Cô
bé ôm chồng báo trên tay đi khắp nơi trong thành phố Sài Gòn.
Nếu sáng nó có mặt ở hồ con Rùa, vườn Tao Đàn, ngã tư Bảy Hiền,
thì trưa hay chiều nó chạy đến khu vực ngã ba Ông Tạ, Lăng ông
bà Chiểu, chợ Bến Thành...
Nó chạy đi suốt ngày không biết mệt. Đôi chân giang hồ, phiêu
bạc của nó đã chai sạn trong những tháng ngày dầm mưa, dãi nắng.
Nó đi qua nhiều biệt thự, cao ốc, siêu thị, cửa hàng. Nơi mà nó
chỉ được đứng nhìn trong sự thèm khát, mơ ước. Đôi khi nó đến
những biệt thự sang trọng, sơn phết xinh đẹp, lịch sự nó biết đó
là nhà của cán bộ, hay của những người có thân nhân ở nước
ngoài. Có người tội nghiệp cũng mua cho nó vài tờ báo, nhưng
cũng có người thấy nó là tránh xa như hủi. Nó cũng biết rằng nơi
nào là chung cư hay cơ quan nhà nước thì sập xệ, tồi tàn, dơ
bẩn, xuống cấp. Ở những xóm lao động nghèo thì nơi đó nó không
hy vọng kiếm ra tiền. Người dân nghèo không có tiền ăn lấy đâu
ngày nào cũng mua báo. Phải đi kiếm những người buôn bán, giới
trí thức có tiền, người quen của ba ngày xưa và tìm Việt kiều.
Mấy đứa con nít bán báo, bán vé số, bán nước mía, đánh giầy...
cu-li như nó, có kinh nghiệm kiếm tiền từ những Việt kiều về
thăm quê hương. Nếu ngày nào trúng mánh, kiếm được 5 đô la là
ấm, cả nhà có thể cháo rau trong hai ngày. Bé Mai suy nghĩ bâng
quơ về cơn mưa chiều mà lòng nặng trĩu nỗi lo. Em trai nó bịnh,
nhà không còn tiền thang thuốc. Thuốc men mắc quá làm sao thằng
Cư qua khỏi cơn sốt. Má nó âu sầu ngồi nhà chờ nó mua thuốc về
và có tiền mua ít gạo nấu cơm chiều. Bé Mai lo nhất là mưa Sài
Gòn. Mưa dạo nầy sao dai dẳng, nặng hạt, mang nhiều hơi lạnh và
gió. Mưa cuốn tung những chiếc lá trên những hàng cây cao và ném
xuống mặt đất những nhánh cây khô cùng lá chết. Nhờ vậy, nó có
thể lượm những nhánh cây khô đem về phơi, chụm lửa nấu cơm. Nó
thích mưa nhưng cũng sợ mưa làm đường sá ngập lụt, rác trôi lềnh
bềnh, nước cống, nước mương sình thối tràn lên mặt đường nhựa,
đóng lại mặt đường một lớp sình màu đen xỉn, dơ bẩn và hôi hám.
Mưa cũng làm cho nhà nó ngập lụt, mấy tấm tôn mục nát bị nước
mưa thấm vào trong chảy thành dòng xuống cột nhà. Nhà nó dột như
ở ngoài sân. Với những bộ đồ phong phanh làm sao má nó và bé Cư
đủ ấm. Giá như ba nó đừng ở tù, ba còn đi làm nhà nước, má nó
còn dạy học thì cuộc sống không đến nỗi cơ cực, đầy lo lắng như
hiện nay. Bé Mai thấy bực tức vì nó nhỏ quá! Nó không hiểu được
vì sao người ta đến bắt ba nó tống vào ngục, hăm doạ má nó, và
không cho má đi dạy học. Chỉ trong vòng một năm, gia đình nó tan
nát. Giấc mơ trở lại trường học trở thành xa vời đối với nó.
Cô bé lẽo đẽo đi theo sau người đàn bà mặc bộ đồ vest màu tím
sậm từ trong cổng chùa Vĩnh Nghiêm bước ra. Bà đi bộ thong thả,
đôi kính đen che mặt. Cô bé kiên nhẫn đi theo bà một đoạn đường
khá xa, và nó bắt đầu mời mọc:
- Thưa bà, mời bà mua giúp cháu vài tờ báo.
Nghe tiếng nói nhẹ nhàng và lễ phép, người đàn bà quay lại. Bà
nhìn nó từ đầu đến chân:
- Cháu năm nay bao nhiêu tuổi? Sao không đi học mà phải đi bán
cực khổ vậy.
- Dạ cháu 9 tuổi. Nhà cháu nghèo quá nên phải đi bán báo.
Nhìn mái tóc cáu bẩn, quyện chặt vào nhau dính sát vào da đầu.
Hai mắt đen láy ngây thơ nhìn như van xin, cầu khẩn, người đàn
bà chạnh lòng. Bà mở túi xách lấy ra một tờ giấy mười đô la màu
xanh mới tinh nhét vào tay cô bé. Giọng bà thương cảm:
- Cô cho cháu. Cháu về nhà đi. Trời sắp mưa lớn lắm!
Cô bé mở to đôi mắt nhìn người đàn bà. Nó chỉ kịp cảm ơn rồi
đứng chôn chân tại chỗ. Nỗi vui mừng làm tim nó đập loạn xạ. Nó
nhảy tưng tưng, hát nho nhỏ một bài ca hạnh phúc. Thân hình bé
nhỏ của nó đong đưa, nhỏ bé, yếu ớt trong dòng chảy hổn loạn của
người bộ hành và xe cộ đủ loại.
Một đám trẻ con rách rưới, lem nhem từ đâu ùa ra vây quanh cô
bé. Đứa con trai cao lớn nhất đám, có hàm răng hô và đôi mắt ốc
nhồi hỏi giật giọng:
- Ê Mai! Tiền đâu mà nhiều vậy. Bà Việt Kiều đó cho mầy hả? Sao
mầy nịnh hay vậy?
Con bé trạc mười tuổi, tóc le que vài sợi xoã rối nùi, che gần
hết khuôn mặt dài và nhọn. Môi nó bĩu ra:
- Con nhỏ nầy đi đâu cũng gặp may. Ai thấy nó cũng muốn cho
tiền. Tại cái mặt nó có in hình thằng cha cán bộ gộc sao đó.
- Chớ còn gì nữa. Nhà nó lúc trước là một cái vila nhà nước cấp.
