.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Chiêu Hoàng | Lặng Lẽ | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân - Linh Linh Ngọc | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

 

  Trần Đỗ Cung - Chứng nhân lịch sử cận đại


 

Câu chuyện Việt Minh 45-54
 

  • Viết tại Prunedale, 23 tháng Chạp 2006
    Theo lời kể lại của em gái nay ở Sài Gòn

      Đây là một chuyện thật mà nhân chứng là em gái độc nhất của tôi kể lại trong nước mắt còn ngấn đọng. Nhiều thập niên đã qua. Kể từ thời kỳ phong trào ái quốc, rồi những năm cộng sản đánh lừa nhân dân, tới cuộc chiến Nam Bắc tương tàn cho đến kinh tế thị trường của lũ Tư Bản Đỏ mặc áo Hoàng Bào tiếp các chính khách tham dự APEC.

      Gia đình tôi có cả thẩy chin anh em nhưng đa đinh trừ một em gái kế tôi tên là Bạch Liên khi mẹ tôi nằm mông thấy Phật Bà Quan Âm đưa cho một đóa sen trắng. Em tôi chỉ được đi học hết lớp Nhất theo quan niêm xưa là con gái chỉ lo công dung ngôn hạnh. Em là tay hòm chìa khóa trong gia đình, chăm nom các em nhỏ, thu vén việc nhà cho mẹ, giỗ chạp bánh trái khéo léo. Những lúc thư dãn rảnh rỗi em cũng văn chương thơ phú dưới bút hiệu Lina và gửi đăng trong báo Phụ Nữ Tân Văn. Lúc Việt Minh đoạt chính quyền lãnh đạo kháng Pháp, Liên cũng như mọi người cảm thấy hừng hực ngọn lửa ái quốc và tình nguyện đi bộ đội theo lời gọi của tâm thức. Ở tỉnh Thanh Hóa nhiều người còn nhớ hình ảnh cô con gái cụ Đốc Lương trong y phục đen, ống quần buộc túm lại trên mắt cá, đầu đôi mũ vải đen chùm hết mái tóc quăn, hiên ngang lên cò bắn biểu diễn một tràng Đại Liên mà cơ xưởng Thanh Hóa vừa hoàn tất.    

      Thế rồi em cũng đi lấy chồng, một người mà em gập trong đám thanh niên cùng lứa xung phong tòng quân. Đó là Trần Thiện Thuật, học trò của Bố và là con ông Cả Bân chủ đồn điền Gi Linh. Hình ảnh Thuật hùng dũng cưỡi con ngựa tía, lưng đeo khẩu súng sáu đã làm Liên mê mệt. Ông Cả Bân là cậu cả con cụ chủ đồn điền nên phóng khoáng, lịch sự đẹp trai. Việc trông nom đồn điền ông giao cho ông anh rể và ông hay phi ngựa vào rừng săn bắn, bạn bè giao du rất nhiều. Tất cả dân trong ấp đều được ông nội đưa từ ngoài quê vào và được cấp ruộng cấp nhà, cấp lương thực nên họ rất biết ơn và kính trọng.

      Đời sống mới tuy xa lạ với khi ở nhà giúp mẹ nhưng cũng vui. Sáng sớm trông nom cho chị bếp giậy từ 4 giờ nấu cơm cho người làm ăn trước khi ra đồng. Tất cả mười người chia thành hai mâm, thường có dưa cà, thêm một đĩa thịt mỡ kho măng hoặc cá kho với khế hay đu đủ, chuối xanh là những thứ trong vườn nhà có sẵn dùng đổi món. Ngày mùa thì cơm ba bữa, còn ngày thường thì buổi tối là nồi cháo đậu hoặc nồi khoai hay bắp luộc. Mùa gặt phải thuê đông thợ, đi chợ phải mua thêm thức ăn. Buổi tối trông nom cho xay lúa giã gạo đến 12 giờ đêm. Sáng ra nghe hắng giọng của ông bố chồng lúc khoảng 4 giờ là Liên thức giậy lấy chổi phất trần quét bụi bàn ghế rồi sắp sẵn khay ấm chén trà. Ấm đun nước sôi bằng đồng, phần trên là ấm đựng nước, bên dưới bỏ than quạt hồng cho mau sôi, rồi bưng lên cho ông bố ngồi rung đùi ngâm thơ. Rồi lại xuống bếp trông coi cơm nước cho người làm ăn uống. Công việc tuy không nặng nhọc nhưng vất vả vì thiếu ngủ.

