều. Xung quanh cỏ mọc xanh rì và nhiều bóng cây to có tán xoè rộng. Từ nơi nầy, Huân và cô bé có thể chạy nhảy trên đồi và thả cho diều bay căng trong gió lộng giữa trời cao rực nắng. Cô bé cười thích thú khi thấy cánh diều mỗi ngày một nhỏ lại như một con chim đại bàng đang đùa giỡn với mây trời. Huân trao cho cô bé chùm mận chín đỏ ao và gói muối ớt, cả hai ngồi ăn ngon lành. Huân hỏi cô bé:

_ Thảo biết tại sao người ta gọi đây là đồi Tơ Hồng không?

_ Tại có nhiều cây Tơ Hồng.

_ Không phải vậy đâu.

_ Anh Huân nói cho Thảo nghe đi.

_ Ngọn đồi nầy linh thiêng lắm. Ai lên đây một lần thì về sẽ mang bịnh tương tư.

Cô bé chớp chớp đôi mắt:

_ Bệnh tương tư là bệnh gì? Mang bệnh rồi có chết không?

_ Không chết nhưng người lâng lâng như ở trên mây.

_ Bệnh gì kỳ vậy?

_ Bệnh tương tư khó giải thích lắm. Vài năm nữa khi Thảo lớn lên thì Thảo sẽ hiểu.

Cô bé bấu Huân thật đau và làm nủng:

_ Nhưng bây giờ Thảo đã mười hai tuổi rồi.

_ Mười hai tuổi còn bé lắm. Thảo chỉ thích ăn ô mai và làm nủng thôi. Chẳng hạn như mùa hè nào cũng đòi anh làm diều, thích đi tắm sông và leo cây thì làm người lớn với ai.

_ Vậy mùa hè năm sau, Thảo không thèm thả diều nữa. Thảo thích làm người lớn để nghe anh nói về chứng bệnh “tương tư”.

Cô bé cũng hỏi mẹ nhiều lần nhưng mẹ chỉ cười và trả lời y hệt Huân. Còn mấy đứa bạn tinh nghịch thì cười lên ầm ỉ và trêu chọc cô bé đến đỏ mặt tía tai.

Mấy năm sau, Huân đã học xong đệ nhị cấp. Huân đậu tú tài toàn phần thì có lệnh tổng động viên. Anh xin gia nhập quân đội. Ngày anh nhập ngũ, cô bé tóc mới chấm vai. Đôi mắt thơ ngây đã biết chớm buồn và thoáng chút mộng mơ. Huân nắm bàn tay thon thả bé bỏng của cô bé và gởi lại nơi đó một nụ hôn. Cô bé khóc, hai bờ vai run len nhè nhẹ:

_ Anh nhớ về thăm Thảo nha anh!

Huân lau mắt cho cô bé, anh hiểu cuộc chiến không dễ gì dập tắt, đã có biết bao bạn bè ra đi rồi không bao giờ trở lại. Bom đạn vô tình đã cướp đi biết bao người anh yêu mến. Biết đâu ngày mai, trong góc rừng, trên cao nguyên mù sương nào đó, anh sẽ ngã xuống, xác thân anh sẽ hoà lẫn vào cát bụi, cỏ cây. Thế cũng xong một đời người phải không cô bé. Tại sao anh lại quá nặng lòng với cô bé đến thế ? Cô bé có hiểu được rằng hình bóng cô bé đã đè nặng tim anh không?  Cô bé còn thơ ngây quá! Huân không muốn gieo vào lòng cô một suy nghĩ nào đó khác hơn tình bạn? Cô bé chưa đủ trí khôn để nhận diện ra tình yêu thầm kín mà anh đã dành cho cô bé. Huân dúi trên tay cô bé tấm hình mà cả hai  ngồi thả diều trên đồi Tơ Hồng. Phía sau, anh có viết hai câu thơ ngắn gọn: “Dây Tơ Hồng không trồng mà mọc. Xa em rồi anh nhớ nghìn năm”. Chưa xa mà đã xa, có phải chăng hai câu thơ như một dấu hiệu của định mệnh để sau nầy Huân mất cô bé vĩnh viễn. Có phải chăng chiến tranh nghiệt ngã đã làm tan nát quê hương và vùi dập biết bao lứa tuổi đang yêu? Huân thường xuyên viết thư về thăm gia đình và cô bé. Huân còn một người mẹ để nhớ và một người bạn gái để mơ ước ngày yên tiếng súng trở về.  Hàng năm, anh chỉ được có ba ngày phép. Những ngày anh về, nhà vui như  ngày hội. Mẹ nấu đủ món cho anh ăn. Mẹ chăm sóc cho anh giống  như ngày anh còn bé. Cô bé thì mỗi ngày một lớn. Cô mang đến cho anh những lá thư đã viết mà chưa kịp gởi. Trong đó có cả những bài luận văn cô viết về người lính để tặng anh. Niềm vui đó chỉ thoáng qua ngắn ngủi, rồi anh lại trở về đơn vị.