Hỏng hiểu sao ba nó đi tù.
Một đứa khác nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, cất giọng
chanh chua:
- Ba tao nói ba nó ngu. Làm cán bộ ăn ngon mặc đẹp, ở nhà lầu đi
xe hơi không chịu, chịu vô tù.
- Bởi vậy nó mới đi bán báo.
Cô bé quay mặt đi. Nước mắt nó chực trào ra. Nó ôm đầu bỏ chạy
mặc cho tiếng cười của lũ trẻ đuổi sau lưng.
Sài Gòn mưa như trút nước. Những cơn gió lạnh thổi vu vút trên
những hàng cây dọc bên đường. Hoàng hôn đã chụp xuống thành phố.
Những ánh đèn điện toả sáng trên những cao ốc, cửa hàng, quán
tiệm chiếu xuống mặt đường loáng loáng nước một thứ ánh sáng
nhạt nhẻo, lạnh giá và huyền hoặc. Mọi hoạt động náo nhiệt như
dừng lại. Cô bé ôm chồng báo trên tay lầm lũi đi. Đôi chân trần
lem luốc, đen nhèm và cáu bẩn cứ bước đều trên các đường phố.
Mai cố gắng bán cho hết báo nhưng chiều nay mưa lớn quá! Nước từ
trên trời rơi xuống, nước từ cống rãnh tràn trên mặt đường đen
kịt, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Sài Gòn vào những lúc mưa
to, mực nước dâng cao đôi lúc lên đến 1,42m. Ở quận 8, 12, 7,
Bình Thạnh, Thủ Đức thì ngập cao có lúc lên đến 30 hoặc 40 cm,
có khi lên đến 80cm. Trong một tháng có nơi bị ngập hết 20 ngày.
Người người lội nước, nhà nhà ngập nước. Có những ngày không
mưa, trời nắng chang chang cũng ngập lụt mới kỳ lạ. Xe tha hồ
chết máy nằm giữa đường, xe ba gác, xe gắn máy, xe đạp lội bì
bõm toé nước vào nhau. Tai nạn giao thông và thương vong cứ tăng
lên. Tiếng nguyền rủa, nghiến răng, chửi thề, chửi tục cứ vang
lên, nhưng con đường vẫn như cũ. Bao nhiêu năm trôi qua rồi,
người dân ở những xóm lao động nghèo đã quen sống như cá, phải
biết lội nước và thích nghi với hoàn cảnh mới. Mai nhìn những
người công nhân đi làm phải xoắn quần lên quá gối mà lội trong
dòng nước đen kịt, đầy rác rưỡi trôi lều bều mà nhớ cái dáng lom
khom, lội nước của ba nó mỗi sáng đi làm trên con đường ngập
nước. Ba thường nói với Mai những mơ ước đơn giản về dự án xây
dựng thành phố, thị trấn trở nên xinh đẹp và an toàn. Giờ thì ba
ngồi trong tù, giấc mơ bay bỗng của ba đã vỡ vụn.
Băng qua con hẻm nhỏ, những ngọn đèn đường lù mù hắt những tia
sáng yếu ớt xuống xóm nghèo xơ xác. Mai đi luồn lách qua những
mái hiên đổ nát loang lỗ, tràn ngập nước. Nó dừng lại trên con
đường ngoằn nghoèo như lún sâu dưới làn nước, và tiến về căn nhà
lụp xụp, vách lợp ván thô cũ mèm, mái lợp tôn thấp lè tè. Nó
bước vào nhà gọi lớn:
- Má ơi! Mưa lớn quá! Má và bé Cư có sao không?
Căn nhà lạnh tanh, một ngọn đèn dầu leo lét đặt trên chiếc bàn
nhỏ chỉ đủ soi một góc nhà. Nước tràn vào nhà cao đến nữa chân
giường. Yến một tay bế đứa bé, một tay bưng một cái thau hứng
nước mưa dột từ nhà xuống đặt trên giường. Giọng nàng buồn như
đưa đám:
- Ừ! Con về đó hả! Nước dâng cao quá! Tối nay má con mình không
nấu nướng được- Thấy Mai ướt loi nhoi và run lập cập, Yến giục-
Đi thay đồ nhanh lên rồi má đi mua cháo về ăn. Ừ! Nhà đâu còn
tiền.
Bé Cư đứng trên giường thấy Mai quần áo ướt mèm nên vỗ tay cười:
- A! Chị hai giống chuột lột quá há! Có mua bánh cho em hông?
Mai hôn vào má Cư một cái rồi quay sang nói với má:
- Bé Cư bớt nóng rồi hả má? Con sẳn ướt, má đừng lo. Bữa nay,
con gặp được một bà Việt kiều rất tốt bụng. Bà cho con một ít
tiền nên con đi mua thuốc cho bé Cư và đồ ăn cho cả nhà. Con đi
không xa đâu. Con sẽ về liền.
Mai biến mất. Yến ngẩn ngơ nhìn con mà lòng đau như cắt. Từng
tuổi đó mà đã hứng chịu gian truân. Bỗng dưng nước mắt nàng ứa
ra khi nghĩ đến những ngày đen tối của chồng trong ngục tối và
tình trạng bi đát của các con. Tương lai, hạnh phúc của gia đình
bỗng chốc đổ vỡ. Vì đâu các con phải khổ. Cuộc đời và tương lai
các con sẽ đi về đâu. Bóng tối đã phủ xuống mái đầu xanh vô tội.
Yến áp bé Cư vào lòng, và những giọt nước mắt của nàng như cơn
mưa ngoài kia tuôn xuống không ngừng trên đôi má hóp, gầy guộc
của người thiếu phụ trẻ.