     Năm Liên mới có đứa con đầu lòng là năm bộ đội về đóng quân tại nhà. Đơn vị toàn là dân trí thức tiểu tư sản nên dễ thông cảm, tuy nhiên tiểu tư sản đi đến đâu là có rắc rối ở đó. Tối tối các chàng hiệp sĩ cứ mò sang trồng cây si, cô ả phải gọi cô em dâu sang ngồi cho có chị có em. Đuổi người ta đi thì sợ đụng chạm đến bộ đội mà có một mình thì lại tiếng ra tiếng vào eo xèo. Thuật được bố vợ giới thiệu cho đi dậy học vì ở nhà lo việc đồng áng thì khổ cho anh ta quá!   

     Năm 1951 Liên sinh cháu thứ nhì Liên Châu. Vụ nầy trúng mùa lại gần Tết tát ao chia cá cho các gia đình. Cá chép, cá mè, cá trôi, cặp tre nướng giắt lên gác bếp; cá quả, cá rô, cá trê, cho vào nồi 30 và thau lớn đổ đầy nước để giữ ăn dần. Lại hạ lợn bán thịt giữ lại một phần ăn Tết. Lấy nửa bộ lòng và tim gan cật làm cơm, bố chồng và Thuật ngồi ăn nhắm rượu trắng chuyện trò vui vẻ. Ra Tết thức ăn còn nhiều, lúa đầy kho, thực phẩm dư dật đúng là thời điểm sung túc. Khi khỏe rồi lại theo người làm ra trông đồng. Ngồi trên bờ cũng buồn Liên xuống ruộng học làm, mùa cấy thì học cấy, mùa gặt thì học gặt, đi ra đồng thấy vui. Cho nên trong thời gian đấu tố Liên đã thành một nông dân giỏi giang ngang tay với các nông dân khác.

      Cha mẹ và các em đã “dinh-tê” đến Hà Nội rồi. Ngày ấy nhiều gia đình ở Cầu Bố phải tìm cách về vùng Tề vì sống trong vùng kháng chiến khổ quá. Thời gian này đang phát động phong trào cải cách ruộng đất găng lắm. Nơi này nghe nói xử tử địa chủ, nơi kia nghe bàn tán bắt giữ địa chủ. Gia đình lo sợ cho số phận của Bố. Ông bị bắt ngày mồng hai tháng Chạp năm Thìn (1952). Đội cải cách cho du kích vác súng đến trói tay ông lại và dẫn đi. Cả nhà hoảng hốt cuống cuồng mà vẫn tin là Ông đang làm Ủy Viên Huyện thì không dính tội, có lẽ chỉ bị bắt nhầm thôi.

       Gia đình không làm gì ác, không bóc lột. Mọi người trong nhà vẫn ngây thơ tin vào sự lương thiện của mình. Có biết đâu chủ trương của đảng là noi theo đàn anh Trung Quốc, đánh gục địa chủ phú nông, san bằng giầu nghèo, đất nước do công nông làm chủ. Tết đến trong hồi hộp. Rồi họ kéo nhau đến khám nhà. “Bố tôi có một khẩu Browning nhỏ, chồng tôi đem ra bờ ao đào hố chôn dấu. Khám xét không tìm thấy giấy tờ chứng cớ phản động. Chúng chỉ lấy cớ xâm nhập để kiếm chác. Cha chồng tôi đâu có của chôn dấu mà chúng lấy que sắt xỉa nát nền nhà. Rầm rộ ra oai quát tháo một chập rồi rút lui sau khi ra lệnh cấm các gia đình địa chủ liên lạc với nhau. Anh Thuật cũng không được đi dậy học nữa. Học trò cũng bị xách động đem thầy giáo ra bãi để đấu tố, thêu dệt thầy tàn ác đánh học trò, hủ hóa”.