Chiến trường vào những năm 70 vô cùng ác liệt. Cộng sản đã mở chiến dịch tấn công nhiều mặt. Anh đã xin phép đơn vị nhiều lần nhưng vẫn không được về thăm nhà.  Đầu năm 71, anh được về phép ba hôm. Ngày về biết bao háo hức, vui buồn lẫn lộn. Mẹ anh chờ anh bên khung cửa. Bà hôn anh trong màng nước mắt. Cả đêm bà không ngủ, bà rờ nắn tay chân anh, đắp chăn cho anh và nói chuyện cho đến nữa đêm. Hôm sau, anh đến nhà thăm Thảo, cô bé ngày xưa bây giờ tóc đã dài đến nữa lưng. Đôi mắt long lanh nhìn anh ngở ngàng vui sướng. Huân choáng váng một phút trước nét đẹp dịu hiền của người thiếu nữ.

Nàng cười mà nước mắt rưng rưng:

_ Anh đã về.

Huân không dám đến ôm nàng như ngày xưa. Cô bé Thảo đã thành thiếu nữ.

_ Anh không còn nhận ra em – Huân sung sướng nhìn nàng.

_ Em mong tin anh từng ngày và hàng đêm cầu trời khẩn Phật Trời cho anh bình an trở về.

Đêm đó Huân đưa Thảo ra phố. Anh đến gian hàng hoa và mua tặng nàng một chậu hoa rất lạ. Đài hoa có hình Trái Tim, màu hồng phấn, nhuỵ trắng xếp thành  từng chùm. Huân đi bên nàng hồn lâng lâng như say. Huân ao ước nếu đất nước thanh bình, anh sẽ trở về làng xưa mở trường dạy học và sẽ cưới nàng làm vợ. Nhưng mơ ước đó anh giấu kín trong tim cho mãi đến sau nầy.

Những ngày phép ngắn ngủi trôi qua nhanh, Huân luyến tiếc thành phố nhỏ, con sông xanh, ngọn đồi lộng gió, mẹ hiền và người yêu để trở về đơn vị. Đêm chia tay, Thảo khóc rất lâu. Nàng gục đầu trên vai anh thì thầm:

_ Em mơ ngày anh trở về ở mãi bên em.

Huân cười buồn:

_ Cuộc chiến nầy không biết bao giờ chấm dứt. Lỡ sinh ra làm trai thời loạn thì phải đền nợ nước. Anh cũng có mơ ước như em. Hãy cầu nguyện cho anh.

Không ai nói lời yêu đương nhưng cả hai hiểu rằng tình yêu đã chín mùi trong tim mình. Huân vuốt mái tóc nàng và hôn lên nhè nhẹ. Mái tóc đen nhánh, mượt mà thơm mùi hoa bưởi, hoa lài để suốt cuộc hành quân anh có cảm giác mùi thơm luôn phảng phất bên anh.