Bé Mai lủi thủi dầm mình trong cơn mưa. Chiếc áo mưa màu xanh da
trời đã rách te tua nó còn giữ lại mặc che thân mỗi khi trời mưa
lớn. Nó ghé vào tiệm thuốc tây mua thuốc cho bé Cư và đem theo
cái cà mèn mua cháo để mang về. Nó nghĩ đến hình ảnh quây quần
của ba mẹ con bên những chén cháo gà nóng hổi thật là tuyệt. Mưa
lớn từ chiều nên nước dâng rất cao. Có nơi ngập qua khỏi đầu gối
của Mai. Đường giờ nầy vắng vẻ không có nhiều người và xe cộ qua
lại. Mấy bác tài xế xích lô, ba bánh rất sợ chạy vào các ngõ hẻm
và những con đường ở đây. Họ sợ lọt hố, lọt cống. Xe cộ không hư
hỏng thì người cũng thương tật. Một đám trẻ con nhếch nhách đang
tắm mưa. Chúng chạy nhảy, gào thét thi đua với mưa gió. Bỗng có
một đứa chạy về phía Mai, nó đụng phải Mai, rồi cười khút khít
biến vào một khúc rẽ. Mai bị hất về phía trước, chiếc cà mèn
đựng cháo văng khỏi tay, rơi xuống một ống cống nước chảy ào ạt,
cuốn xoáy. Cô bé chới với cố chụp lại và mất thăng bằng trợt
chân rơi xuống dòng nước cống đen ngòm như mực. Mùi hôi thối
xông vào mũi, vào mắt cô bé. Nó chới với, hai tay quờ quạng tìm
điểm tựa để nhoi lên. Nhưng cống quá sâu, chân nó bước hụt hẩng.
Dòng nước như một con quái vật cuốn Mai trôi mãi vào trong lòng
cống sâu hun hút. Mai cố giẫy giụa, la lên cầu cứu nhưng tiếng
kêu không thoát ra khỏi cổ họng. Mặt mũi nó tối sầm lại. Một màu
đen thăm thẳm trùm phủ khắp tâm trí cô bé. Nó ngất đi...
Cả đêm đó, cái xóm lao động nghèo vang lên tiếng gào thảm thiết
của người mẹ đi tìm con “Mai ơi! Con đang ở đâu. Con về nhà đi
Mai. Má chờ co..o...n...”
Những ánh đèn pin soi khắp nẻo đường. Mưa cứ vô tình rơi, rào
rạt, buồn tênh. Cả bầu trời giá lạnh, âm u, sầu não.
*****
Những giọt mưa cứ rơi đều ngoài song sắt. Tiếng mưa rên rỉ, lộp
bộp như gõ hàng triệu bàn tay sắt trên mái tôn. Mưa như khơi dậy
trong lòng những người tù niềm cô đơn, và sự mong nhớ những kỷ
niệm vui buồn đã xa tít mù khơi. Một vệt sáng yếu ớt ngoài khung
cửa trên cao rọi xuống căn nhà tù ẩm thấp, tối tăm. Thông không
biết ngày hay đêm, tối hay sáng. Ngày nào đi lao động trên những
gò đất khô cằn, Thông và các anh em bạn tù còn có thể đoán được
thời gian theo ánh nắng mặt trời. Ngày nào mưa dầm, gió lạnh
thổi vi vút, những người tù được nằm trong tù nghe mưa rơi. Họ
cảm thấy thời gian như ngưng đọng, thế giới của họ tăm tối,
tương lai trước mặt là một màu đen u tối. Tù cải tạo. Ba tiếng
đó như những nhát dao bâm nát cuộc đời của biết bao người. Ngày
xưa, khi còn có chức, có quyền, có cuộc sống tương đối đầy đủ,
Thông không bao giờ hiểu được những từ ngữ “học tập cải tạo,
trại tập trung cải tạo, trại giáo huấn...” Nhưng khi vào tù,
Thông mới hiểu rằng, trại học tập cải tạo là một địa ngục trần
gian mà nhiều người ở chế độ miền Nam đã niềm trãi. Nơi đó, chỉ
khác là không có bọn quỷ sứ ma vương mặt mày gớm ghiết, hình thù
quái dị với nanh vuốt dài, với những đôi mắt đỏ ngầu như những
vũng máu. Những con ác quỷ dưới âm ty địa ngục biết hút máu
người, đánh đập và khủng bố tinh thần để tội phạm khai báo tội
mình đã làm trên trần gian. Trong tù, không có những vạt dầu sôi
sùng sục, không có chỉa ba, không có lò lửa như dưới địa ngục,
nhưng có tất cả những dụng cụ tra tấn dã man không thua gì dưới
âm phủ. Và bọn cai ngục mang hình người, nhưng lòng dạ chẳng
thua gì bọn quỷ vương. Một bửa ăn của người tù cải tạo chỉ có
một chén cơm lưng lửng, vài giọt muối pha nước loãng bỏ vào vài
lát ớt. Một chén canh rau muống do họ tự trồng lấy vừa để nuôi
heo, vừa nấu canh đại dương ăn để sống cầm hơi. Một hình thức
đày đọa con người về vật chất và khủng bố tinh thần bằng những
ngày đói rét, thiếu thốn trăm bề. Thông là con của một vị tướng
cộng sản đã hy sinh trên chiến trường. Mẹ anh là cán bộ nằm vùng
hoạt động trong nội thành Sài Gòn. Nhưng nay, con của vị tướng
đang phải ngồi trong ngục tối, nơi mà ngày xưa ba anh từng mơ
ước nó chỉ mở ra cho những người bên kia chiến tuyến. Ba ơi! Thế
là ba nằm xuống trong nghĩa trang quân đội bên cạnh những người
anh hùng dân tộc. Những người đã đổ xương máu, mồ hôi, nước mắt
qua nhiều thế hệ để mơ ngày đất nước thống nhất. Những người cả
cuộc đời đã lăn vào lằn tên mũi đạn để tìm chân lý. Giờ họ nằm
đó, nắm xương tàn về với lòng đất. Chết là hết, họ không còn
biết đau khổ, thù hận hơn thua. Họ trở về với lòng cát bụi, làm
bạn với cỏ cây, hoa lá, mây trời, mưa gió. Họ không còn vướng
bận ưu phiền của nhân thế. Họ mang theo thế giới bên kia tất cả
sự mãn nguyện, sự bình an. Họ không cảm thấy đau khổ, trăn trở
trong cuộc sống thực tế. Và ba, chắc ba không biết đứa con trai
duy nhất của ba bây giờ đang ngồi đây. Nó đang nhìn ngày tháng
qua mau bên khung cửa tối tăm, hôi hám của nhà tù. Ở đây là một
nhà tù nhỏ, nhưng ngoài kia là một nhà tù lớn đầy bức bối, đầy
tranh chấp, tham vọng và tội ác. Con cũng không được phép sống
cho ra một con người trong xã hội loài người. Con phải làm sao
ba? Con phải lựa chọn con đường nào để sống? Tại sao con lại
phản bội ước vọng của ba? Ba có muốn miền Nam đói rách, lầm
than, khốn khổ như hôm nay không? Sao ba không sống vài năm để
hiểu một phần nào lý tưởng mà ba đã phải hy sinh cả mạng sống
của mình để đổi lấy? Con tin chắc ba cũng đau khổ không khác gì
con. Mỗi khi nghĩ đến ba anh, lòng Thông đau đớn khôn cùng. Hình
ảnh vợ con luôn ám ảnh Thông. Không biết giờ nầy bé Mai, bé Cư
và Yến đang làm gì? Chắc cả nhà đang ngồi nhìn mưa rơi. Căn nhà
trống trãi và dột tứ tung, anh định sửa nó từ mấy năm trước,
nhưng chưa có tiền mua tôn để thay. Chắc đêm nay, cả nhà ướt loi
nhoi. Thân anh còn có nghĩa lý gì. Chỉ thương vợ và hai con vì
anh phải khổ. Lòng người tù làm sao yên? Lão Đồng, một người bạn
tù lớn tuổi, ở cùng phòng đến ngồi bên cạnh Thông:
- Buồn hả anh bạn trẻ. Cố gắng quên mọi sự, tỉnh tâm thì mới có
cơ hội sống sót trở về.
