Trần Đỗ Cung - Chứng nhân lịch sử cận đại |
Hà Nội 1945
Lúc lên bẩy tôi học tại trường Nguyễn Trường Tộ ở Vinh và hay
được anh Nguyễn Quang Trình dẫn vào lớp Nhất ngồi cạnh anh ta ở cuối
lớp. Anh Trình sau này là Tổng Trưởng Giáo Dục của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm. Trong thời gian này đã xẩy ra vụ để tang Nguyễn Thái Học
và các đồng chí bị hành quyết tại Yên Báy. Rồi đến học sinh đủ lứa
tuổi bãi khoá, ăn mặc y phục trắng đi diễn hành tưởng niệm Phan Chu
Trinh. Mật thám Tây chạy đôn chạy đáo với đám chó săn An Nam dò dẫm
tin tức. Trong giới giáo chức nhiều người bị tình nghi trong số có
thân phụ tôi.
Năm 1931 tôi mới lên chín thì bố tôi bị đổi đi làm hiệu trưởng
truờng huyện Nghi Lộc cách tỉnh Vinh 7 cây số về hướng Nam. Hồi ấy
là thời kỳ Xô-Viết-Nghệ-Tĩnh rất sôi động mà Nghi Lộc là cái nôi
lửa-bỏng-dầu-sôi. Năm 1932 xẩy ra vụ thảm sát quan huyện Tôn Thất
Hoàn khi ông đi thị sát với thầy Đề Lại và sáu lính khố lục. Cả đoàn
rơi vào ổ phục kích cộng sản và bị giết chết ném xuống biển Cửa Hội.
Toàn gia có con trai cả Tôn Thất Tần là Vua Tù trong trại cải tạo
của cộng sản. Ngoài ra ba con Tôn Thất Uẩn bằng tuổi tôi sau thành
phó Tổng Giám Đốc Điện Lực Sài Gòn rồi Thượng nghị sỹ trong liên
danh Đại Việt, cô em nhỏ lấy Hà Thúc Ký lãnh tụ Đại Việt Trung Kỳ và
cậu con út còn bế ẵm theo mẹ về Huế.
Tri Huyện mới là Trần Mậu Trinh, một cựu Khố-Đỏ nổi tiếng sát
thủ được đổi về thay thế. Ông ta xin một tiểu đội Lê-Dương bố trí
súng máy bảo vệ huyện đường. Đêm đêm nghe tiếng reo hò rồi tiếng
súng máy nổ ran khiến bố mẹ chạy vội vã kéo bốn anh em chúng tôi ra
nằm phục giữa các luống rau sau trường. Nhiều hôm khi chúng tôi chơi
trên sân trước trường chúng tôi chứng kiến người ta cáng các xác
những người bị hành quyết trên đường cái, chân tay lủng lẳng kinh
khiếp.
Tôi học Tú Tài Toán ở Trường Quốc Học Khải Định. Tôi nhập học
vào tháng Chín 1939 sau khi đậu bằng Cao Tiểu ở Collège de Thanh
Hóa. Năm đầu 1-S có 40 học sinh, 33 nam và 7 nữ. Các học sinh nam
đều mặc áo dài thâm, chân đi guốc chỉ trừ có ba người mặc quần Tây
trắng và sơ mi cụt tay trắng. Đó là Hoàng Kim Nha, Nguyễn Châu Phùng
và Trần Văn Dĩnh về sau làm thông ngôn cho Kempetai Nhật và trở
thành Bộ Trưởng Thông Tin đầu tiên của chính phủ Ngô Đình Diệm. Lại
có một cậu người Mèo trắng trẻo tên là Tou Geu mà chúng tôi gọi là
Tou Ngơ. Mỗi khi nghỉ phép đều được xe tòa Khâm đón ra trịnh trọng.
Học được ba ngày thì Censeur Giamachi dẫn vào lớp một học sinh
mới là người độc nhất Nam Kỳ, dân Tây có cái tên ngộ nghĩnh Albert
Phạm Ngọc Thuần. Anh ta được xếp ngôi cạnh tôi, ít nói, trông dáng
người mảnh khảnh, nước da mai mái đậm đà và đặc biệt có cái mắt trái
lác xệch. Anh mặc quần short đến đầu gối để lộ bộ giò dài và khẳng
khiu. Anh nói giọng miền Nam trầm bổng và hay dùng tiếng Pháp đệm
vào câu chuyện. Đặc biệt trong giờ thầy Ưng Quả giảng Truyện Kiều
thì anh chẳng hiểu mô tê gì hết và luôn luôn hỏi nhỏ “expliques moi
qu’est ce qu’il dit”? Trong ký túc xá anh cũng nằm giường cạnh tôi
giữa một đám nội trú sinh tinh nghịch phá đám “nhất quỷ nhì ma”,
nhưng Albert chỉ ăn nói củ-mỷ-cù-mì, bàn những chuyện cách mạng
Pháp, những tư tưởng của Rousseau, Voltaire và ghê khiếp bạo lực của
Robespierre, Marat cũng như sự kinh hoàng bên Nga khi chủ nghĩa Marx
Lenine đưa đến giết chóc thanh toán man rợ. Học hết năm đầu thì anh
ta biến mất, nghe nói gia đình cho qua Pháp du học. Mãi về sau,
trong năm 1963 trước khi đảo chính Ngô Đình Diệm tôi mới biết anh ta
là Phạm Ngọc Thảo.
Ở đây tôi xin mở dấu ngoặc nói thêm về Albert Phạm Ngọc Thuần.
Bẵng đi sáu năm sau, tôi mới gập lại Albert mà lại ở Hà Nội. Khoảng
10 giờ đêm đầu tháng 10 năm 1945 tôi đang đứng ở sân nhà A Học Xá,
thì bỗng nhiên anh ta xuất hiện. Chân đi đôi dép vỏ lốp xe hơi, anh
mặc bộ quần áo bà-ba đen và cổ quấn một chiếc khăn rằn ri mầu hồng
đậm, đầu đội mũ vải nâu mềm trông đúng như một dân dưới ruộng Nam
Kỳ. Da mặt đen xạm, anh dơ tay xiết chặt tay tôi và vội vàng đi ngay
mồm nói, “Moi mới ra đây đi dự khóa họp đầu tiên Quốc Hội với phái
đoàn Nam Bộ. Đêm nay moi ngủ ở đây và sáng mai phải đi với anh em
sớm lắm”. Albert là con một đại phú gia Sài Gòn có anh là Gaston
Phạm Ngọc Thuần tức Phạm Ngọc Hiền làm Đại Sứ cho Mặt Trận Giải
Phóng ở Đông Đức.
Năm 1962 khi vị Tư Lệnh Cần Lao cho tôi ngồi-chơi-xơi-nước thì
Thảo liên lạc với tôi và móc nối tôi vào vụ đảo chính Ngô Đình Diệm.
Thảo đưa tôi đến họp trong căn nhà của Tướng Đỗ Mậu ở Tổng Tham Mưu,
ngồi ăn trưa với Trung Tá Phạm Đăng Tấn phụ tá của Đỗ Mậu. Trong lúc
ăn, Thảo trình bầy cặn kẽ kế hoạch và tôi được biết là Đỗ Mậu và
Trần Thiện Khiêm là hai vai trò mấu chốt. Họ đề nghị tôi nắm quyền
chỉ huy Không Quân và khi tôi nói nên dùng Trung Tá thất-sủng Nguyễn
Cao Kỳ thì họ nhờ tôi bí mật liên lạc kéo Kỳ vào kế hoạch.
Như đã nói ở trên, tôi thấy Thảo là một người ăn nói thật thà dễ
mến và có đầu óc xã hội cấp tiến. Năm 1946 theo lời thuật lại của
bạn Nguyễn Trung Trinh hiện ở Paris, thì Trinh gập Thảo ở khu Thị
Nghè khi anh đang chỉ huy một tiểu đội phục kích Tây. Thảo bắt tay
Trinh và rủ nhập bọn đánh thực dân. Khi thấy Trinh có vẻ ngần ngại
thì Thảo nói, “Moi biết toi có nhiều bạn phía bên kia, nhưng toi cứ
làm việc của toi và chúng mình vẫn là bạn”. Vào khoảng 1960 anh rời
bưng biền về với phe quốc gia và được Đức Cha Ngô Đình Thục giới
thiệu với Tổng Thống Diệm. Anh được gắn lon Trung Tá Nhiệm Chức và
đua đi làm Tỉnh Trưởng Bến Tre, là một địa phương hiền hòa và phong
phú mà VC đã dùng làm nơi dưỡng quân.