Mùa hè năm đó, trong trận đánh tại Phước Long, anh đã bị thương nặng bên trán trái. Nếu không chửa trị kịp thời anh có thể bị mù vĩnh viễn. Anh khuyên mọi người đừng báo tin cho gia đình. Anh sợ mẹ buồn rầu rồi sinh bệnh và anh sợ Thảo lo lắng đau buồn. Do tình trạng thương tích và thuốc men thiếu thốn, nên Anny, người bạn Mỹ cùng đơn vị đề nghị đưa anh sang Hoa Kỳ chửa trị. Nhờ Anny, anh đã sống đến hôm nay, nhưng Anny đã tử trận trên chiến trường Miền Nam sau đó.  Huân vẫn gởi thư về điều đặn cho mẹ và Thảo. Anh không nói tình trạng thương tích của mình mà chỉ nói mình đi du học. Mấy năm sau, sức khoẻ Huân hoàn toàn bình phục cũng là lúc anh hay tin Miền Nam rơi vào tay cộng sản. Thế là hết.  Mưa sa đã che kín lối về...

                                                                    

 ***

     

Đứng tần ngần trước căn nhà nhỏ xung quanh bao bọc bởi một hàng rào bằng gổ sơn xanh, Huân vẫn chưa dám mở cổng bước vào sân. Nàng có chờ ta như ngày xưa chăng? Chẳng hiểu nàng nghĩ gì khi ta đã viết thư nói rõ nguyên nhân ta không trở về như lời hẹn? Nàng đã không trả lời trực tiếp bằng điện thư như mọi khi mà mong gặp được ta tại nhà nàng. Ba mươi năm chia tay, nhưng tình yêu vẫn còn  nóng bỏng, tha thiết, sôi nổi và hồi hộp đến vậy sao? Có thể vì ta chưa bao giờ được yêu nàng trọn vẹn để mơ ước thầm kín cứ ầm ỉ ngày tháng không bao giờ tắt. Đã có bao nhiêu người đàn bà trôi qua trong cuộc đời lưu lạc, ta cũng không nhớ hết. Ta vẫn cứ dững dưng với họ như  những chiếc lá cuối thu rơi rụng bên đường hay một cơn mưa tắm mát cho ta trong một ngày nắng hạ. Huân còn lưởng lự suy nghĩ thì có tiếng chân và bóng Thảo xuất hiện. Huân ngẩn người nhìn nàng không chớp mắt.  Thảo mở cổng mời:

_ Xin mời anh vào nhà.

         Huân theo chân Thảo bước vào trong. Căn nhà bày trí rất gọn gàng. Một bộ bàn ghế bằng gỗ đặt cạnh cửa sổ nhìn ra vườn. Một chiếc tủ dài, thấp có đặt khung hình của hai người đàn ông, một bình hoa còn tươi, một lư hương và hai chiếc đèn cầy. Trên tường là một bức tranh vẽ làng Trúc Sơn và dòng sông thân yêu của quê anh. Huân ngồi xuống bộ so-fa và nhận từ tay Thảo ly nước trà còn nóng bốc khói. Hôm nay, trông Thảo tươi tắn hơn, đôi mắt sâu nhiều quầng thâm đã biến mất, nét mặt vui và bình thản.

         _ Anh tìm nhà có khó lắm không?

         Huân uống một ngụm nước và đáp:

         _ Chỉ sợ Thảo còn ở Việt Nam thì không tìm ra mà thôi.

         Giọng anh ngọt ngào và tia nhìn đắm đuối khiến Thảo quay mặt nhìn đi nơi khác.  Ôi! Cũng giọng nói thân yêu, vóc dáng chàng không thay đổi bao nhiêu.  Chàng vẫn gầy, cao và phong trần, duy chỉ có mái tóc đã bạc quá nửa. Thảo nói như trách hờn:

         _ Năm đó anh đi biền biệt và không bao giờ trở về. Em sống trong loạn ly và biết bao nhớ nhung...