Thông lắc đầu nhìn người tù. Khuôn mặt lão dài, xanh xám, đôi
mắt sâu bị che phủ bởi những sợi tóc bạc trắng loà xoà trước
mặt. Bàn tay lão chỉ có xương bọc da ló ra từ chiếc áo tù bạc
thết, nham nhở những vết đen vá chùm, vá đụp. Nhìn lão không ai
đoán được lão bao nhiêu tuổi. Lão luôn có thái độ thản nhiên,
ung dung tự tại như đã quen với cảnh tội tù.
- Chú ở tù bao lâu rồi?
- Tính ra đã hơn một phần tư thế kỷ. Người tù như tôi không có
ngày về.
- Chú tội gì mà ở tù lâu vậy?
- Viết văn, làm thơ chống chế độ. Đó là bản án họ kết tội tôi.
- Chỉ có vậy mà ở tù lâu vậy sao?
Lão Đồng cười khẩy vẻ ngạo báng:
- Có tư tưởng khác là có tội với nhân dân, đảng và nhà nước.
Cũng tại mình gàn dỡ, điên điên, khùng khùng nên mới mang hoạ
vào thân. Phải tỉnh táo, khôn ngoan, thức
thời một chút thì đời đâu có quay lưng lại với mình.
Từ ngày vào đây, Thông chưa bao giờ nói chuyện với lão ngoài vài
câu chào hỏi xã giao. Thông không hiểu gì về lão. Anh chỉ biết
lão là một người tù thầm lặng, ít cười nói và không bao giờ tâm
sự với ai. Không hiểu sao hôm nay lão tỏ ra thân thiện với anh.
Thông hỏi nhỏ:
- Chú còn gia đình?
- Tất cả đã vượt biên, sống ở nước ngoài.
- Tại sao chú không đi?
- Thích ở lại quê hương để xem các ông cộng sản làm gì sau bao
năm chiến đấu anh dũng đòi thống nhất đất nước.
- Chú là một người yêu nước.
- Chỉ có anh là nói tôi yêu nước. Trong biên bản của công an,
tôi là thành phần nguy hiểm, chống đối nhà nước và lật đổ chính
quyền.
- Chú có đảng phái, băng nhóm nào và có vũ khí lật đổ chính
quyền không?
Lão Đồng cười lớn, nụ cười lão hồn hậu như một đứa trẻ lên năm:
- Nếu có họ đã bắn tôi rồi. Họ chỉ nói tư tưởng của tôi là những
viên đạn nguy hiểm có thể chọc thủng chế độ.
Thông đang buồn nhưng khi nghe lão nói anh cũng cười. Anh đổi tư
thế ngồi, và lấy ra trong bọc giấy để trên đầu nằm hai điếu
thuốc đã cong queo. Anh vuốt cho thẳng và trao cho lão Đồng một
điếu. Thông đốt thuốc bằng một bao diêm và mồi thuốc cho lão. Cả
hai tựa lưng vào bức tường đen kịt, cáu bẩn hút phì phèo. Có thể
cơn mưa giá lạnh ngoài kia làm cho hai tầm hồn cô đơn gặp nhau.
- Chú kể cho cháu nghe về cuộc đời của chú đi.
Lão Đồng rít từng hơi thuốc. Lão muốn nuốt từng ngụm khói vào
bụng như sợ chúng tan loãng trong không gian. Cơn thèm của người
tù thật ghê gớm. Họ khao khát những thứ hết sức tầm thường, bé
nhỏ. Ngay cả không khí, ánh sáng, một thứ ân huệ mà trời ban cho
con người, rẻ nhất, hào phóng nhất, và không có ai trên thế gian
nầy phải tốn tiền mua. Nhưng nó lại hết sức quý giá đối với
người tù. Điếu thuốc trong lúc nầy hiếm, quý biết bao đối với
lão. Nhất là nhiều năm qua, lão không còn ai để tâm sự, để chia
xẻ những gì lão luôn chất chứa trong tâm. Lão ở đây lâu lắm rồi.
Những người anh em của lão đã lần lượt ra đi. Kẻ chết trong tù,
người may mắn ra khỏi tù, và nhiều người đã đi định cư ở đất
nước thứ ba. Lão ra tù mà không chịu rời khỏi Việt Nam như bao
nhiêu người khác. Lão nói với bạn bè rằng muốn ở lại để cống
hiến tài năng cho đất nước. Nhưng ai cần lão? Thứ phế thải của
xã hội. Vậy mà lão vẫn mơ rằng mười năm, hai mươi năm đất nước
sẽ khá hơn. Chính quyền sẽ nhìn đến những người yêu nước như
lão. Lão làm thơ, viết văn theo những gì lão nghĩ. Tiếc rằng thơ
văn lão tồi tệ quá không ai hiểu lão muốn nói gì. Thế là lão vào
tù và lần đó bị kết án nặng hơn. Từ một người yêu đời, hoạt bát,
sương gió bốn mùa phiêu bạt, lão đã biến thành một khúc gỗ biết
đi. Lão thèm có người tâm sự. Rồi một ngày nọ, tên quản giáo đẩy
vào đây một người tù mới. Lão nhìn khuôn mặt sáng, vóc dáng
thanh nhả và phong cách của anh ta là có thể đoán đây là một trí
thức, một người lương thiện. Tại sao anh ta bị nhốt chung với
bọn tội phạm đầu trộm, đuôi cướp? Tại sao anh ta hay suy tư
trong một góc phòng, lầm lũi làm lao động mà không nói nửa lời.