      Rồi đội về phát động đấu tranh ruộng đất. Ruộng của địa chủ bị tịch thu hết. Gia đình vợ chồng Liên-Thuật được chia cho hai sào ruộng xấu cạnh nhà, còn những gia đình họ hàng thì không được biết vì cấm liên lạc. Các ông chú cũng là thành phần địa chủ, Thuật là con địa chủ, riêng Liên chỉ là dây dưa nên được ra ngoài thôn đi chợ. “Chợ họp chiều tối vì ban ngày sợ bị ném bom. Anh Thuật bẻ cho tôi hai dành đu đủ xanh, mỗi đầu gánh có vài trái, tôi gánh đi bước thấp bước cao trên bờ sông nông giang; đường bùn lầy nên trượt ngã, đu đủ nằm lăn lóc dưới sông. Cũng may mùa này nước cạn, tôi đặt quang gánh lội xuống sông nhặt đu đủ lên xếp vào gánh rồi lại tiếp tục, cứ vậy ngã vài lần thì có vẻ đã tạm ổn. Rồi cũng bán hết đu đủ mua được thức ăn về cho chồng con. Chỉ hai lần là tôi gánh thạo tuy rằng hai vai sưng đỏ đau lắm. Phải cố gắng, sự no đói sống còn đều trông đợi vào đôi quang gánh trên vai ngươi đó Bạch Liên ơi”!

      Thế là ngày mùa đi làm ruộng, ngày rảnh quẩy gánh bán buôn kiếm thêm tiền mua thức ăn cho chồng con. Trong vườn trồng chuối, đu đủ, trồng rau, khoai lang, ăn không hết thì đem ra chợ bán. Nuôi gà có trứng, ăn một ít còn thì đem ra chợ bán mua thịt lợn. Buôn bánh đa thái nhỏ như sợi miến bó thành 12 bó, bán hết thì lời được hai bó; mớ vụn còn lại thì nấu canh với rau dền cơm nhổ ngoài vườn, nêm chút muối, mắm tôm ăn cũng thấy ngon. Mãi rồi cũng thuê được một chỗ ngồi bán lẻ, đi chợ sớm mua mớ hành mớ rau phân ra bán lẻ cũng có chút lời.

      Đang bán hàng ở chợ thì thấy bà Trương cùng thôn là bà mụ đỡ đầu cháu Liên-Chi xà xuống bên cạnh. “Bà không sợ thằng Điều thấy báo cáo bắt ra ủy ban kiểm điểm à”? Bà cười cười nói nói, “đây là ngoài thôn mà”, rồi bà ra về. Phiên chợ sau bà lại đến và hỏi, “có muốn cải thành phần không, nếu chịu tôi sẽ đứng ra làm mai mối. Sẽ được cấp hai mẫu ruộng, nông hội sẽ giúp cho, không còn phải chân lấm tay bùn, được cấp nhà ở và trợ cấp hàng tháng nữa”? Bà tiết lộ trên đưa về một số thương binh tìm đối tượng, đẹp người đẹp nết và có học và anh ta chỉ mất một chân một tay, khỏe mạnh, vẫn đi lại được bằng nạng, đủ tiêu chuẩn!

      Về nhà kể với Thuật thì anh chàng có vẻ nghĩ lung lắm, có lẽ sợ vợ mình khó qua khỏi rồi thay lòng đổi dạ thì sao? Nhưng làm sao Liên bỏ được chồng và đàn con dại để sung sướng một mình. Mấy hôm sau Liên mạnh dạn trả lời, “tôi không thể bỏ ba đứa con thơ của tôi được”. Cũng may thế là xong, nhưng sao đầu óc chúng toàn là bã đậu đen thế để đi dụ người ta bỏ chồng bỏ con để lấy thằng què thằng cụt?