Thảo nhậm chức, thường ra chợ và những nơi công cộng đứng ngang
nhiên lên thùng gỗ nói chuyện và thảo luận với dân chúng như kiểu
“soap box forum” bên Anh Quốc. Tình hình địa phương được ổn định do
sự khéo léo của Thảo. Nhưng có người lại nói Việt Cộng chơi trò hai
mang, khi còn Thảo thì chúng dấu mặt và khi hết Thảo thì chúng lại
hoạt động trở lại do đó người ta nghi rằng Thảo nằm vùng. Xét cho
cùng, vì Thảo đóng vai trò quan trọng trong vụ lật đổ chính phủ Diệm
là một cơ may trời cho khiến cho Bắc Bộ Phủ hoan nghênh tình trạng
bát nháo của Việt Nam Cộng Hòa, thì công của Thảo còn bằng bao nhiêu
lần Phạm Xuân Ẩn hay Vũ Ngọc Nhạ. Vậy tại sao khi chúng chiếm xong
miền Nam chúng lại chỉ tuyên dương vai trò Thảo một cách khiêm tốn,
không ồn ào, không gắn sao cho bóng ma như chúng vẫn làm với Nguyễn
Văn Trổi chẳng hạn. Bởi vậy khi chị nghị sỹ Phan Nguyệt Minh đến
thăm tôi ở Monterey năm 1978 và hỏi “anh có cho Phạm Ngọc Thảo là
cộng sản không” tôi đã trả lời ngay là “không”. Và chị Minh nói,
“như vậy thì anh nên viết một cái gì giải oan cho anh Thảo và đưa
lại an bình cho chị Thảo và cháu gái hiện đang ngụ tại San Diégo”.
Tôi thi đậu Tú Tài toàn phần toán vào kỳ hai năm 1941 vì tôi
trượt kỳ đầu do phân tâm tìm đường du học Nhật Bản qua sự móc nối
của Trần Văn Dĩnh với Tổng Lãnh Sự Nhật. Ra Hà Nội tôi được vào ở
Đông Dương Học Xá mới xây xong, do chính sách chiêu dụ sinh viên của
Toàn Quyền Decoux. Tại Đại Học Hà Nội tôi liên hệ với nhiều bạn mới
ở ba Kỳ cũng như các sinh viên Lào và Mên. Đầo óc thật là cởi mở
không một chút mặc cảm. Tôi có dịp gặp những bạn mới, nhất là các
đàn anh phóng khoáng và ưu tư với tiền đồ nước nhà nếu tương lai
thoát được sự đô hộ của Pháp. Tờ Tuần San Le Monôme của Tổng Hội
Sinh Viên Đông Dương đã đăng những bài úp mở bóng gió đề cao lòng ái
quốc. Những tên lớn như Tổng Hội Trưởng Dương Đức Hiền, Phan Mỹ,
Nguyễn Ngọc Minh, Lê Văn Giạng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Diệp Minh
Châu, là những thần tượng không phai nhòa trong đầu óc trong trắng
của tuổi trẻ.
Mỗi ngày chúng tôi lũ lượt đạp xe độ mươi cây số lên trường Đại
Học Đông Dương tọa lạc tại đường Bobillot. Nghe giảng trong lớp xong
chúng tôi vào Thư Viện tra cứu rồi lại lọc cọc quay về Đại Học Xá
chơi thể thao. Đời sống thật là lành mạnh và vô tư, có chăng chỉ
theo rõi tin tức Thế Chiến mà Pháp Quốc đang ở thế bại. Rồi những
tin về Nhật Bản nuốt gần trọn Trung Hoa và đưa quân xuống các nước Á
Châu về phía Nam trong số có Việt Nam. Các thuộc địa Anh Quốc Mã Lai
Á, Singapore rồi đất Nam Dương thuộc Hòa Lan lần hồi bị phá bỏ. Nhật
Bản tung ra chiêu bài Đại Đông Á gây nên một làn sóng ái quốc và
hãnh diện cho các sắc dân bị các quốc gia Tây Phương đô hộ. Trong
Đại Học Xá chúng tôi đã thành lập các nhóm nhỏ học ngoại ngữ Nhật,
Anh, Đức và Nga. Trong nhóm học tiếng Nhật có hai anh em Đinh Văn
Vinh và Đinh Văn Nam tức là Thượng Tọa Thích Minh Châu sau này.
Những ngày nghỉ chúng tôi thường rủ nhau bát phố đi từng bọn bốn
năm đứa, xe đạp tung tăng, Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bông, Hàng
Đường. Cậu sinh viên tỉnh lẻ, choáng ngợp với đất nghìn năm văn vật,
Hà Nôi băm sáu phố phường, Hàng Bột, Hàng Đường, Hàng Muối trắng
tinh. Sinh viên Bắc và Trung tương đôi nghèo, khác hẳn các bạn
Nam Kỳ rủng rỉnh tiền bạc, cỡi những chiếc xe đạp khung duralumin
bóng loáng. Mỗi tháng mẹ phải gửi ra cho mandat hai chục bạc
và chi phí đầu tiên là 12 đồng đóng tiền cơm cho Học Xá. Phần đông
cánh Trung Bắc ăn thực đơn Việt cũng khá hậu hĩnh, nhưng bọn Nam Kỳ
ăn thực đơn Tây có cả bơ và phó mát và giá đắt hơn vài đồng.
Thỉnh thoảng tôi hay ghé lại nhà số 117 Duvigneau là nơi trọ của
các bạn Trung Kỳ trong lúc chờ có chỗ Đại Học Xá. Ở đây tôi thường
trò truyện với các bạn Lê Bá Hoan, Lê Bá Toại, Nhuyễn Văn Chiển, Ngô
Thúc Lanh, Ngô Điền, Hoàng Đình Phu, là những sinh viên xuất sắc.
Tôi nhận kèm toán cho một học sinh đệ nhị ở xế cửa 117 Duvigneau là
em cô Ngọ tức bà Đại Tá Đỗ Xuân Sinh sau này. Tôi lại dậy thêm cho
một học sinh con một nhà giầu ở biệt thự sang trọng trên đường
Halais. Mỗi lần “cậu giáo” đạp xe đến thì bà mẹ cho người ở đem ra
các trái cam tươi Sunkist, bổ khẩu mời thật là đặc biệt. Tôi cũng
hay đến nhà số 39 Goussard chơi với hai anh em Vĩnh Huyên-Vĩnh Đán
và nhà bạn Nguyễn Mộng Bích ở dốc Hàng Kèn trên đường Jauréguiberry
ăn cơm trưa ở đây với Nguyễn Tấn Hồng, đậu rán chấm tương, rau muống
luộc xanh mướt, chấm nước mắm chanh ớt.
Thỉnh thoảng hứng chí cùng các bạn đi ăn chả cá Thăng Long trên
phố Hàng Cân, trên bục cửa sổ để tượng ông Lã Vọng cầm cần câu. Ngắm
bồi bàn đưa ra đĩa cá nướng thơm phức và dội lên lớp thìa là xanh
tươi một chảo mỡ sôi sùng sục nghe xèo vui tai ấm bụng. Nghe nói bây
giờ đông khách ngoại quốc hiếu kỳ nên phát đạt đã xây lên ba từng
lầu. Tuy nhiên khẩu vị không còn đậm đà như xưa vì cá được chiên
chảo chớ không nướng như hồi trước.
Hàng Cân nối tiếp ra Hàng Giấy là khu cô đầu ngày xưa. Hàng
Giấy gập Đường Hàng Cót thành cái góc nhọn có Trường con gái
Brieux, trước khi tới cầu xe lửa vắt ngang đường, rồi tới Vườn Hoa
Hàng Đậu có Château d’eau. Chỗ gập Hàng Cót bên phía viaduc xe lửa
là nhà Louis Chức thầu đòn đám ma, nhạc phụ bạn Hoàng Phú Linh, Hội
Trưởng Bóng Chuyền và là chủ cửa hàng La Marguerite trong Galerie
Eden Sài Gòn. Anh em cũng rủ nhau đi ăn bồ câu quay Siêu Nhiên thơm
ròn ngũ vị hương, nhai cả đầu, trong ngõ Sầm Công gần Đông Hưng Viên
ở khu Hàng Buồm. Khu này có rạp Quảng Lạc trình diễn đoàn ca Phước
Châu-Hồ Quảng và thỉnh thoảng có đoàn Năm Châu-Phùng Há, Tư Chơi-Năm
Phỉ trong Nam ra diễn.
Mùa Hè thật oi bức, mồ hôi ra như tắm. Ghé lại quán nước chanh
của Mụ Béo trên bờ hồ gần nhà Thủy Tạ đánh một cốc vại nước chanh
đập đá thì thật là tuyệt diệu. Nhìn Mụ Béo nhanh nhẹn tráng cốc cho
vào hai thìa đường, vắt kiệt quả chanh xanh, dùng thìa dài quấy cho
tan rồi dở bao tải chặt một miếng nước đá, lấy một cái chầy nhỏ đập
cái bốp tan vụn ra nhiều mảnh bỏ đầy vào cốc đưa cho chúng tôi hít
hà ừng ực, mát rượi toàn thân.