Mình đã quen với cơm tù, đói lạnh, roi vọt, hành hạ. Còn anh ta
trẻ quá! Vóc dáng thư sinh kia làm sao chịu thấu
ao tù, nước đọng. Lão cũng đã nhiều lần âm thầm can thiệp với
những người tù khác, để họ không ăn hiếp Thông. Rít một hơi
thuốc cuối cùng, ném tàn thuốc vào lon sữa bò. Lão Đồng thở một
hơi dài và nói:
- Cảm ơn Thông đã cho tôi một điếu thuốc ngon. Mấy tháng rồi
không có thuốc để giải sầu. Thông muốn nghe cuộc đời tôi hả! Đơn
giản, tẻ nhạt, tầm thường như những giọt mưa rơi trên đường –
Đặt một cánh tay lên trán, lão nằm xuống nền gạch, chân trái
thẳng, chân phải co lại. Lão thở ra một hơi dài – Tôi là sản
phẩm của chế độ cũ. Chế độ mà người cộng sản thù ghét và muốn
huỷ diệt tất cả: Tài sản, văn hoá, tín ngưỡng, tâm trí, trái
tim, tình cảm...
Một loại người cần phải được xoá toàn bộ trí não. Nếu giết hết
thì bị thế giới lên án, bởi vậy, Hà Nội đã tha mạng và đưa vào
đây để tẩy não, rửa sạch vết nhơ quá khứ, mở ra cho con dân miền
Nam thấy được thế nào là thiên đàng cộng sản. Kể ra hơn 30 năm
qua, tôi đã sống để chứng kiến sự thông minh xuất chúng của chế
độ Hà Nội dạy cho nhân dân Việt Nam. Cuộc đời tôi đã đủ. Sống
hay chết còn có nghĩa gì. Ở trong tù đã lâu, quen rồi Thông ơi!
Ngoài kia hàng triệu triệu người có khác gì tôi đâu.
Thông im lặng nhìn lão. Trong đôi mắt mờ đục, u ám ánh lên một
chút ánh sáng của sự mãn nguyện. Ở trong tù vài năm, Thông đã
học được nhiều điều quý giá hơn những ngày tháng được tự do,
thong dong. Anh mới hiểu thấu nỗi lòng của những người miền Nam
phải chịu đoạ đày. Nếu như ngoại bang xâm chiếm đất nước đã
đành. Chúng có thể tước đoạt tất cả sự sống của dân tộc Việt.
Nhưng người Việt Nam máu đỏ, da vàng như nhau đã chém giết nhau
một cách vui thích, và rồi đoạ đày nhau hết thập kỷ nầy sang
thập kỷ khác. Trời ơi! Nhà tù nhiều quá! Nhưng nhà tù không phải
nhốt những thằng ăn bám, ích kỷ, ăn cắp, tham ô, cướp bóc ruộng
đất nhà cửa, hà hiếp người dân. Nhà tù chỉ dành cho những người
có tư tưởng chống lại sự thối nát, bất công của chế độ. Và anh,
anh đã trở thành nạn nhân của chế độ mà ba má anh, và đồng đội
ông đã đổ xương máu để dựng lên. Tiếng lão Đồng ho húng hắng, và
lão ngồi bật dậy vỗ vào vai Thông:
- Còn anh bạn trẻ. Sao anh lại vào đây? Nguyên nhân nào anh phải
bỏ cuộc vui ngoài kia để đếm lịch, và đoán thời gian rơi trên
từng sợi tóc?
Giọng lão run run, dư âm buồn buồn như tiếng mưa rơi. Thông
không biết mình phải bắt đầu câu chuyện từ đâu. Anh cố gắng sắp
xếp sự kiện thành một chuổi mắc xích đã siết chặt cuộc đời anh
trong gông xiềng...
...
Dụng cầm cây viết lên gạch gạch, xoá xoá liên tục lên tờ báo.
Từng thớ thịt dầy cộm trên mặt ông ta rung rinh như muốn chảy ra
những lớp mỡ thừa. Sự giận dữ như một lò lửa mỗi lúc một bùng
cháy trong lòng ông ta. Dụng dằn mạnh cây viết xuống bàn. Nét
mặt ông đanh lại, cằm bạnh ra, hai hàm răng nghiến trèo trẹo như
đang ăn tươi nuốt sống một vật gì cứng và dai. Chỉ cần đọc một
loạt những bài viết của Thông đăng trên báo Ngày Mai, ông muốn
lộn tiết trên đầu. Nội dung bài báo tố cáo ông và băng nhóm của
ông vô trách nhiệm trong nhiều công trình xây dựng. Nhiều công
trình bạc tỉ nhưng chất lượng rất kém. Những cuộc đấu thầu giả
tạo được dựng lên. Khi tiến hành xây dựng thì tiền mẹ, tiền con
cứ rót vào như núi. Việc cắt xén nguyên vật liệu đã khiến cho
nhiều chiếc cầu hư hỏng khi được xử dụng trong vòng vài tháng.
Đường sá, cầu cống cứ lún, cứ lụt và năm nào cũng đổ tiền hàng
tỉ để sửa chữa. Ông Dụng đã nhiều lần muốn sa thãi Thông nhưng
chưa có dịp. Nếu thằng khốn đó còn ở trong công ty, ông và mọi
người không làm ăn được gì. Phải tống cổ nó đi, bằng mọi giá,
mọi thủ đoạn tàn độc nhất. Ông chỉ sợ một điều Thông là con liệt
sĩ. Mẹ hắn đã từng nuôi dưỡng nhiều cán bộ cao cấp hoạt động tại
miền Nam. Muốn hại Thông không dễ và tiếng nói của nó không thể
xem thường. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nó có là gì ta cũng có cách
bứng cái rễ của nó đi. Tập thể. Phải nhờ tập thể đè đầu nó
xuống. Sức mạnh tập thể mới có thể hại nó mà mình không bị tai
tiếng là người ỷ quyền, cậy thế hiếp đáp nhân viên. Cân nhắc
thật cẩn thận, Dụng nhấc điện thoại mời Thông lên gặp ông. Ông
ném tờ báo trước mặt Thông và hỏi:
- Anh đã viết những bài nầy? Vậy anh đã tham khảo ý kiến của ai
trong công ty chưa?