      Năm 1953 Liên sanh cháu gái Liên Trâm. Bụng chửa vượt mặt mà vẫn phải ra đồng gặt lúa. Lúa chin phải gặt gấp mà địa chủ thì không được thuê người làm, không được đổi công với người ngoài. Cho rằng địa chủ không biết làm nên chúng hành cho bõ ghét. Trong nhóm người nhà ra đồng có vợ chồng Liên-Thuật, bà dì ghẻ và cô em chồng là bốn người nhưng chỉ có Liên là làm thạo và nhanh. Tối đến hai vợ chồng đập lúa, trời sáng trăng con ngủ yên, khi trăng lặn gần sáng mới xong, vun lúa lại thành đống đợi sáng chan ra phơi, rơm rũ tơi để đấy. Làm xong lăn ra ngủ, tuy nhiên hai vợ chồng dẫu lao động vất vả vẫn có đủ sức khỏe. Liên bụng to nên miễn gánh lúa, Thuật một mình gánh tất. “Tôi còn nhớ thuở áy có được một quả trứng gà trộn vào bát nước cơm thêm chút muối rồi bác sền sệt thế là vợ chồng con cái cũng ăn ngon miệng đủ bữa. Mẹ chồng tôi cùng bà Bác bà Thím khi tan chợ còn ngồi lại ăn bánh tráng với đậu phụ chấm mắm tôm. Tôi phải tất tả ra về cho con nhỏ bú. Đầu gánh có ngọn đèn dầu lạc treo tòn teng, ánh sáng chiếu ra mờ mờ thấy đường mà đi. Đường vắng nhưng tôi cứ bạo dạn bước nhanh, lúc này đầu óc còn lo bận rộn gia đình nên không còn nghĩ đến ma nữa”.

       Liên Trâm sanh đúng vào thòi gian đấu tố nên Liên tự sinh lấy. “Tôi thấy lưng đau ở ngoài đồng nên vôi vã về nhà nhờ cô em chồng bắc nồi nước sôi bỏ cây kéo inox vào luộc luôn. Tôi kê sẵn chõng tre trong buồng với hai cái gối để nửa nằm nửa ngồi vì biết mình phải vượt qua đơn thương độc mã. Anh Thuật đi đón bà mụ chưa về thì tôi đã sinh xong. Cô em chồng nhờ chị nông dân hàng xóm sang cắt rốn cho cháu. Khi chị ta qua tay cầm một cái liềm thì tôi hoảng hốt bảo chi rửa tay chùi cồn và dùng chiếc kéo đã luộc mà cắt. Cháu Trâm sinh ra bụ bẫm hay ăn chóng lớn, cả ngày nằm nơi vì mẹ trăm công nghìn việc dâu có rảnh mà bế ẵm. Sinh cháu là thêm một nhân khẩu, bớt được một phần thuế. Nhưng Nông Hội lại bắt chúng tôi phải trả đủ số lúa tô của Bố. Thật là phi lý, nhưng cãi với ai đây”?

      Trở lại buổi tan chợ Liên lại bước thấp bước cao quẩy gánh vội về cho con bú. Có miếng thịt thì dấu tận dưới đáy mủng kẻo chúng nó thấy thì cho là địa chủ còn dấu được nhiều tiền, khó sống lắm! “Đang buổi chợ tôi đâu dám mua thịt, có nhiều đứa làm đội viên an ninh đi tuần dò thám vợ con địa chủ về báo cáo với Đội. Nói đến Đội là rợn tóc gáy. Họ hàng địa chủ bị cấm liên lạc, anh Thuật là con địa chủ bị cấm ra khỏi làng. Tôi là vợ được đi chợ mua bán tuy nhiên vì tinh thần bị khủng bố run sợ quá nên ra đồng trồng tỉa và ra chợ lo mua bán cho mau rồi về với chồng con. Thấy mấy bố con trông ngóng mà ứa nước mắt. Cho con bú, ăn vội vã bát cơm rồi đi kho thịt vùi nồi góc bếp. Khi ăn cơm gắp thịt cho con thì vùi dưới chôn bát bảo nhỏ các con đây là món mà tụi an ninh nó vào bất thình lình là có chuyện. Trên mâm gỗ chỉ có bát cà, tô canh xuông hoặc đĩa rau luộc. Địa chủ có ăn là đã có hạng, bị đói là chuyện thường”.

     “Nhớ hồi đói năm Ất Dậu trước năm 1945, gia đình chồng tôi nấu cháo phân phát cứu đói, san sẻ phần mình cho dân ấp. Bây giờ có phong trào đấu địa chủ, chúng quay mặt đi. Lớp già còn ngấm ngầm thương xót nhưng lớp trẻ thì hoạnh họe nạt nộ đủ điều. Biết thân phận chúng tôi chỉ im lặng chịu đựng. Trước thì thưa thì bẩm cụ Chủ, các cô các cậu nay thì thằng nọ con kia. Cũng may ông Nội chúng tôi không còn tại thế để nghe và chịu đựng những cảnh đau lòng ấy. Vài tháng sau ủy ban xã cho gọi mẹ chồng lên và cho bà đi thăm ông. Thân tù tội mà không biết là tù tội gì, đó là điều rất đau khổ cho bố chồng tôi. Mang đi cho ông ít quần áo thường, ít thức ăn, gặp được một lúc rồi lại lếch thếch ra về mà mắt đỏ hoe. Sau hai lần đi thăm ông lại bị chuyển đi trại khác”.