         Lời Thảo như từng mũi dao đâm xuyên qua ngực Huân:

         _ Lúc đó anh sợ em buồn, em lo. Nhất là anh sợ mình tật nguyền rồi làm khổ em.

         _ Em chấp nhận tất cả dù cho anh trở về không còn trọn vẹn như xưa.

         _ Anh chỉ sợ mình trở thành gánh nặng cho em – Huân chỉ tay lên bàn thờ hỏi – Ai trên bàn thờ mà trông quen quá? Chồng em đó phải không?

         _ Vâng, chồng em. Còn người trẻ kế bên là con trai em – Thảo nghẹn ngào – Cuối cùng rồi mọi người đều lần lượt bỏ em lại một mình.

         Huân đứng lên bước đến ngồi bên cạnh Thảo. Anh không cầm giữ được mãi tình cảm nên đã ôm nàng vào đôi tay. Người thiếu phụ ngã vào lòng anh khóc như mưa. Những giọt nước mắt tủi buồn cứ thế thay phiên nhau rơi xuống vai anh. Chỉ chờ có vậy, anh ghì Thảo trong đôi tay và hôn lên mái tóc. Nụ hôn anh làm Thảo xao xuyến.  Đã lâu lắm rồi, Thảo chưa được đón nhận nụ hôn đó. Nàng khao khát tình yêu như  như nắng hạn chờ mưa, nhất là được một lần yêu đương, ân ái với người mà nàng hằng mơ tưởng. Nhưng Thảo đã kiềm mình lại, nàng sợ vong linh người chồng vừa mới qua đời tủi hờn. Nàng cố gắng gở dần đôi tay nồng ấm của Huân và nói nhỏ, giọng run run:

         _ Gặp lại anh, em mãn nguyện lắm rồi. Em không còn mơ gì hơn.

         Thảo rời khỏi vòng tay Huân và ngồi nép một bên để tránh sự va chạm. Anh hơi bất ngờ trước cử chỉ của nàng nhưng vẫn lặng thinh không nói gì. Thảo chỉ tấm hình của chồng và hỏi:

         _ Anh biết người đó là ai không?

         _ Anh không nhận ra.

         _ Anh Tuấn, người cùng quê với mình mà anh quên rồi sao?

         Huân vỗ trán mấy cái:

         _ À! Cái thằng đẹp trai, đi lính không quân đó phải không?

         Huân nhớ lại khuôn mặt điển trai nhưng nham nhở của Tuấn. Anh ta con nhà giàu nên được hưởng mọi đặc ân của kẻ có tiền. Thỉnh thoảng anh về phép có gặp Tuấn lãng vảng trong các quán cà phê, quán rượu. Có một lần, anh và Thảo đã chạm mặt Tuấn trong một quán nước. Tuấn nhìn anh rồi giễu cợt:

         _ Ê! Huân, đi rừng hoài làm sao giữ được người yêu. Ráng kiếm chút đỉnh tiền để làm lính kiểng cho sướng.

         Huân cười khẩy đáp:

         _ Ai cũng như cậu thì cộng sản đã chiếm Miền Nam từ lâu.

         _ Chuyện đó không có liên hệ gì đến tôi. Cái gì có lợi cho mình thì mình cứ hưởng. Tội gì?

         Huân quay mặt đi tỏ dấu khinh bỉ. Một thằng tham sống, sợ chết. Hắn chỉ biết bảo vệ cho chính bản thân hắn trong khi đồng đội, bạn bè và hàng vạn người lính băng rừng lội suối, sống chết dưới lằn tên, mũi đạn để bảo vệ cho hắn ăn no, ngủ yên rồi đi  săn gái. Một loại sâu bọ mà còn vênh mặt lên để nói với anh rằng “thấy cái gì có lợi cho bản thân thì hưởng”. Nếu không có Thảo, anh đã nện vào mặt cái thằng trân tráo bẩn thỉu đó.