Thông trầm tĩnh trả lời:
- Tôi đã trình bày với đồng chí trong nhiều năm liên tục về
những công trình lớn nhỏ, đường sá, cầu cống mà chúng ta có
trách nhiệm xây dựng và bảo quản. Đồng chí không thể trách tôi
được.
- Những gì anh viết trong đây, anh chưa hề thông qua tôi hay bất
kỳ một người nào có trách nhiệm trong công ty.
- Tôi chỉ nêu những vấn đề xây dựng cơ bản và hiệu quả của công
trình. Đường sá hư hỏng nặng, nạn nước dâng cao gây ngập lún
thành phố, cầu cống xây dỡ dang uổng phí tiền của nhà nước...
- Khá lắm! Vậy anh đã đưa ra được những con số của các công
trình để chúng tôi kiểm chứng đầy đủ?
- Hồ sơ còn nằm sờ sờ ra đó, và các ông nắm giữ. Những công
trình nhà cửa mà công ty trúng thầu, do xây dựng không đúng tiêu
chuẩn đã xuống cấp trầm trọng chỉ trong vòng sáu tháng. Thưa
đồng chí giám đốc, lỗi nầy tại ai. Tại mưa gió, bão, hay tại dân
phá hoại hoặc do chạy xe quá tải khiến đường sá hư hỏng nặng, có
nơi những cái hố sâu, to như voi nằm, khiến tai nạn giao thông
xảy ra liên tục. Riêng sông ngòi, cầu cống, ao hồ, rác cứ đổ bừa
bãi, nhưng mấy chục năm qua chưa có ai quan tâm đến vấn đề nạo
vét. Chẳng bao lâu sông ngòi, ao hồ ở Sài Gòn và nhiều thành phố
khác sẽ trở thành đất liền. Nước không lưu thông được nên triều
cường lên, đê vỡ, nước tràn ngập thành phố ở nhiều quận. Vậy
đồng chí còn cần tôi chứng minh cái gì? Bằng văn bản ư? Tôi
không có văn bản nhưng tôi có mắt, có óc phán đoán đúng và sai.
Dụng tái mặt. Con mắt trái của ông bị hư hỏng trong chiến tranh
thường ngày bất động bỗng giật liên tục mỗi khi ông giận dữ. Ông
ta cố ngồi yên, hai bàn tay bám chặt vào thành bàn để không phải
đập phá, ném một vật gì đó vào mặt đối phương. Nhưng ông đã kềm
lại được. Giọng ông đầy căm giận và đe doạ:
- Anh là kẻ phá hoại. Anh nhìn đi. Tôi đã giúp bao nhiêu người
nên cửa nên nhà. Ai cũng sống phè phởn, sung sướng, nhà lầu, xe
hơi...
muốn gì cũng được. Vậy chưa vừa lòng sao? Hay tại vì anh không
giàu như họ rồi anh ghen tức. Anh tố cáo bừa bãi mà không cần
suy xét. Anh nghĩ anh sẽ được nhà nước ban thưởng lòng trung tín
và sự thành thật của anh sao? Xã hội nầy không cần lòng thành
thật. Có tiền là giải quyết mọi sự từ A tới Z.
- Tôi muốn lật tẩy những trò chơi của các ông. Nếu các ông còn
có lương tâm thì nên thu hồi tiền bạc trả lại cho ngân hàng, xây
lại đường sá, cầu cống cho đúng tiêu chuẩn. Bằng không, tôi sẽ
tiếp tục hành động theo lương tâm của tôi. Tôi là một kỹ sư. Dù
sao, tôi cũng có một chút lòng tự trọng của một người có học.
Đồng chí có cái bằng kháng chiến. Nhưng cái bằng đó đã lỗi thời.
Nó chỉ xài được trong rừng thôi.
- Tôi đã đổ máu cho tổ quốc, tức là tôi phải được đền bù.
- Vậy máu của những người nằm trong nghĩa trang lấy gì để đền
bù? Các ông đang sống trên máu của người chết và người sống. Có
phải không? Các ông vẫn còn sống sót. Đó là một ân huệ. Các ông
ham muốn nhiều quá đến độ tởm lợm. Các ông đừng nhân danh tổ
quốc, nhân dân. Đó chỉ là một hành động lừa bịp bẩn thỉu.
Biết không thể đối đầu tay đôi với anh, Dụng đành câm họng. Cuộc
đối thoại xem như chấm dứt. Trước khi Thông ra về, ông ta nói
một câu sau cùng:
- Anh hãy chống mắt lên xem tôi hành động.
Ông ta rất căm thù Thông. Ông đã triệu tập một cuộc họp dưới sự
điều khiển của những người thân tín, có chức vụ trong công ty.
Đoàn thanh tra lớn, nhỏ và trung ương đến, thấy không có ai lên
tiếng phản đối, Thông không đưa ra được bằng chứng bằng văn bản,
hồ sơ về những việc làm ăn bất chính của băng nhóm ngài giám
đốc. Như vậy, tội nói xấu, khai man cho thủ trưởng, phá rối tập
thể, là tội chống Đảng và nhà nước. Đó là một tội trạng nghiêm
trọng. Tờ báo Ngày Mai đã có chỉ thị của thủ tướng phải đình
bản, đóng cửa. Người tổng biên tập bị sa thải khỏi biên chế.