      Một tháng sau, nghe trong thôn reo hò ầm ĩ gọi nhau đi đấu địa chủ trên núi Đình. Du kích vào canh nhà, bắt vợ con địa chủ ngồi yên trên thềm không cho đi lại. Chúng bắt em chồng đi chứng kiến đấu tố bố. Rồi hò reo, rồi đả đảo có bài bản sẵn. Cán bộ hô gì thì mọi người hét đả đảo. Khoảng một giờ sáng nghe ba tiếng súng nổ, ông gục ngã lăn xuống hố đã đào sẵn bên cạnh. Chúng vùi xác ông tại chỗ, cấm gia đình ra nhận mộ. Bàn thờ và đồ thờ tự chúng đã khiêng đi hết. Thuật phải lấy cánh cửa dùng thừng đóng đinh lên tường làm bàn thờ, vợ chồng con cháu làm lễ phát tang trong tức tưởi đau đớn, và làm nhanh vì sợ bọn du kích vào phá hủy. Thật ra đâu có vải mà vấn khăn tang.

      Rồi vợ chồng vẫn phải làm việc nuôi sống bản thân và con cái, cố gắng với lòng can đảm vượt qua đoạn đường cực khổ này. “Trời nắng hạn, sau khi sanh được 21 ngày đã phải xuống ruộng xới lúa. Tôi thầm cầu khẩn Trời phù hộ cho mưa xuống vì ruộng đã khô nứt nẻ rồi, không nước thì chết đói. Giờ đây cuối đời ôn lại tôi mới thấy mình đã có đủ nghị lực sát cánh cùng chồng sống cam go cực khổ để đến ngày hưởng phước Trời ban cho”.

      Chiều tối du kích lại vác súng vào nhà gọi chồng đi đem sang xóm Đông nhốt tại một nhà dân. Sáng hôm sau ủy ban gọi vợ lên và phán rằng, “chị có vàng đem nộp thì ủy ban sẽ thả chồng chị về”. Chúng nghĩ rằng Liên là con cụ Đốc Lương nên có vàng cất dấu. Đêm ngủ trong căn nhà với ba con, hễ nghe tiếng động là tay cầm đèn pin, tay cầm rựa, nếu có đứa nào đột nhập cô em vẫn sẵn sàng chém để tự vệ và bảo vệ ba đứa con. Sáng hôm sau Liên phải chặt một miếng nhẫn đem đến Ủy Ban, thế là chúng thả chồng về. Một tuần sau cảnh bóp họng lại tái diễn, ba lần như thế thì chúng thôi không nặn của nữa vì chắc đã hết của rồi có bắt Thuật cũng vô ích thôi.

      Cuối năm 1953 nghe loa phóng thanh trong làng báo tin mình đang thắng địch, đã tiếp thu mấy tỉnh miền Bắc, nông dân ai muốn về quê thì Ủy Ban cấp giấy cho về. Khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội dân chúng ồ ạt xin về. Lúc này có dịch con nít bị tiêu chảy. Liên Châu cũng đi tiêu ra mắu mủ. Liên ra ủy ban xin giấy đưa con ra nhà thương Hà Lũng chữa bệnh. Thằng canh điền mù chữ ngồi ghế ủy ban đập bàn quát nạt trong khi Liên ngồi dưới đất đưa đơn xin đóng dấu. Hành chán chê một lúc nó mới nguệch ngoạc mấy chữ dưới tờ đơn và đóng dấu. Bà Nội và chồng cáng cháu bằng võng trong có chăn màn, Chi đi bộ còn Liên dìu Trâm đi theo, thuê nhà bên cạnh nhà thương tạm trú. Ba hôm sau xin được Bác Sỹ xác nhận cần cho bệnh nhân về Hà Nội chữa bệnh. Vì vợ chồng đã bàn bạc cùng trốn đi nên khi về nhà Thuật vẫn phơi quần áo ngoài sân và buộc bò cạnh đụn rơm sau vườn.