         _ Kể chuyện của em cho anh nghe đi. Em sống thế nào?

         _ Chuyện của em dài lắm. Nhưng chắc chẳng bao giờ em kể cho anh nghe đâu.

         _ Tại sao?

         _ Vì quá buồn. Em không muốn anh gặp em rồi chỉ nghe chuyện buồn.

Thảo  nhìn lên bàn thờ và có cảm giác như  người chết đang ghen hờn, căm giận khi nàng mời người đàn ông nầy vào nhà. Khi Tuấn còn sống, Tuấn đã từng ghen với hình bóng của Huân.  Tuấn đay nghiến nàng đủ điều và hành hạ nàng như một con vật. Hai mươi lăm năm chung sống, nàng chưa có một ngày hạnh phúc. Thảo luôn phải chứng kiến cảnh chồng đi lang thang tìm hết người đàn bà nầy đến người đàn bà khác.  Nàng luôn đơn độc trong căn nhà lạnh vắng. Tuấn không cho nàng ra khỏi nhà tiếp xúc với ai. Cái ơn nghĩa mà Tuấn đã đem cả gia đình nàng sang Mỹ đã khiến cho nàng âm thầm chịu đựng một người đàn ông bội bạc, xem nàng như con ở.  Nàng  cũng không hiểu vì sao nàng phải sống bên cạnh một người đàn ông ích kỷ, nhỏ nhen và tàn nhẩn đến như vậy? Có thể đó là một cuộc trả thù dai dẳng để thoả mản lòng tự ái của Tuấn chăng?  Khi bé Khương ra đời, nàng đã có niềm vui. Bao nhiêu tình thương nàng dành hết cho con. Nhưng định mệnh trớ trêu đã giáng xuống số phận nàng. Người con trai duy nhất, niềm hạnh phúc của đời nàng đã vĩnh viễn rời bỏ nàng. Khương bị tai nạn xe hơi và chết ở tuổi đôi mươi. Nàng gần như mất trí một thời gian khá lâu. Và dĩ nhiên, Tuấn có dịp để rời xa nàng đi tìm những người đàn bà khác. Những người đàn ông lãng mạng, đa tình, ham gái thì cho đến tuổi nào họ vẫn có ảo giác là họ có thể chinh phục bất cứ người nào họ muốn. Họ không bao giờ nhìn lại mình để xem vị trí, địa vị của họ trong hoàn cảnh mới. Họ không bao giờ chịu xếp áo để trở về với vai trò đứng đắn của một người lớn tuổi cần được mọi người yêu thương và kính trọng. Cho đến những năm gần đây, dù đã hơn năm mươi, Tuấn vẫn ăn mặc chải chuốt như thuở còn trẻ để đi tìm đàn bà lạ đủ loại. Tuấn không kịp hiểu rằng đàn bà không phải ai cũng thèm khát mơ tưởng một người đàn ông có vợ tuổi đã quá năm mươi. Những cô gái trẻ thì chỉ cần tiền, hết tiền là hết tình...Khi chồng nàng đã qua đời, nàng cũng không hiểu tại sao mình lại có thể chịu đựng nỗi một người đàn ông như Tuấn giữa một xã hội văn minh mà đàn bà giữ vai trò trọng yếu?

         _ Sao em không nói gì với anh hết. Em đang nghĩ gì? Vui hay buồn nói cho anh biết. Em sống với Tuấn có hạnh phúc không?