Lê la lên đầu Hàng Bông nhìn nhà khách sạn cơm Tây Phú Gia
(Hotel Restaurant Phú Gia) nhưng đâu có dám bén mảng vào cháy túi.
Chỉ biết chủ là bà Phủ Công Xuân Bách rất xinh đẹp, cao lớn như đầm.
Bà Bách là cháu ngoại kiến trúc sư Lagisquet đã sang Việt Nam từ đầu
thế kỷ đô hộ Pháp. Ông Lagisquet đã vẽ Nhà Hát Lớn Hà Nội theo mô
hình nhà Opéra de Paris và hoạch định con đường Trường Tiền từ nhà
Hát ra đến Hồ Hoàn Kiếm và tất cả bối cảnh quanh Hồ nối vào khu phố
cổ. Lagisquet có ba đời làm kiến trúc sư. Đời thứ ba Lagisquet xây
mấy villa đẹp tại khu Yersin Đà Lạt. Sau 1947 nhà hàng Phú Gia dọn
về đường Mission đối diện Hồ Gươm gần Khai Trí Tiến Đức, to lớn và
sang trọng hơn ở kế cận nhà in Trần Trung Hòa thân phụ ông Trần
Trung Dung. Phú Gia là tên một làng gần Hà Nội. Tôi đã được anh Đặng
Văn Sung cho ăn một bữa cơm trưa ngon lành và chiêm ngưỡng thật mắt
bà chủ cao ráo trắng trẻo mượt mà, mũi cao dọc dừa, eo thắt đáy lưng
ong, đầu quấn tóc trần, trông như trong tranh của Họa Sỹ Lê Văn Đệ.
Chúng tôi cũng đã biết chơi “plan américain”, nghĩa là cùng vui
rồi tiền ai nấy trả, theo lối nói vui vẻ thường nhật “sống chia đôi,
chết đủ party”! Trong phía sân trước Học Xá, ngoài sân bóng rổ bóng
chuyền ra còn có một miếu cổ trở thành quán bì bún do Chị Sáu và Chị
Ba người Sài Gòn làm chủ cho chúng tôi thưởng thức các món đặc biệt
miền Nam. Nhất là các tô bì bún, bún thịt nướng và chè đậu xanh nước
cốt dừa mà dân Bắc Kỳ lần đầu tiên biết đến. Ngoài góc bên phải ra
đường Bạch Mai, một bạn sinh viên Thú Y tên là Đỗ Tịnh lại mở hàng
Phở Tịnh cũng là nơi lui tới thường xuyên.
Tổng Hội Sinh Viên trở thành trung tâm hấp lực chính trị và văn
hóa của toàn quốc. Những buổi hội thảo và diễn thuyết với các đề tài
ái quốc, lịch sử và văn chương được thường xuyên tổ chức dưới con
mắt nhòm ngó của mật thám Pháp. Những buổi hoà tấu dương cầm-vĩ cầm
Đỗ Thế Phiệt và Nguyễn Trọng Thường được nhiều người thưởng thức.
Các cuộc trưng bày hội họa của Diệp Minh Châu và Nguyễn Văn Sáng
diễn ra tại đại sảnh nhà A. Nam thanh nữ tú Hà Nội kéo nhau đi tầu
điện xuống tận nơi tham dự và anh Sáng đã đặt giá vẽ chân dung
phấn-tiên cho các người đẹp trong số nổi bật có cô Dần ở đường
Mongrand là hoa khôi Hà Nội.
Rồi các buổi tập hát những bản hùng ca của Lưu Hữu Phước với
lời ái quốc rung cảm của Mai Văn Bộ-Nguyễn Thành Nguyên, như Tiếng
Gọi Sinh Viên, Bạch Đằng Giang, Diên Hồng, Chi Lăng, Xếp Bút Nghiên,
vang lên trong tòa nhà chắc hẳn không tránh khỏi con mắt mật thám
chìm Tây. Mỗi cuối tuần Tổng Hội lại tổ chức các cuộc du ngoạn bằng
xe đạp cho biết nước nhà, như đi thăm các di tích đời Lý ở Bắc Ninh,
Chùa Bách Môn, Cổ Loa, Đền Hùng, Chùa Hương, di tích Lam Sơn Lê Lợi,
lăng Nguyễn Kim, lò gốm Bát Tràng. Một số đông kéo nhau tham gia
Tráng Đoàn Lam Sơn của Tráng Trưởng Hoàng Đạo Thúy với những cuộc
thám hiểm Ba Vì, những buổi lửa trại bập bùng ở Láng, tuyên thệ
trung thành với tổ quốc.
Khi Pháp bại trận và Thống Chế Pétain thành lập chính phủ Vichy
thì Pháp ký với Nhật thỏa ước ngày 8 tháng Chạp 1941 do đó lực lượng
viễn chinh Pháp tại Đông Dương sẽ đặt dưới một bộ chỉ huy hỗn hợp
Pháp-Nhật.
Trong thời kỳ tháng Hai và Ba 1945 Nhật Bản dần dần xiết chặt kiềm
tỏa lên chính quyền của Toàn Quyền Đề Đốc Decoux. Nhật đòi thi hành
điều khoản thỏa ước chỉ huy quân sự và tại Hà Nội các cuộc thương
thảo căng thẳng đã diễn ra trong vài ngày để cuối cùng đã đạt được
một thỏa ước khả dĩ và tình hình lại trở lại bình thường như cũ. Tối
mồng 9 tháng Ba 1945, các chức quyền Nhật Bản mở dạ tiệc khoản đãi
các viên chức tương đương Pháp. Đột nhiên vào đúng 9 giờ tối chủ
tiệc nâng cao ly chúc tụng và cuối cùng ôn tồn nói, “Thưa các ngài,
kể từ giờ phút này các ngài là tù nhân của chúng tôi”! Cùng một lúc
tiếng súng nổ vang khắp mọi nơi. Lúc ấy tại Khách Sạn Métropole có
ba nhân sỹ Hà Nội đang ngồi ăn thoải mái. Đó là Tiến Sỹ Nguyễn Mạnh
Tường, Giáo Sư Thạc Sỹ Hoàng Xuân Hãn và Bác Sỹ Phạm Văn Phán. Một
Trung Đội lính Nhật uà vào như vũ bão vây bắt hết các người Pháp.
Tuy nhiên chúng để cho các tay Việt Nam này yên tuy rất hốt hoảng. Ở
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, các đồn bót Pháp đều bị vây cô lập và đầu
hàng. Sáng sớm tinh sương người ta thấy một lá cờ trắng được kéo lên
trên đỉnh tháp thành Pháo Thủ ở đường Duvilliers là biểu tượng quyền
đô hộ Pháp trong ngót một trăm năm lịch sử nước nhà.
Ở Đại Học Xá các sinh viên hết sức xao xuyến, tháo các cọc màn
làm khí giới và tụ tập tại nhà ăn. Quá nửa đêm bạn Bùi Diễm đến cùng
cô Anita Kim con gái cụ Trần Trọng Kim và một sinh viên canh nông
người Nhật tên là Yamaguchi. Họ cho biết là cuộc chính biến đã xong
tốt đẹp và đề nghị nên cô lập tất cả các sinh viên nội trú Pháp.
Chúng tôi hết sức hứng khởi và vồ bất cứ thứ gì khả dĩ làm khí
giới, như dao, nĩa, gậy gộc, gạch đá, hùng hổ đi bắt các sinh viên
Tây lùa vào giam tại biệt thự của Bác Sỹ Giám Đốc Henri Rivoalen,
chờ xe quân đội Nhật chở đi.
Sáng hôm sau Đại Tá Nhật Kudo đến họp với chúng tôi và đề nghị
bầu ra một ban quản trị mới. Không hiểu tại sao mà các anh em có mặt
bầu tôi thay Bác Sỹ Rivoalen, anh Lê Văn Thuấn thay Tổng Thư Ký
Lafont còn anh Phạm Phú Khai làm économe thay Nguyễn Phú Đốc. Anh
Thuấn sau thành Bác Sỹ Trưởng Cần Thơ còn anh Khai trở thành Đô
Trưởng Sài Gòn. Tôi vào ngồi bàn giấy của Rivoalen và dùng xe hơi
đen bóng trương cây cờ vàng phấp phới của “đảng Cờ Vàng”.