      Rồi hai mẹ con lại vác võng và đòn khiêng sang bệnh viện đón vợ con về. “Sang đến nơi chúng tôi không về nhà mà tìm đường đi thẳng ra thành phố. Anh Thuật còn giữ giấy chứng minh là cán bộ giáo dục, anh mặc quần áo nâu cán bộ, lưng đeo xắc cốt, chân đi dép râu, đầu đội mũ ca lô. Ra đến đường cái thì thấy người ta gồng gánh bồng bế con cái về Bắc đông lắm”. Trong lúc này Ủy Hội Quốc Tế đang họp ở thành phố yêu cầu cho dân đi lại tự do không được ngăn cấm. Tuy nhiên Ủy Ban Nhân Dân vẫn xét giấy tờ kỹ, có hợp lệ mới cho đi. Loa kêu gọi các gia đình không được chứa chấp người lạ trong nhà do vậy không tá túc qua đêm được ở nhà bà chị họ ở phố Ngang và phải quay về quán trọ. Dân quân khám xét thấy không đầy đủ giấy tờ nên đưa qua một nhà buôn xét lại. Có mặt Ủy Hội Quốc Tế nên tình thế cũng không đến nỗi gây cấn lắm. Vả lại hai nữ dân quân đeo băng đỏ cũng là phần tử “tạch tạch xè” chỉ khám qua loa rồi đưa cả gia đình qua một tiệm phở cho lưu ngụ và phải quay về sáng sớm.

      Ở hiền gập lành, may thay có vợ chồng ông hàng phở thương tình chỉ đường đi đến bến cầu Hàm Rồng có ca nô chờ nước thủy triều lên mới chạy. Xuống được ca nô là thoát nạn. “Chúng tôi như được cứu sống, để lại chăn mùng cáng võng, chỉ đem theo mỗi người một bọc quần áo nhỏ bồng bế nhau đi. Trời đêm tháng 11, mưa phùn gió Bấc rét run. Cầu Hàm Rồng bị bom đánh sập, phải qua sông trên một thanh tà vẹt có tay vịn, nhìn dưới sông sóng đánh ầm ầm ghê rợn. Tôi dìu cháu Châu, anh Thuật cõng cháu Chi, Bà Nội cõng cháu Trâm, lần từng bước không dám nhìn xuống sông. Chúng tôi xuống một chiếc ca-nô đang nổ máy. Mờ sáng ca-nô chạy nhưng chỉ ra được một chút thì mắc cạn phải chờ nước lên mới chạy được và chỉ vài tiếng sau là đến Nam Định. Khi xét tầu xét giấy tờ, anh Thuật xuất trình chứng minh thư cán bộ giáo dục đưa vợ con đi chữa bệnh có giấy đề nghị của Bác Sỹ Hà Lũng. Tôi cho cháu Trâm bú mà trống ngực đánh thình thình chỉ lo không thoát được thì chết cả nhà, miệng khấn Ông Bà Tổ Tiên phù hộ. Có lẽ sự thành tâm của tôi linh ứng chăng, chỉ mười lăm phút sau là tàu lại lên đường và chiều hôm sau là đến Bến Hà Nội”.

      Từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng là đoạn đường gai góc. Còn hơn một tháng nữa Việt Minh mới tiếp thu Hải Phòng, ai muốn vào Nam thì đi tầu hỏa xuống Hải Phòng. Đến Hải Dương là ranh giới, tầu dừng lại để thanh lọc ai đi ai ở. “Mẹ con tôi rúc vào góc toa chở than, mặt mày đen nhẻm, ai lên ai xuống kệ họ. Anh Thuật xuống sân ga đi lại với quần áo cán bộ, đeo xắc cốt đi dép râu, tụi công an tưởng phe ta không hỏi giấy. Nhìn qua bên kia ga thấy toàn lính da đen bồng súng đứng gác, thấy mà ớn. Tầu bắt đầu hụ còi chạy xình xịch, anh Thuật nhẩy vội lên tôi thở phào thoát nạn”.