         Thảo giật mình, nàng thở dài:

_ Thôi nói chuyện của anh nhé! Khi con em chết, Tuấn chạy theo một cô gái trẻ đẹp, em sống như người chết. Em buồn nhưng được tự do đôi chút. Em có thể ra phố, gặp được vài người quen cũ. Tình cờ em đọc được tờ báo Song Thao, em có linh cảm anh chính là tác giả. Anh kể nhiều chuyện về làng Trúc Sơn. Em theo dõi tìm hiểu và biết chắc chắn rằng người đó là anh. Đôi lúc em muốn tìm đến thăm anh, nhưng em sợ chồng em sẽ không tha cho em. Em vẫn âm thầm theo dõi anh và biết rằng anh chưa bao giờ lập gia đình. Những bài viết của anh buồn quá làm cho em khóc thầm. Em mơ ước ngày hôm nay đã quá lâu.

         Huân cười, anh lật mái tóc sang một bên, Thảo choáng váng khi nhìn thấy một mảnh da đầu đã thành một vết sẹo sâu hóm. Nơi đó tóc không bao giờ còn mọc lại được.  Thảo rùng mình khi nghĩ đến những ngày cô đơn, thương tật của Huân.  Nàng đến vuốt nhẹ lên vết sẹo:

         _ Em không ngờ anh lại bị thương nặng như vậy. Trời cũng thương để anh sống sót đến ngày nay.

         Huân kéo Thảo vào lòng. Cả hai tâm sự với nhau cho đến khi trời sụp tối. Huân chưa muốn về nhưng Thảo đã nhắc nhở:

         _ Anh Huân. Gặp lại anh, em mừng lắm. Trời sụp tối rồi, anh nên về cho kịp lúc  trăng lên.

         _ Anh không thể ở lại đây đêm nay với em sao?

         _ Chưa phải lúc đâu anh. Chồng em vừa mới nằm xuống. Em không muốn vong linh anh ấy tủi hổ.

         Huân thở dài. Anh hôn nàng. Thảo cố dỗ dành và ngọt ngào nói:

         _ Anh về đi nhé! Chúng mình còn gặp lại nhau mà.

 

***

 

         Huân chưa bao giờ mời Lệ Chi đi ăn. Anh hết sức tránh để cô và mọi người đừng hiểu lầm về anh. Là một nhà văn, một nhà báo, Huân có thể sống buông thả, bê bối, vô luân như phần lớn nhiều người khác quan niệm. Nhưng với anh, thời gian hình như không còn để cho anh hoang phí. Anh thấy tuổi già, cái chết đã gần kề mà những dự định lớn để lại cho đời những tác phẩm giá trị không còn nữa. Nhất là khi biết mình không thể mang lại hạnh phúc cho những người chân thật, đáng yêu, đáng trân quí như Lệ Chi thì anh càng không muốn làm nàng tổn thương và đau khổ.

         _ Đi ăn với anh một bửa nhé!

         Lệ Chi mở tròn mắt vui vẻ nhận lời:

         _ Anh mời em thật à!

         _ Vâng. Vì anh muốn nói với em một chuyện quan trọng.

         Cả hai lái xe ra phố, cơn mưa cuối cùng của buổi chiều đã chấm dứt. Những cánh chim bay từng đàn tụ tập trên những cột điện và những hàng cây hai bên đường gọi nhau về tổ. Aùnh hoàng hôn đã chụp xuống không gian. Mùa đông về, nên đêm xuống nhanh. Đường trơn trợt, ẩm ướt và loang loáng nước. Huân đưa nàng vào một nhà hàng rất sang trọng của người Tàu. Anh bảo Lệ Chi chọn món ăn. Anh nhìn cô ăn mà không nói lời nào.

         _ Sao anh không ăn gì hết vậy.

         _ Anh đãi em mà. Anh thích ngồi nhìn em ăn.

         Lệ Chi ăn nhỏ nhẹ và chắc lưỡi khen ngon. Khi Lệ Chi đã ăn xong, Huân trả tiền và mời cô một chung trà. Huân uống hết một chung trà và bắt đầu nói:

         _ Lệ Chi à! Em cũng biết anh thương em như em gái phải không? Mấy tuần nay, anh biết em đang thắc mắc về người đàn bà lạ thường gọi điện thoại và đến thăm anh phải không?