Rồi đến Lễ Hai Bà Trưng chọn làm ngày phụ nữ. Trên đường ổ gà
lầm bụi Bạch Mai một đoàn dài phụ nữ diễn hành dẫn đầu bởi cô Phạm
Lệ Trinh, ái nữ ông Phạm Lê Bổng nổi tiếng, cùng cô Trần Thị Nhứ nhà
Teinturerie Tô Châu, phồng mang trợn mắt hô vang các khẩu hiệu ái
quốc. Một Đại Hội được tổ chức tại nhà Hát Lớn Hà Nội với bao nhiêu
kiều nữ Hà Thành. Buổi đại hội có đồng ca, vũ nhạc và những màn hoạt
cảnh cùng các bài diễn văn hùng hồn dưới những tràng vỗ tay nồng
nhiệt và hứng khởi. Hú hồn cho tôi ngồi trong loge VIP, khi các cô
thướt tha đem giỏ đến quyên tiền cho quỹ thì vét mãi trong ví mới ra
được mười đồng cho vào quyên tặng. Thế là cháy túi, mất luôn tiền đi
đánh bát phở Tàu Bay ở cuối Đường Lê Lợi, hoặc phở bổ dưỡng Ngẩu Pín
ở khúc giữa đường Chợ Hôm.
Chỉ vài ngày sau là lễ kỷ niệm Hùng Vương dựng nước tổ chức
trang trọng trên sân tiền đình Đại Học Xá. Khoảng ngót mười ngàn
người tụ tập trong trang nghiêm trật tự, dơ cao các băng khẩu hiệu
và các ngọn cờ vàng trước một bàn thờ đồ sộ khói hương nghi ngút.
Sáu vị bô lão đầu đội mũ bình thiên, mặc áo thụng gấm lam hành lễ
theo nhịp trống chiêng trong làn khói hương thơm lừng. Rồi mọi người
cất giọng đồng ca bản Hùng Vương của Thẩm Oánh trong không khí trang
nghiêm vô cùng cảm động, nước mắt dâng trào:
Bốn nghìn năm văn hiến
Nước Nam khang cường
Là nhờ công đức người xưa
Nay cháu con Tiên Rồng
Sắt son một lòng
Cất cao lời thề
Nguyện khói hương say
Đầu tháng Tư, Chợ Phiên Sinh Viên được tổ chức tại khuôn viên tòa
Đốc Lý Hà Nội, thu hút cả Hà Thành để các bà mẹ đưa các thiếu nữ vào
tuổi trăng tròn đảo qua đảo lại các gian hàng do các sinh viên đội
mũ calot Thanh Niên Tiền Tuyến hợp thời phụ trách, tuyển chọn phu
quân trong đám “phi cao đẳng bất thành phu phụ”.
Tôi còn nhớ có một cuối tuần tôi cùng bạn Nguyễn Trung Trinh
cưỡi xe đạp đi Phủ Lý thăm gia đình bạn Bùi Diễm ở Phố Châu Cầu.
Thân phụ bạn Bùi Diễm là cụ Phó Bảng Bùi Kỷ dáng người cốt cách có
chòm râu cầm dài rậm. Mỗi buổi sáng chị Tiêu bưng lên các bát cháo
hoa rền cho thân phụ và chúng tôi ăn lót lòng với củ cải muối và một
đĩa lạc rang nóng hổi. Khi ăn cụ thấy chúng tôi phải vê sạch vỏ lạc
trước khi cho vào miệng thì bảo chúng tôi là phải ăn cả vỏ để cái
chát đưa cái bùi thì mới tăng vị. Và từ đó về sau tôi luôn luôn ăn
đậu phụng cả vỏ. Câu chuyện giữa già với trẻ xoay quanh từ văn học
đến hiện tình nước nhà tưởng như không bao giờ chấm dứt. Trưa Chủ
Nhật chúng tôi xin phép ra về.
Một việc hi hữu xẩy ra khi chúng tôi đi ngang Ngã Tư Sở là địa
điểm cô đầu. Các ả son phấn lòe loẹt ngồi bày hàng trước các căn phố
nhỏ. Vừa đạp xe qua thì các nàng xông ra mời chào tới tấp trong khi
chúng tôi cứ lầm lũi tiến tới. Bỗng nhiên một cô trẻ chạy vùng tới
và dật phắt cái mũ phớt của bạn Trinh chạy vào trong. Hoảng sợ,
Trinh xuống xe và vừa run vừa nói, “lạy bà cho tôi xin lại cái nón”!
Giằng co một chốc Trinh mới lôi lại được chiếc mũ và chúng tôi cắm
đầu cắm cổ dông một mạch.
Tờ Tuần San chính thức Của Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương bằng
Pháp ngữ tên là Le Monôme được cải danh thành Tự Trị là cơ quan phổ
biến tư tưởng cách mạng của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam. Có lần tôi
đã cùng Nguyễn Kèn (Tướng Thế Lâm) và Lê Văn Giạng (đã từng là bí
thư của Hồ Chí Minh) đạp xe vào miền Trung phân phối báo Tự Trị. Ghé
lại Phủ Lý ở lại qua đêm tại nhà cụ Tuần Kỳ thân phụ bạn Nguyễn Tấn
Hồng ở số 11 phố Châu Cầu. Sau khi phát một số báo tại địa phương,
sáng sớm tinh sương lại lên đường xuôi Nam thì được bạn Phạm Xuân
Chiểu ở xế cửa chạy ra đưa cho mấy gói xôi gà (bạn Chiểu học y khoa,
về sau trở thành Trung Tướng quân đội quốc gia và đã từ chối không
nhận đứng ra lập chính phủ do đề nghị của Hội Đồng Tướng Lãnh để lọt
vào tay Nguyễn Cao Kỳ là một Don Quichote liều mạng). Chúng tôi lại
tiếp tục lên đường qua Thanh Hoá và Nghệ An phân phối nốt chồng báo
Tự Trị chất đầy cao áp các “porte bagages” xe đạp.
Trở về Đại Học Xá không khí sôi động khác thường. Vì mãn nhiệm
Hội Trưởng anh em lo bầu một người khác thay thế anh Dương Đức Hiền.
Cuối cùng anh Phạm Thành Vinh tốt nghiệp Luật được trúng cử. Anh
Vinh hay mặc áo dài xa tanh đen, chân đi giầy hạ bóng láng ra dáng
một tân tri huyện nên không được nhiều cảm tình. Anh là cháu nhà
cách mạng Phạm Hồng Thái có em đang học Luật tên Phạm Thành Chính về
sau trở thàng Tướng Phạm Hồng Sơn, nổi tiếng trong trận đánh đoàn
quân Lepage-Charton và trận Hạ Lào Lam Sơn 719. Có tin xầm xì là anh
Hiền đã rời Hà Nôi lên chiến khu. Người ta đã nói đến Việt Minh với
những tin đồn về Nguyễn Ái Quốc đã có mặt trên Việt Bắc. Trương Tử
Anh đảng trưởng đảng Đại Việt với chủ thuyết Sinh Tồn bí mật tuyển
người tham gia vào các chiến khu và trường võ bị Yên Báy.
Báo Tự Trị đặt trụ sở ngay trong Đại Học Xá với các cây bút tài
tử đầy nhiệt huyết như Nguyễn Sỹ Quốc, Phạm Văn Hải, Lê Khánh Cận,
Nguyễn Xuân Sanh, Trần Đỗ Cung. Các bài viết xoay dần mũi dùi vào
quân đội Phù Tang. Các biếm họa do sự khéo tay khắc bản gỗ của bạn
Phạm Văn Hải làm cho người Nhật tức tối (bạn Hải sau làm Bác Sỹ giải
phẫu thẩm mỹ dưới Orange County và hay lui tới Sài Gòn khi Việt Nam
mới mở cửa để lo thẩm mỹ cho các mệnh phụ mới). Ba tháng sau Đại Tá
Kudo nắm lại chỉ huy Đại Học Xá và trục xuất toàn thể tòa báo ra
khỏi địa điểm. Một nhà hảo tâm cho chúng tôi mượn một biệt thự đối
diện hồ Thiền Cuông và chúng tôi dọn hòm xiểng ra. Nhà bếp học xá
vẫn tiếp tục bí mật cung cấp thức ăn và chúng tôi hăng say làm việc
đổi hẳn đề tài tự trị qua độc lập. Các bài viết trở nên nẩy lửa và
tên báo đổi thành Gió Mới.
Tình hình rất căng thẳng với sự nhòm ngó và de dọa của Kempetai.
Vào giữa tháng Tám có tin mật báo là Nhật sẽ mở cuộc ruồng khám giữa
đêm nên chúng tôi vội vã tẩu tán. Tôi cùng hai bạn Nguyễn Xuân Sanh
và Lê Khánh Cận cấp thiết đạp xe vào làng Quỳnh Lôi đến xin tá túc
tại biệt thự của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Ông Hãn không có nhà nhưng
bà Hãn thuận cho chúng tôi ẩn náu tại chuồng lợn phía xa sau vườn vì
lính Nhật đi lùng ráo riết. Tuy không thơm tho gì mặc dầu không còn
chú ủn-ỉn nào nhưng chúng tôi thấy cũng yên dạ. Mỗi ngày đều có một
cô bé bò qua đám cỏ tranh tiếp tế cho chúng tôi những bữa ăn đạm
bạc.