      Tầu đến ga Hải Phòng, miền đất hứa của Tự Do, bao nhiêu người ra đón, biểu ngữ giăng đầy chào đón đồng bào vào Nam. Gia đình đang lớ ngớ thì có chú Tâm đón đưa về nhà. Một lũ lếch thếch trốn từ Khu Bốn của Việt Minh ra, họ hàng trông thấy ai nấy dều tỏ lòng thương xót. Sáng ra bà cô tôi đưa cho 5 đồng Đông Dương bảo ra mua bánh cho các cháu. “Hàng bánh ngay trước cửa, tôi mua cho các con ăn. Nhìn các con ăn ngon lành mà lòng mẹ sung sướng ứa ra nước mắt. Khi được biết cha tôi đang làm Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Phan Thiết chúng tôi gửi thư liên lạc. Mẹ gửi cho 2000 đồng, một số tiền to lắm và viết thư cho ông thông gia đang làm Tổng Giám Đốc Công An Bắc Việt, gởi gấm con rể và các cháu xin giúp phương tiện sớm vào Nam”. Được giấy thông hành và sáu vé vào Sài Gòn bằng máy bay, thế là sắp chấm dứt được cơn ác mộng. Những khổ đau nhục nhằn rồi cũng đi vào quá khứ, vết thương cuộc sống rồi cũng lành miệng. Nhưng vết sẹo còn lại sẽ không bao giờ phai được trong tâm hồn.

Bẩy năm giài tựa thiên thu,
Tương lai là chốn ngục tù tối đen
Bao nhiêu hạn, bấy nhiêu hèn,
Nhìn con lòng mẹ ưu phiền đớn đau,
Dòng đời còn có mai sau,
Thì con mẹ lại dãi dầu nắng mưa!
Than ôi! Số mệnh đẩy đưa,
Kiếp địa chủ đó chẳng chừa một ai!
Hận mình là kẻ bất tài,
Đời mình đã hỏng lạc loài bầy con,
Cầu Trời ban phước ban ơn,
Cho tôi sức mạnh thoát cơn hoạn này.

                                      (Bạch Liên)

 

Trần Đỗ Cung
Viết tại Prunedale, 23 tháng Chạp 2006
Theo lời kể lại của em gái nay ở Sài Gòn

 


TRẦN ĐỖ CUNG

Sinh ngày 28 tháng Ba năm 1922 tại Nho Lâm, Nghệ An.

Chính quán tại Nhị Khê, Hà Đông. Trưởng thành ở Thanh Hóa.

Tốt nghiệp Thành Chung tại Collège de Thanh Hóa, nhập học trường Quốc Học Khải Định Huế và tốt nghiệp Tú Tài toàn phần toán năm 1942.

Ra Hà Nội học môn Toán Chuyên Biệt (Mathématiques Spéciales) ở trường Albert Sarraut và đậu các bằng Toán Học Tổng Quát (Mathématiques Générales), bằng Cơ Học Lý Tưởng (Mécaniques Rationelles) năm 1944 và 1945.

Trong thời kỳ này hoạt động tích cực với Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương, Tráng Đoàn Hướng Đạo Lam Sơn của Hoàng Đạo Thúy. Và tham gia phong trào ái quốc Việt Minh chống Pháp cho đến khi trở về Hà Nội năm 1947 làm gián điệp đột nhập đầu não của Pháp ở Thành Pháo Thủ. Năm 1949 thành hôn với cô Nguyễn thị Bảo là con cụ Phủ Nguyễn Đình Tại. Nhận làm Giám Đốc Thể Dục Thể Thao cho Bộ Trưởng Nguyễn Tôn Hoàn và di chuyển vào Sài Gòn.

Động viên nhập ngũ năm 1953, du học Pháp Quốc tại trường Không Quân Salon de Provence và tốt nghiệp cuối năm 1955 với bằng Kỹ Sư Cơ Khí Hàng Không.

Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thanh Niên năm 1964 rồi Tổng Cuộc Trưởng Tổng Cuộc Tiếp Tế 1965-67, ngang hàng Thứ Ủy trong chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, đương đầu và phá vỡ sự phong tỏa kinh tế Thủ Đô của Việt Cộng.

Về hưu quân đội Tháng Mười 1972 với cấp bậc Trung Tá và vào thương trường cho đến khi mất nước thì may mắn di tản qua Mỹ Tháng Tư 1975 rồi được bảo trợ về định cư tại Monterey California cho đến nay. .

Prunedale, 2 Tháng Ba, 2007

Tác phẩm :



Câu chuyện một di dân tị nạn Việt

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.