         Lệ Chi gật đầu nhè nhẹ. Khuôn mặt trắng hồng của cô thoáng nét suy tư:

         _ Bà ta là ai mà anh có vẻ quan tâm nhiều quá vậy?

         _ Anh không muốn giấu em bất cứ chuyện gì. Bà ta là người yêu cũ của anh đã thất lạc hơn ba mươi năm.

         Lệ Chi hỏi dồn dập:

         _ Anh còn yêu bà ta?

         _ Vâng, vì nàng mà anh không bao giờ muốn lập gia đình. Bây giờ tình cờ gặp lại nhau. Lời thề xưa không trọn nên anh quyết định sẽ chung sống với nàng cho trọn đạo.

         Lệ Chi ngẩn nhìn anh, tim nàng như muốn vở tan. Một giọt lệ nóng bỏng chảy xuống khuôn mặt non tơ kiều diễm của người con gái đôi mươi. Huân thấy thương cô quá. Hình ảnh cô giống y hệt hình ảnh của Thảo cách đây hơn ba mươi năm về trước. Tuổi đầy mộng đẹp, đầy mơ ước, đầy hoài bảo về một tình yêu và cuộc sống hạnh phúc, bình yên. Nhưng cuộc chiến nghiệt ngã đã cướp đi tất cả. Hôm nay, một ngày mùa đông rét mướt, ngồi trước một thiếu nữ yêu kiều như Lệ Chi để từ chối tình yêu thì không có gì đáng trách hơn. Nhưng anh không muốn cô phải khổ. Trái tim anh đã trao hết cho một người đàn bà đầu tiên và cũng là người sau cùng. Lệ Chi run run nói:

         _ Em hiểu. Em không dám trách phiền gì anh. Em đã đọc được trong mắt anh những lời chối từ ngay từ đầu. Anh chỉ xem em là một cô bé con thôi.

         Huân nắm tay Lệ Chi và xoa nhè nhẹ như an ủi:

         _ Em đừng khóc. Anh buồn lắm! Anh rất thương em. Thương như một người em gái bé bỏng. Em nhìn xem. Tóc anh và tóc em không còn giống nhau nữa.

         Lệ Chi rút vội tay về, giọng cô hờn trách:

         _ Em không cần biết tóc anh màu gì? Em chỉ biết rằng em yêu anh một cách lạ lùng thế thôi.

         _ Anh lại không dám...

         _ Anh là một người hèn nhát. Anh sống đạo đức, anh sợ dư luận, anh sợ miệng lưỡi người đời. Còn em, em cóc cần...

         Lệ Chi bỏ chạy ra khỏi nhà hàng. Huân đuổi theo cô nhưng không còn kịp nữa. Lệ Chi đã đón xe taxi và về nhà một mình. Suốt đêm, Huân không thể ngủ được. Anh trăn trở nghĩ về Lệ Chi và Thảo. Anh trấn an lòng mình khi đã nói ra tất cả sự thật cho Lệ Chi nghe. Anh cảm thấy buồn nhưng không hối hận, thà nói cho Lệ Chi biết, còn hơn để cô nuôi dưỡng mối hy vọng.

         Hôm sau, anh đến sở hơi muộn. Khi anh bước vào toà soạn thì nghe ông chủ nhiệm Ngọc Tùng hỏi ngay:

         _ Cậu và Lệ Chi giận nhau?

         _ Không.

         _ Cô ấy đã xin nghĩ việc và dọn đồ đạc đi rồi.

         Mặt Huân tái đi. Anh lặng lẻ không nói gì rồi bước vào phòng. Trên bàn anh là một lá thư ngắn gọn.

         “Em đã đổi đi tiểu bang khác mà không kịp từ giả anh. Đừng giận khi em có những lời không phải với anh. Anh đúng! Em chỉ là một cô bé. Em sẽ không bao giờ quên anh. Vẫn yêu mến, kính trọng anh”. Lệ Chi.