Một tuần lễ sau, khi biết là chiến tình thay đổi và quân Nhật đã
xuống tinh thần nên chúng tôi liều mạng lộ diện. Rồi khi quả bom
nguyên tử đầu tiên rơi xuống đất Phù Tang thì chúng tôi đạp xe về
Thanh Hóa. Hai bạn Sanh và Cận đi thẳng về Sầm Sơn. Riêng tôi ở lại
với gia đình và được giao nhiệm vụ đi cướp chính quyền phủ Quảng
Xương vào ngày 18 tháng 8, 1945. Ngày hôm trước một anh bạn học cũ ở
trường Cao Tiểu Thanh Hóa đến nhà cho biết là Việt Minh đã sẵn sàng
cướp chính quyền và giao cho tôi đi lấy phủ Quảng với sự yểm trợ tại
chỗ của một đại đội kháng chiến quân.
Tôi hết sức hăng hái đem theo, dấu dưới áo, một chiếc cờ đỏ sao
vàng và một dấu hiệu. Đạp xe về hướng Đông Nam 30 cây số thì đến một
trạm giao liên gặp ba bác nhà quê quần áo nâu sồng trong một túp lều
tranh. Một người đứng tuổi nằm đu đưa trên võng còn hai người kia
ngồi chồm hỗm hút điếu cầy và uống chè tươi. Họ chỉ dẫn đường đến
phủ và căn dặn gắn huy hiệu lên ngực để được kháng chiến quân giúp
đỡ. Tôi điềm tĩnh tiến vào cổng phủ thì anh lính tập gác cổng co giò
vứt súng bỏ chạy. Tôi thản nhiên nhặt khẩu súng và kéo cờ đỏ sao
vàng lên nhưng chẳng thấy bóng dáng kháng chiến quân nào hết! Trong
phủ đường mọi người lục tục leo rào chạy trốn.
Trong thời gian ấy xẩy ra vụ đói chết cả triệu người. Nhiều làng
xóm ở đồng bằng miền Bắc hoàn toàn biến mất. Vào làng thì không khí
yên lặng ghê rợn, không tiếng chó sủa chim hót. Cảnh tượng thật thê
lương, chỉ thấy mấy bụi chuối bị đào gốc và củ bị ăn trụi. Đó đây
các xác chết nằm rải rác lộ thiên có vài con chuột đang gậm nhấm.
Dân chúng già trẻ lớn bé lũ lượt ra đường bưng theo cả bàn thờ tổ
tiên đi tìm sống. Ai nấy gầy dơ xương, mặt mày hốc hác, mắt mũi lơ
láo, gặp gì ăn nấy. Thậm chí đến các cây dọc đường phố Hà Nội cũng
bị gậm tróc vỏ rồi lăn ra chết, da bọc xương khắp đầu đường xó chợ.
Các nhà hàng phố cửa đóng im ỉm, để các nồi cháo cám ra ngoài
cứu đói. Sáng nào tôi cũng cùng các bạn tráng sinh đẩy xe bò đi thu
nhặt các xác khô đét đem đến địa điểm để xe vận tải chở đi hố chôn
tập thể Giáp Bát. Chứng kiến một cảnh đau lòng khi một xe nhà binh
Nhật chở đầy các bao tải gạo chạy chậm lại tại ngã tư Hàng Ngang thì
cả một lũ ma đói xông lên cào cắn các bao gạo rơi vãi. Mặc dầu lính
áp tải Nhật dùng báng súng lưỡi lê đâm đập tới tấp, họ vẫn lăn xả
ngấu nghiến ăn các nắm gạo rơi vãi đầy đường.
Đầu năm 1945 tôi đạp xe về Thanh Hoá ăn Tết. Dọc hai bên đường
cái dài 150 cây số thấy toàn là các xác chết già trẻ khô đét. Qua
Phủ Lý, khi tôi bắt đầu đổ đốc Đồng Quan thì ánh nắng chiều vàng
loang loáng xiên khoai. Bỗng nhiên trước mặt vào khoảng 300 thước
tôi thấy rõ bóng một người đàn bà đang đi lảo đảo. Xe tôi vừa đến
nơi thì người phụ nữ ấy quỵ xuống chết ngay mà tay còn ôm chặt đứa
bé miệng còn cắn vú mẹ. Thật là thê thảm, tôi xuống xe lôi xác hai
mẹ con vào lề, lòng bùi ngùi và hình ảnh vẫn còn in đậm trong trí óc
tôi cho đến bây giờ. Có tin đồn là Nhật bắt dân bỏ lúa và trồng đay
cho họ thu mua dùng vào nhu cầu chiến tranh. Lại có tin nữa là Tây
không cho gạo trong Nam ra gây đói kém để kiểm soát tình hình. Không
biết thực hư ra sao nhưng chúng tôi hết sức căm thù cả Tây lẫn Nhật.
Tình hình chin mùi cho một cuộc nổi dậy dưới ngọn cờ Việt Minh.
Ngày 11 tháng Ba năm 1945 Hoàng Đế Bảo Đại công bố chiếu chỉ, “Theo
tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam
long trọng tuyên bố rằng kể từ ngày hôm nay Hòa Ước Bảo hộ ký kết
với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hoá. Việt Nam thu hồi hoàn toàn
chủ quyền của một quốc gia độc lập”. Các đảng phái quốc gia hình
như thụ động. Việt Nam Quốc Dân Đảng với một quá khứ kiêu hùng khi
vào năm 1930 Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính và các đông chí đã ngửa
mặt hô to Việt Nam Muôn Năm trước máy chém xử tử của Pháp tại Yên
Báy còn lưu ấn tượng sâu xa trong đầu óc chúng tôi. Anh em hăng hái
đứng lên tham gia cuộc chơi hào hùng nhưng không được lãnh đạo.
Chúng tôi cảm thấy lạc lõng và buồn nản trong khi Đai Học đóng cửa
vì các giáo sư Pháp đều bị bắt hết.
Vào đầu tháng Tư Hoàng Đế Bảo Đại thành lập chính phủ do Thủ
Tướng Trần trọng Kim lãnh đạo. Cụ Kim là một học giả uyên thâm và
một sử gia nổi tiếng. Đổng Lý Văn Phòng của Thủ Tướng là Bác Sỹ trẻ
Phan Huy Quát đã từng là hội trưởng Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương.
Một khuôn mặt nổi bật trong nội các là Tiến Sỹ Phan Anh trong chức
Tổng Trưởng Thanh Niên với sự phụ tá của Giáo Sư Tạ Quang Bửu, một
huynh trưởng hướng đạo Trung Kỳ và giáo sư toán nổi tiếng của truờng
Providence Huế. Tổng Trưởng Y Tế Bác Sỹ Vũ Ngọc Anh bị tử nạn khi
đoàn xe kinh lý bị phi cơ Mỹ bắn trên đường đi Hải Phòng.
Nhu cầu cấp thiết là đào tạo ngay các cán bộ quân sự trám vào
các lỗ hổng do quân Pháp bỏ trống. Các sinh viên Huế và các vùng phụ
cận từ Hà Nội về tích cực tham gia ghi học cùng các học sinh gần tốt
ngiệp của trường Quốc Học Khải Định. Đã có tổng số nhập học là 47
khóa sinh quân. Trong tương lai họ đã trở thành những cán bộ quân sự
lãnh đạo mà óc sáng tạo và hứng khởi đã tạo ra các huyền thoại chiến
đấu với các khí cụ thô sơ và đầu óc sáng kiến vô biên. Nhiều học
viên đã trở thành tướng lãnh và nhiều người đã anh dũng hy sinh
trong các chiến trận từ Bắc vào Nam và ở Hạ Lào.
Những tên nổi bật như Đặng Văn Việt đã đánh hơn trăm trận trên
núi rừng Bắc Việt mà quân Pháp khiếp đảm đã đặt cho cái tên Con Hùm
Xám Đường số 4. Lê thiệu Huy, một sinh viên toán nổi danh và tay cờ
tướng cừ khôi, con cụ cử Lê Thước ở Thanh Hóa, tử trận trên sông
Mékong khi dùng thân che chở cứu mạng Hoàng Thân Souphanovang. Sinh
viên Luật Phạm Thành Chính tức Trung Tướng Phạm Hồng Sơn nổi tiếng
trong trận đánh đoàn quân Lepage-Charton và trong mặt trận Nam Lào.