Thông bị khiển trách nặng nề. Cả nhóm người trong công ty hả hê,
vui sướng khi đã nhổ được cái gai trước mắt. Họ đánh gục Thông
để dằn mặt những kẻ ngu xuẩn có mầm móng chống đối. Rượu ngon
cho không uống, đòi uống rượu phạt. Cái thằng Thông ăn học cho
nhiều rồi ngu. Châu chấu mà đòi đá xe. Thông đã nhận được một
văn thư từ trung ương gởi xuống, cấm anh làm việc trong bất kỳ
một cơ quan nào. Họ còn bắt Thông phải làm nhiều tờ kiểm điểm và
tự nhận sai lầm. Anh đã xé bỏ. Từ đó, hồ sơ, giấy tờ của anh bị
họ giam giữ. Chế độ xã hội chủ nghĩa hành hạ con người bằng cách
treo bao tử. Một bản án bất thành văn để có thể khuất phục những
kẻ cứng đầu, bướng bỉnh, càn dỡ, ngu ngốc. Mất việc, thân bị đe
doạ đủ điều nhưng Thông vẫn dững dưng. Anh bán căn nhà của mẹ để
lại, lấy chút ít tiền mua một căn nhà trong xóm lao động nghèo ở
quận Bình Thạnh. Anh mở một sạp sách báo trên đường Lê Văn Sĩ để
kiếm cơm nuôi vợ và hai con. Những kẻ thù ghét anh nào có buông
tha. Vào một buổi sáng, anh đang ngồi bán báo bị bốn công an mặc
thường phục đến vây bắt. Họ còng tay anh và lục xét, bới tung
tất cả sạp báo của anh. Họ quát tháo và đòi anh phải đem hết tài
liệu ra trao cho họ. Tìm mấy tiếng đồng hồ không thấy gì, họ đẩy
anh lên một chiếc xe hơi đậu gần bên, và lôi cổ anh về trụ sở
công an. Họ vu cáo anh tội gián điệp, bán tài liệu ra nước
ngoài. Sau trận đòn thừa chết thiếu sống, Thông mới biết những
bài báo anh viết, nhiều người thích nên đã cất giấu và chuyển ra
nước ngoài. Những bài nầy được dịp đăng tải trên các website lớn
ở hải ngoại. Nó đã trở thành một mũi dao nhọn dâm tứ tung vào
lục ngũ tạng của những người cầm quyền tại Việt Nam. Thông đã
trở thành kẻ thù của chế độ. Bản án 15 năm tù giam treo lơ lửng
trên đầu anh. Thương thay cho thân phận đơn độc, lúc sa cơ không
ai muốn nhìn, và không ai còn đưa tay ra nâng đỡ cuộc sống của
gia đình. Thông bỏ lại hai con và người vợ yếu đuối trong cuộc
sống cơ hàn, khốn khổ...
...
Thông đã chấm dứt câu chuyện từ lâu mà lão Đồng vẫn không nói
gì. Nhìn mặt lão lúc nầy, không ai biết lão đang nghĩ gì? Chợt
lão thở dài, lão ôm vai Thông nói như an ủi:
- Không ai muốn bị giam cầm, đau khổ. Nhưng con người sinh ra đã
biết cách hành hạ nhau cho đến chết. Có thể đó là thú vui của
họ. Buồn mà chi.
Lão Đồng triết lý chi lạ. Thông bỗng hỏi lão:
- Chú ghét cháu?
- Tại sao?
- Cháu là con của cán bộ cộng sản.
- Ba mẹ của anh đã đi vào lòng đất. Họ mang theo một giấc mơ đẹp
là thấy anh được sống sung sướng hạnh phúc hơn họ. Nhưng họ đâu
có ngờ, cuộc đời anh cũng như bao nhiêu người bất hạnh khác.
Chúng ta là nạn nhân của thời cuộc. Số phận chúng ta như nhau.
Tại sao phải thù ghét nhau làm gì hở người bạn trẻ?
Lâu lắm rồi Thông chưa nghe ai nói những lời chí tình như lão
Đồng. Ngoài kia, xã hội đầy dẫy lừa lộc, dối trá. Con người sống
với nhau bằng mặt mà không bằng lòng. Những lời nói chân thật
không còn ai tin. Những tấm gương trung hậu không còn là thước
đo của giá trị đạo đức. Mấy chục năm qua, chính quyền Hà Nội đã
du nhập vào miền Nam học thuyết Mác-Lê-Nin. Học thuyết cao siêu
mà con người bé nhỏ, trí óc đen tối, trái tim lạnh giá, bao tử
thét gào trong cơn đói nên con chiên của học thuyết không thể
thấm nhuần giáo lý. Cho đến hôm nay, dù cho nó đã phản ánh lại
một sự thật trái ngược, quái dị, hổ đốn, hàng vạn người vẫn cứ
đem tư tưởng vĩ đại đó ra soi. Có thể nó là lá bùa hộ mạng để họ
có cơ hội tiến lên cuộc đời giàu sang, quyền thế; một địa vị mà
nhiều người thèm khát dù họ có đi song hành với ma quỷ. Nó cũng
đã đẻ ra những loại người có lòng tham không đáy, lòng ích kỷ và
độc ác thì vô biên. Họ đã áp dụng nó để chà đạp đồng loại, và
chém giết nhau với tất cả lòng thù hận. Nếu ai có lòng tốt, có
trái tim, biết đau khổ với nỗi khổ của quần chúng, biết nhục với
cái nhục nghèo hèn, dốt nát lại là những người bị khinh rẻ, mắng
nhiếc là sống quái đản, càn dở, khùng điên, lập dị...
Và họ luôn bị xã hội ruồng bỏ, săn đuổi như kẻ tử thù. Họ sẽ
không có đất để dung thân trên chính quê hương mình. Lão Đồng
phá vở luồng tư tưởng của Thông:
- Anh có lý lịch là con liệt sĩ. Mẹ anh cũng có công với cách
mạng. Họ nở nào đối xử với anh tệ như vậy?
- Ba má cháu đã nằm xuống. Họ có công lớn với cách mạng. Nhưng
cháu không có công xây dựng đất nước như lời ba má dặn dò. Tiếc
thay, cháu lại là người miền Nam. Con cháu cán bộ miền Bắc có
lỗi như cháu cũng chỉ bị cảnh cáo, cùng lắm là sách nhiễu, đe
doạ. Còn người miền Nam thì bị kết tội nặng hơn.
- Thật ư? – Lão Đồng cười khục khặc trong cổ họng.
Có tiếng chân bước đều. Tiếng chìa khoá mở lách tách và tên quản
giáo thò đầu vô phòng gọi:
- Nguyễn Huy Thông. Ban quản lý trại mời anh lên gấp.
Thông lách mình đi ra ngoài. Lão Đồng sợ hải nhìn Thông. Không
biết họ nói chuyện với nhau có ai khai báo hay không? Nếu có gì
thì mình sẽ nhận hoàn toàn trách nhiệm. Mình không muốn Thông
dính vào. Thông cần phải sống để trở về nuôi vợ, nuôi con. Còn
mình đã quen sống cô độc, đói rét, roi vọt, hành hạ. Thân già
nầy chỉ còn chờ ngày trở về âm phủ. Lão chợt mỉm cười khi nghĩ
đến lúc lão chết đi, lão sẽ gặp được Hồ Chí Minh. Lão sẽ cố gắng
làm bạn với Hồ Chí Minh, và nhất là học lại tư tưởng của
Mác-Lê-Nin. Lão cũng khuyên Diêm Vương và bọn ma trơi nên học
theo để chúng được lên thiên đàng sớm. Lão suy nghĩ vẩn vơ khá
lâu chờ Thông, nhưng Thông chưa trở lại. Rồi lão thiếp đi trong
giấc mơ kỳ lạ.