 

         Huân thẩn thờ. Anh ngồi lặng đi rất lâu trước khung hình lớn chụp toàn thể nhân viên trong toà soạn. Lệ Chi như đang nhìn anh hờn trách...

 

         Một năm sau, trời bắt đầu vào xuân...

         Huân ăn mặc cẩn thận hơn thường ngày và chạy nhanh ra cửa. Anh rồ ga và lái xe phóng như bay. Ghé vào một nhà hàng, anh mua thức ăn, một chai rượu và không quên vào tiệm mua chậu hoa có những cánh hoa hình Trái Tim, màu hồng phấn.

         Anh dừng xe trước cổng nhà Thảo rồi nhanh chân mở cửa bước vào trong. Căn nhà vắng tanh. Anh đi vòng quanh gọi lớn:

         _ Thảo ơi! Thảo ơi!

         Không có tiếng đáp lại. Anh đặt chậu hoa trên bàn, sắp đặt lại thức ăn và chén đủa. Từ buồng tắm, Thảo bước ra. Mái tóc nàng còn ướt và thơm mùi xà phòng. Nàng mặc chiếc áo ngủ màu huyết vụ. Huân thấy Thảo tươi mát và đẹp như khi còn con gái. Nàng mỉm cười và tỏ dấu ngạc nhiên:

         _ Trời ơi! Anh đến mà không báo. Em đang tắm – Nhìn thấy thức ăn bày sẳn, một chậu hoa Thảo reo lên vui sướng – Lại những cánh hoa hình Trái Tim mà em yêu thích.  Anh định làm tiệc gì đây? – Huân không trả lời mà nhìn nàng đắm đuối, Thảo chợt nhận ra mình đang mặc chiếc áo quá mõng . Thảo lí nhí – Em đi thay quần áo.

         Huân tiến về phía nàng. Anh kéo nàng ngồi trên đôi chân của anh và thì thầm lời yêu đương:

         _ Anh chờ em đã mõi mòn. Hơn ba mươi năm rồi. Anh khao khát được sống bên em. Hôm nay, là ngày cưới của chúng mình. Đám cưới chỉ có hai đứa thôi – Huân lấy trong túi ra một chiếc nhẩn có đính một hạt kim cương nhỏ và đeo vào tay nàng – Bằng lòng lấy anh chớ?

         Thảo áp người vào anh và trao anh một nụ hôn nồng nàn. Hai trái tim yêu thương, lưu lạc lại tìm đến với nhau trong niềm vui đoàn tụ. Aùnh hoàng hôn đang chiếu lấp lánh ngoài khung cửa sổ. Một đôi chim Sơn Tước đứng rỉa lông cho nhau bên hàng dây leo có hoa tím nở. Một bản nhạc mùa xuân reo vui vang lên “...Xa nhau đã mấy mùa hoa nở. Chiều không em nổi nhớ ngập lòng. Hương cây rừng ngở như  hơi thở. Người yêu ơi một thuở hẹn thề...anh sẽ về mãi mãi bên em...”

 

 

Phong Thu

(Trích trong tập truyện “Đoá Phù Dung”)

 

 


PHONG THU

Tên thật: Nguyễn thị Phong Thu, sinh Trưởng tại Bình Dương, Việt Nam.

Cựu học sinh Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, Gia Định, Sài Gòn.

Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn với hai bộ môn Kỹ thuật Văn chương và Tâm Lý Giáo Duc.

Cựu giáo Sư Trường Cao Đẳng Sư Phạm, Bình Dương, Việt Nam.

Bắt đầu cầm bút 1980. Những tác phẩm đã xuất bản tại Hoa Kỳ:

Truyện ngắn:

- Cô Bé Bên Giàn Hoa Giấy Đỏ (2003)

- Đóa Phù Dung (2005)

 Nhà Văn Phong Thu và gia đình hiện đang cư ngụ tại Maryland, WA - DC

Phù Sa.

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.