Con trai trưởng Bác Sỹ Lê Đình Thám, Lê Đình Luân bị thương nặng
trọng pháo trong thời kỳ đầu giao tranh với Pháp ở nam Trung Bộ và
đã chết trong tay thân phụ vì liễm độc. Sinh viên Thủy Lâm Nguyễn
Kèn trở thành danh tướng Thế Lâm, sinh viên khoa học Nguyễn Thế
Lương là Tướng Cao Pha chỉ huy quân báo. Cũng có một số đã quay về
với phe quốc gia như Hải Quân Đại Tá Võ Sum là anh hùng thuốc nổ
Trung Kỳ, Không Quân Đại Tá phi công Từ Bộ Cam, kỹ sư Đặng Văn Châu
giám đốc hãng oxygène-acétylène Sài Gòn và tôi thành Trung Tá Không
Quân rồi Tổng Cuộc Trưởng Tiếp Tế phá vỡ sự bao vây kinh tế thủ đô
của Mặt Trận Giải Phóng. Tất cả đều là những người yêu nước nhiệt
thành đã nghe theo tiếng gọi non sông với tấm lòng trong trắng không
gợn chút nào mầu sắc chính trị.
Trở lại Hà Nội, những tay sai khích động đệ tam (agitprops) tung
ra hỏa mù tuyên truyền sự trở về của nhân vật cứu quốc Nguyễn Ái
Quốc với sự yểm trợ của cơ quan OSS Mỹ chỉ huy bởi Dại Úy Patti. Chủ
Tịch Dương Đức Hiền rời Hà Nội lên chiến khu. Đảng Đại Việt tuyển mộ
một số sinh viên gia nhập trường Võ Bị Lục Quân Yên Báy. Ngoài một
số sinh viên Đại Học ra còn một số đông là các học sinh trường Tây
Albert Sarraut. Đầu óc thanh niên bấy giờ hết sức hoang mang nặng
chĩu với những ý nghĩ về tương lai bản thân và những đòi hỏi nội tâm
hy sinh cho sự tồn vong của xứ sở. Thủ Tướng Trần Trọng Kim chấp
thuận dùng bài Tiếng Gọi Sinh Viên của Lưu Hữu Phước làm Quốc Ca.
Quốc Kỳ nền vàng có ba sọc đỏ mà sọc giữa cắt đôi theo quẻ ly trong
sách Trung Hoa.. Tại các trường học mỗi buổi sáng các học sinh chào
cờ mới và đồng hát quốc ca một cách hết sức hồ hởi.
Ngày 17 tháng 8 xuất hiện các truyền đơn kêu gọi tất cả các công
tư chức ngưng việc vào ngày 19 để biểu tình ủng hộ nền độc lập quốc
gia. Một sự hưởng ứng không tiền khoáng hậu; từ sáng tinh sương các
đám đông đã tụ tập kéo từ các phố đến Toà Thị Chính Hà Nội trưng
những khẩu hiệu tiếng Anh trên nền vải trắng chữ đen VIETNAM TO THE
VIET NAMESE (có đầu óc khôi hài đã đọc chệch ra thành “Việt Nam to
thế Việt Nam mẹ xề”) và INDEPENDENCE OR DEATH. Thật là một cảnh
tượng hùng tráng vĩ đại khi các viên chức tầm thường dơ tay cao hô
các khẩu hiệu ái quốc và đồng ca bài Tiếng Gọi Thanh Niên. Bỗng
nhiên trên khán đài, một vài nhân viên khích động dơ cao cờ đỏ sao
vàng Việt Minh và thông báo sự trở về của Nguyễn Ái Quốc cứu tinh
dân tộc.
Rồi cuộc biểu dương không mầu sắc đương nhiên trở thành một cuộc
nổi dậy do Việt Minh dật giây cướp chính quyền dưới sự lãnh đạo của
Hồ Chí Minh. Trong đám đông các nhân viên khích động Việt Minh và
những bàn tay ngây ngô phát các lá cờ đỏ sao vàng nhỏ. Những cánh
tay thật thà dơ cao nắm đấm, mồm hô khẩu hiệu ái quốc mà nức nở tuôn
lệ. Đoàn người hăng say tiến chiếm các cơ quan, đồn bót cảnh sát và
Hiến Binh dưới cặp mắt thờ ơ của lính gác Nhật. Đột nhiên trên bờ hồ
Hoàn Kiếm xuất hiện một đoàn kỵ mã mặc quân phục vàng, chân đi giầy
ủng đen, lưng đeo súng lục, đầu đội mũ thanh niên tiền tuyến. Đi đầu
là Lê Văn Lăng sinh viên Luật và Đào Khánh Thành trước sự vỗ tay say
sưa của đám đông chứng kiến các thần tượng đẹp đẽ ấy.
Ở Huế khi có tin hoàn tất cướp chính quyền ở Thủ Đô thì hai học
viên Nguyễn Thế Lương và Đặng Văn Việt, đầy đủ cân đai bố tử, chân
đi ghệt, lưng dắt súng sáu, được lệnh kéo ngọn cờ đỏ sao vàng lên kỳ
đài Ngọ Môn. Hai anh chàng Ngự Lâm Quân đặt lá cờ cuộn to lên khung
xe đạp và ì ạch đẩy đến bờ thành Hoàng Cung. Họ ra lệnh cho năm lính
pháo đùng hạ cờ vàng xuống rồi buộc cờ mới kéo lên phấp phới. Mười
lăm lính ngự lâm lên cò sẵn sàng nhả đạn thì Hoàng Đế cản nói rằng:
”Việt Minh đó, nếu các chú bắn thì tôi sẽ chết”! Việt và Lương đứng
nghiêm chào theo lễ nghi quân cách đánh dấu chấm dứt Triều Nguyễn.
Vài ngày sau, trên cổng Ngọ Môn, trong một lễ nghi cảm dộng,
Hoàng Đế Bảo Đại trao ấn tín Triều Nguyễn cho Trần Huy Liệu đại diện
chính phủ trung ương. Trong khi ấy một đám biểu tình khổng lồ của
dân chúng cố đô vỗ tay vĩnh biệt vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn.
Nếu Chúa Nguyễn Hoàng đã nghe theo lời tiên tri của Trạng Nguyễn
Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” thì Hoàng Đế Bảo
Đại đã chấm dứt ba trăm năm Triều Đại Nguyễn với câu tuyên bố thoái
vị lịch sử, “Thà làm dân một nước tự chủ còn hơn làm Vua một xứ nô
lệ”!
Học viên Hoàng Xuân Bình là em ruột giáo sư Hoàng Xuân Hãn được
giao trách nhiệm hộ tống Cố Vấn Vĩnh Thụy ra Hà Nội nhậm chức. Theo
lời Bình kể lại, “Xe đưa bốn chúng tôi, Bộ Trưởng Lê Văn Hiến, ông
Phạm Khắc Hòe, anh Thế Lưong và tôi đến miệt An Cựu tới Cung An Định
là chỗ ở mới của Cố Vấn Vĩnh Thụy. Tôi giáp mặt lần đầu ông Vua cũ,
to lớn, phương phi, nhưng nặng nề khi đi đứng, mặc dầu nghe nói là
nhà thể thao. Ông mặc âu phục chải chuốt và nói giọng Huế đặc sệt.
Trên xe Mercury đời 1941 tôi bố trí ở hàng ghế sau, Cố Vấn ngồi
giữa, đồng chí Lê Văn Hiến ngồi bên phải và ông Hòe ngồi bên trái.
Theo sát là một chiếc Packard Familiale chở đầy đồ, thường được
Hoàng Hậu chở các con khi đi ra ngoài. Xe chở Cố Vấn vào Hà Nội sau
khi được phái đoàn Trần Huy liệu đón tiếp tại Phủ Lý trong cơn mưa
tầm tã. Tới ga Hàng Cỏ xe rẽ phải theo đường Gambetta thẳng tắp, vào
đậu trong sân nhà số 51 nguyên là tư dinh của Đốc Lý Pháp”.
Trở lại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố nước nhà độc lập ở công
trường Ba Đình ngày mồng 2 tháng 9. Hồ Chí Minh là tên mới của
Nguyễn Ái Quốc có mầu sắc Đệ Tam Quốc Tế đưa đến nghi kỵ của quần
chúng. Theo Hòa Ước Postdam, quân đội Tưởng Giới Thạch sẽ tiến xuống
Việt Nam giải giới Nhật trong khi quân Anh chỉ huy bởi Tướng Gracey
thi hành nhiệm vụ tại miền Nam. Bộ đội ô hợp của các Tướng Lư Hán và
Tiêu Văn kéo qua biên giới với những sư đoàn đói rách bị phù thũng
và sốt rét, đưa đến cướp bóc, chợ đen và các hành động kém văn minh
làm cho dân chúng bất mãn. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng theo
chân họ hồi hương.