*****
Lão Đồng tỉnh giấc khi nghe tiếng khóc nức nở của Thông. Người
quản giáo đẩy anh vào phòng rồi khoá cửa lại. Những người tù từ
lâu biết anh là con liệt sĩ nên tránh xa. Nay thấy anh khóc nức
nở, họ động lòng nên vây quanh anh. Họ nhìn anh ái ngại. Không
ai nói với ai, họ cùng an ủi:
- Bình tỉnh đi chú Thông. Mọi chuyện đâu còn có đó mà.
- Chắc có chuyện gì đau khổ lắm đó mấy ông.
- Ừ! Tôi cũng nghĩ vậy.
- Cứ để anh ấy khóc. Nước mắt sẽ làm cho vơi đi nỗi buồn.
Lão Đồng ra hiệu cho mọi người rút lui. Lão đi lục lọi trong lon
gi-gô một dúm trà. Có thể đây là dúm trà cuối cùng lão để dành.
Lão pha một ly đặt trên cái bàn gổ loang lổ, bẩn thỉu. Nhìn
Thông khóc vùi trên chiếc gối nhàu nát, lòng lão bất an. Nhưng
lão không muốn khuấy động niềm đau của anh nên kiên nhẫn ngồi
chờ. Đêm càng khuya, mưa gió càng gào rú dữ dội ngoài hiên. Lão
Đồng chép miệng than thầm. Ôi! Chưa có cơn mưa Sài Gòn nào buồn,
ảo não, lạnh giá và dữ dội như đêm nay. Tách trà đã lạnh tanh và
Thông vẫn rũ rượi như một xác chết bất động.
Kể từ đêm đó cho đến ngày Thông đột ngột được phóng thích trong
một đợt ân xá do quốc tế can thiệp, không ai trong tù còn nghe
anh nói. Họ chỉ thấy anh cười, nụ cười bí hiểm, lạ lùng. Đôi khi
anh ngồi một mình đôi mắt rưng rưng như khóc. Đôi mắt đó, lúc
ánh lên tia sáng hy vọng, lúc âm u buồn và chất chứa niềm đau
tuyệt vọng. Thông xa lánh mọi người, không muốn tiếp chuyện với
lão Đồng và ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Anh không còn có cảm xúc về
không gian trước mặt. Anh quên cả hiện tại và quá khứ. Ai nói gì
anh cũng cười rũ rượi như điên như dại.
Ngày Thông rời khỏi nhà tù, lão Đồng quơ vội mấy cái áo rách
nhét vào cái xách tay cho anh. Muỗng dĩa, chén bát và những món
đồ linh tinh khác anh không muốn nhận. Anh ra hiệu bỏ lại cho
mọi người dùng. Những người tù nước mắt rưng rưng vây quanh chúc
mừng anh:
- Chúc Thông may mắn. Nhớ tụi nầy nghe Thông.
- Ê! Nhớ gởi vài điếu thuốc vô hút đỡ buồn nghen.
- Đòi đường sữa không đòi, đòi hút thuốc. Rõ khùng.
- Ra tù làm gì có việc làm mà đòi. Không đói là phước ba đời rồi
cha nội.
Thông chỉ cười, nụ cười đờ đẫn, khờ dại làm ai cũng ái ngại. Lão
Đồng nói thật to cho mọi người cùng nghe:
- Thằng Thông bây giờ mới thực sự tỉnh táo, khôn ngoan và thông
minh nhất thế giới. Nó có thể sẽ được bầu làm Thủ Tướng, Chủ
Tịch nước hay Bí Thư Trung Ương Đảng.
Có tiếng một người tù cự nự:
- Đừng có đùa lão Đồng!
- Xã hội cần người lơ ngơ như nó, xã hội cần người chỉ biết cười
mà không biết khóc. Nó đâu còn biết khóc nữa anh em. Con gái của
nó đã chết trôi trong cống từ cái đêm nó trở về và khóc thảm
thiết.
Lão Đồng nói mà nước mắt lão chảy ròng ròng trên má. Thông không
hiểu lão đang nói gì mà khóc. Chắc lão buồn anh đi...
Ờ...
ờ tại mình đi nên lão khóc. Thôi đừng khóc nghen lão Đồng. Tôi
sẽ trở lại mà...
lão già tốt bụng...
Đừng khóc như trẻ con xấu lắm! Thông cười cười rồi bước ra khỏi
trại giam.
Thông lững thững đi bộ ra đường. Trời Sài Gòn mát dịu mà lòng
anh nóng như lửa đốt. Anh cứ đi lang thang hết ngõ hẻm nầy, sang
ngõ hẻm khác. Đôi mắt anh vô định không còn nhìn vào bất cứ cái
gì trước mặt. Anh thì thầm và cười một mình: “Ba đi tìm con nè
Mai ơi! Con đang ở đâu rồi. Trời Sài Gòn hôm nay đẹp lắm. Sài
Gòn không còn mưa nữa đâu con. Ba sẽ đưa con, bé Cư và má Yến đi
chơi vườn Tao Đàn và mình sẽ đi ăn kem ở bến Bạch Đằng. Đừng có
trốn ba. Đừng để ba đi tìm con. Ba mệt và mỏi chân lắm rồi đó
nghen”.
Lâu ngày, người dân Sài Gòn đã quen với một người hành khuất
trẻ. Anh là một người tù vô gia cư, ngày đêm lang thang khắp
hang cùng ngõ hẻm để tìm con.
Dù Sài Gòn không mưa, nhưng những giọt mưa như những dòng lệ
buồn luôn tuôn chảy trong tâm hồn của người miền Nam. Ôi! Sài
gòn, có còn ai nhớ, ai mong những ngày mưa năm xưa? Và biết có
còn ai hoài vọng, đợi chờ những tiếng hát ngọt ngào, tha thiết,
và buồn vời vợi đã rót vào lòng người Sài Gòn trong những đêm
mưa rả rích“...
Người đi mang cả trời thương nhớ. Tôi đốt hương trầm buổi tiễn
đưa. Khung trời kỷ niệm ngày xưa đó. Xin giữ trong lòng một chút
mưa...”.
Người hành khuất trẻ ngửa mặt lên trời cười ha hả một mình, hai
cánh tay anh dang ra chơi vơi, chơi vơi...
Phong Thu
5/11/ 2006 |