Mặc dầu chúng tôi ngưỡng mộ họ như những nhà ái quốc chân chính
nhưng họ đã chậm chân trở về dưới sự che chở của một đoàn quân thổ
phỉ nên thanh danh của hộ đã lu mờ. Trong khi ấy Việt Minh đã nhanh
chóng kéo sinh viên về với họ. Họ đưa những nhà hùng biện nổi tiếng
xuống Đại Học Xá như Trần Văn Giầu, Phan Mỹ, Nguyễn Ngọc Minh lôi
kéo sinh viên. Đã có các cuộc thảo luận sôi nổi, nhiều khi nặng nề
ẩu đả để đổi tên Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam thành Tổng Hội Sinh
Viên Cứu Quốc, một cái đuôi cho tất cả các hội đoàn Việt Minh. Không
khí nghi kị đã khác hẳn sự đồng lòng nhất chí của thuở ban đầu.
Trong thời kỳ ấy đã xẩy ra các vụ ám sát bắt cóc thanh toán đẫm
máu mà vụ nổi bật nhất là vụ Ôn Như Hầu với hàng chục xác chết bị
đâm chém trong ngôi biệt thự xinh đẹp ở đường Bonifaci. Đây là một
trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tại đây cậu con trai thứ ba của
cụ phủ Giai tên là Đỗ Quang Vỹ từ chiến khu Bắc Giang về ghé lại bị
xử 20 năm và đưa vào giam tại Hỏa Lò rồi khi chiến tranh Việt-Pháp
bắt đầu đã bị thủ tiêu bởi tên đao phủ là cán bộ Chất. Anh trưởng
của Nguyễn Ngọc Linh là Nguyễn Ngọc Trác, sinh viên Luật và võ sỹ
ném lao, bị thủ tiêu trên chiến khu VNQĐD Bắc Giang. Tại Thanh Hóa
Việt Minh lôi chủ nhân Khách Sạn Tứ Dân trên Phố Lớn ra lề đường
đánh tàn nhẫn và giải đi. Ông ta là Đặng Trần Hồ đảng viên QĐD và là
ông nội của Đặng Tuyết Mai, vợ cũ Nguyễn Cao Kỳ. Ngoài đường phố,
các bà vai đeo bị, tay xách giỏ lẵng chạy đi chạy lại buôn bán đồng
Quan Kim-Quốc Tệ.
Trong khi ấy có tin đồn là Đề Đốc Thierry d’Argentieu đã có mặt
trên chiến thuyền ngoài khơi Hải Phòng. Trong Nam quân Anh kéo theo
đuôi bọn Pháp của Leclerc. Nguồn tin gây một chấn động mạnh mẽ và
các sinh viên Nam Bộ bàn nhau trở về xứ đánh đuổi thực dân. Từng
nhóm cưỡi xe đạp xuôi Nam. Tôi còn nhớ những bộ mặt quen thuộc như
Huỳnh Văn Tiễng, Trần Ngọc Liễng, Giang Văn Tửng, Đặng Ngọc Tốt, Mai
Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Trung Trinh, Lâm Trọng Thức, Huỳnh Văn
Huởn, các sáng lập viên của đảng Tân Dân Chủ.
Chính quyền Việt Minh đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng trầm
trọng. Một mặt sự hiện diện của quân Tầu đưa lại cho dân chúng một
bầu không khí bất ổn. Họ thành bình phong cho các hoạt động đối lập
ngày càng lộ liễu của VNQĐD. Trên khu Ngũ Xã VNQĐD ra rả suốt ngày
những lời thoá mạ thậm tệ cộng sản Việt Minh, đặc biệt nhất là các
lời đanh thép của Phan Huy Đán. Thường ngày tôi cùng bạn Nguyễn Tấn
Hồng đem theo bánh mì thịt nguội lên ngồi bờ lề nghe phát thanh QĐD.
Mặt khác sự trở lại của quân Pháp tại Nam Bộ và sự hiện diện của
Thierry d’Argenlieu ngoài khơi Hải Phòng đã tạo nên các áp lực quân
sự và ngoại giao nặng nề. Bởi vậy Việt Minh dùng chiêu bài liên
hiệp, tổ chức Hội Nghị Liên Hiệp trước cuối năm tại Chùa Bà Đá trên
bờ hồ Hoàn Kiếm. Tôi có mặt trong buổi họp ấy với phái đoàn Tổng Hội
Sinh Viên. Chúng tôi đã đến mười phút trước Chủ Tịch Hồ Chí Minh
trong bầu trời u ám, mưa phùn rả rích. Khi phái đoàn VNQDĐ đến với
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam thì họ Hồ mặc áo
ka-ki cổ cao, đi giầy vải hải xảo, vội vã chạy ra, dang rộng hai tay
ôm chầm lấy Nguyễn Hải Thần, hai mắt rưng rưng ướt lệ.
Sau đó chính phủ liên hiệp được thành lập, Nguyễn Hải Thần trở
thành Phó Chủ Tịch, Nguyễn Tường Tam Tổng Trưởng Ngoại Giao và Vũ
Hồng Khanh là Chủ Tịch Quân Ủy Hội. Ông Nguyễn Tường Tam cầm đầu
phái đoàn phó hội với Tây ở Đà Lạt. Rồi Phạm Văn Đồng đi với Hồ Chí
Minh qua Pháp dự hội nghị để ký thỏa hiệp Fontainebleau mùng 6 tháng
3 trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Tây được chính thức trở lại có
nghĩa là Tầu phải cuốn gói về Tầu và VNQĐD hỏng cẳng.
Việt Minh rảnh tay thanh toán các lực lượng quốc gia, phá chiến
khu Đại Việt Gi Linh, trường Lục Quân Yên Báy Đại Việt và các trụ sở
Quốc Dân Đảng trong Hà Nội cũng như các chiến khu Vĩnh Yên và Bắc
Giang. Trên Yên Báy, bộ đội Việt Minh vây hãm xung phong, bắn giết
không nương tay và chém bằng mã tấu, ném thây xuống sông nhuộm máu.
Em kế bạn Đỗ Quang Trị, con cụ Phủ Đỗ Quang Giai là Đỗ Quang Hiển,
sinh viên canh nông, chủ tịch ALAS thoát chết chạy lên Lào Kai. Khi
nghe giới chức Việt Minh địa phương tuyên bố là chính phủ khoan hồng
cho trở về không bắt bớ thì mua vé tàu hỏa về Hà Nội. Đến Yên Báy
anh bị bắt lại đưa đi làm đường khổ nhục. Cụ Phủ Bà lặn lội đi tìm
con đã nhìn thấy cảnh con trai rách rưới đói lả mà chỉ biết khóc lóc
không làm gì được.
Em nhỏ Đỗ Quang Lung đang học Sarraut cũng đi theo bạn vào
trường Lục Quân Yên Báy. Khi bị Việt Minh đánh bật khỏi căn cứ thì
đi theo một tốp chỉ huy bởi Phạm Xuân Chiểu sinh viên y khoa tìm
đường sang Tầu. Lung phần vì sức yếu, phần bị sốt rét nặng nên không
theo kịp và bị bỏ rơi dọc đường làm mồi cho cọp. Bạn Lê Hữu Hoài
sinh viên y khoa thoát khỏi, chỉ huy một trung đội tấn công Việt
Minh và bị bắt giam tại Hỏa Lò trên mười năm trước khi được phóng
thích đi giao bánh mì độ nhật. Có bạn Nguyễn Đình Tú (phóng viên
Nguyễn Tú tường thuật cuộc di tản đau thương trên đường số 7 đưa đến
sụp đổ VNCH) bị mã tấu chém nát lưng ném xuống sông nhưng may dạt
vào bờ sống lại. Hai anh em Đặng Văn Bút, Đặng Văn Nghiên, sinh viên
khoa học là con thứ Bác Sỹ Đặng Văn Dư và em chú bác với Đặng Văn
Việt cũng bị chết thảm trong vụ đánh phá trường Lục Quân Yên Báy.
Còn phải kể Trần Kế Tạo, sinh viên Luật, con truởng Thượng Thư Trần
Thanh Đạt và là thân phụ bà T.T.Nhu, một cây bút sáng giá của San
José Mercury hồi nào, cũng bị thảm sát tại đây.
Gia Đình cụ Phủ Đỗ Quang Giai nguyên Thượng Nghị Sỹ đã mất ba
con trai vào tay đồ tể Việt Minh. Một số thoát qua dược Trung Quốc,
vào năm 1948 bị ép nhập quân Lâm Bưu và khi công sản Tầu thắng thì
đóng bè trở về Lao Kay trên sông Hồng. Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí đón
về thu nạp vào Bảo Chính Đoàn. Tại Việt Nam Học Xá trong một đêm
tháng 11 không trăng sao mù mịt, mấy tên côn đồ Việt Minh đã lẻn vào
nhà A leo lên lầu 3 bắt tuteur Phan Thanh Hòa còn mặc pyjama, bịt
mắt giải đi mất tích luôn. Anh Hòa là anh ruột chị Nguyễn Tôn Hoàn
và là đương nhiệm Hội Trưởng Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam. Tại Đại
Học Xá một bầu không khí u tối bao trùm trong khi các lãnh tụ VNQĐD
lẹ làng chạy theo quân Tầu thoát thân.
Tuy nhiên cuộc hôn nhân gượng ép Pháp Việt đã không bền. Trong
vài tháng trăng mật ngắn ngủi hai phe đã bí mật củng cố các công sự
phòng thủ. Pháp đã lập CSH (corps de security de Hanoi) dùng bọn mật
thám Tây lai. Phe Việt Nam gia tăng các đội Thanh Niên Tự Vệ Cứu
Quốc và đã có các vụ đụng độ lẻ tẻ khắp nơi. Tình hình trở nên tồi
tệ hơn và đã có mật lệnh cho các nhà hàng phố đục tường thông nhau
sửa soạn du kích thành phố. Việt Nam Học Xá cũng lập Đại Đội Sinh
Viên Chiến Đấu. Chúng tôi thay phiên canh gác ngày đêm tại các địa
điểm quan yếu với các khẩu súng mousqueton cổ lỗ sỹ. Hằng ngày có
cán bộ quân sự đến huấn luyện chúng tôi các động tác bò bắn. Có tin
đồn là chính phủ đã di tản lên mạn ngược.
Tại Hải Phòng vào đầu tháng Chạp 1946 đã có súng nổ giao tranh.
Gọi là giao tranh nhưng thực sự phía Việt chỉ có lẻ tẻ một số tổ
chức Cứu Quốc và ít nhóm Tự Vệ thì đánh sao? Súng nổ có hơn một ngày
và Pháp làm chủ tình thế ngay rồi ngưng bắn để điều đình. Chính
quyền và dân chúng được cơ hội tản cư ra khỏi thành phố. Hà Nội cần
kéo dài tình thế để hô hào tiêu thổ kháng chiến. Quốc Lộ Hà Nội-Hải
Phòng bị đào cắt để cầm chân quân Pháp. Lính Pháp đi xục xạo các khu
người Việt và cả khu người Tầu kế cận. Người Việt dơ tay lên đầu và
bị các báng súng tống vào ngực. Người Tầu đeo dấu hiệu Thanh Thiên
Bạch Nhật nên không bị đập. Tây vây dân Việt lại bắt quỳ xuống khám
trước sân tầu thủy Nhà Rồng và đưa về giam tại trại Cát Đem (4ème
Régiment d’Infanterie Coloniale), khám từng người, vạch vai ngửi tay
xem có phải dân bắn súng không.
Dân chúng Hà Nội tản cư hàng loạt bằng đủ loại xe cộ, đem theo
chăn màn cho một cuộc di tản lâu dài. Đêm 20 tháng Chạp Tây nổ súng
chiếm hầu hết các địa điểm quan yếu và các Tự Vệ rút ra ngoại ô. Bác
Sỹ Lê Tài Chất một nội trú y khoa nổi tiếng tử thương khi mặc blouse
trắng ra băng bó cứu cấp nạn nhân. Đại Đội Sinh Viên Chiến Đấu cũng
rút ra dưới áp lực và chém vè khi đến làng Cự Đà trên bờ sông Nhuệ.
Cự Đà là một nơi nổi tiếng làm tương và các ông chồng đều nấu ăn rất
giỏi trong khi phụ nữ rất tháo vát buôn bán. Tại đây tôi được anh
bạn học đưa về nhà cho thưởng thức món ba ba om nấu với các gia vị
đặc biệt. Tất cả thật là hỗn độn, không có lãnh đạo, tôi nằm ngủ
trên bờ sông với đồng bọn, truyện trò bàn tán tùy hứng. Bỗng nhìn
thấy Bác Sỹ Hoàng Đình Cầu ráo riết thiết lập trạm cứu thương khẩn
cấp trong khi Bác Sỹ Phạm Hữu Chương cỡi ngựa tía đảo qua. Xa xa
dưới một tán cây dừa Phạm Duy gẩy guitar ca bài Bên Cầu Biên Giới
vây quanh bởi một nhóm thanh niên như thể trên bãi bể nghỉ mát.
Như vậy chiến tranh lại xẩy ra sau chin tháng hòa bình ngắn
ngủi. Cuộc chiến cam go lãnh dạo bởi các thanh niên trí thức với
lòng yêu nước nhiệt thành chống sự xâm lược của giặc Pháp. Họ không
quan tâm đến Việt Minh và Hồ Chí Minh mà ẩn ý là kéo dân tộc vào một
quỹ đạo man rợ, Cộng Sản Quốc Tế Nga-Tầu. Trong cuộc chiến để kiểm
soát chặt chẽ nhân dân, chúng đã áp dụng tất cả các sách lược
Mác-Mao, xoá bỏ tất cả các di tích văn hóa cổ truyền. Chúng diệt
tiểu tư sản, dùng chính sách đấu tố cải cách ruộng đất của Tầu Mao
và bài học tiêu thổ kháng chiến của Stalin. Năm 1947 chúng tung ra
chiến dịch vườn không nhà trống tiêu thổ kháng chiến để cho Tây lúng
túng theo kế sách Stalin.
Nhưng thật ra Tây đâu đã tiến xa như vậy. Mục đích thâm độc là
nhân dịp triệt hạ tư sản. Bố mẹ tôi sau nhiều năm cần cù dành dụm đã
tạo được một ngôi nhà khang trang ở tỉnh Thanh Hóa. Việt Minh ra
lệnh phá hủy cái công trình mồ hôi nước mắt ấy, một sáng một chiều
trắng tay. Trên Gi Linh chúng bắt ông Cả Bân là chủ đồn điền mặc dầu
đang tham gia ủy ban huyện Nông Cống, đưa ra bãi đấu tố để cuối cùng
thưởng cho ba kẹo đồng, xô xuống hố và không cho con cái chịu tang.
Ở Nho Quan Nghệ An, Bộ Trưởng phụ trách Thanh-Nghệ Đặng Văn Hướng là
song thân anh hùng Đặng Văn Việt vể thăm quê cũng bị đem ra đấu tố.
Bà Hướng uống độc dược quyên sinh còn cụ ông bị bỏ tù cho đến chết.
Cậu con Đại Tá Việt đã làm đơn lên Phạm Văn Đồng xin phục hồi danh
dự cho bố mẹ nhưng vẫn không được trả lời. Cụ Hướng bà là chị ruột
Tráng Trưởng Hoàng Đạo Thuý.
Khi chiến cuộc Việt Pháp xẩy ra ngày 21 tháng Chạp năm 1946 toàn
dân hăng hái tham gia chỉ muốn nước nhà đánh đuổi hết bọn Pháp thực
dân dưới ngọn cờ đỏ sao vàng. Các đảng phái quốc gia cũng mặc nhiên
tham chiến. Các Tráng Sinh trong Tráng Đoàn Lam Sơn đều sẵn sàng
xung vào công tác liên lạc do sáng kiến của Trưởng Hoàng Đạo Thúy
khi các đơn vị chiến đấu tài tử tan hàng rời khỏi Thủ Đô. Nhiệm vụ
liên lạc không nhất định, dùng cặp giò hay xe đạp chuyển mệnh lệnh
đến các đơn vị, hoặc thu thập tin tức trong dân chúng đưa về cơ quan
mà không cần biết là cơ quan gì và ở đâu. Công việc thô sơ, nhân sự
tùy tiện, dùng sáng kiến cá nhân, không có huấn luyện mà tổ chức thì
lỏng lẻo. Nhân vật Hoàng Đạo Thúy là một Trưởng Hướng Đạo nổi tiếng
có tinh thần ái quốc rõ ràng. Gia đình ông có nhiều người danh
tiếng, đóng góp vào Tuần Lễ Vàng những con số khổng lồ. Lại có các
ông anh rể như cụ Đặng Văn Hướng Bộ Trưởng đặc trách Thanh-Nghệ, ông
Phạm Lê Bổng một nhà kinh doanh và chủ báo nổi tiếng Hà Thành. Đương
nhiên Trưởng Thúy đứng lên lãnh đạo hệ thống tình báo khởi thủy mà
cán bộ là các tráng sinh tháo vát, đầy nhiệt huyết và giỏi thám hiểm
đi rừng.
Sau vài năm kháng chiến đảng cộng sản nắm vững tình thế nên từ
bỏ nhãn hiệu Việt Minh. Chúng đưa cán bộ vào phụ trách các việc quan
yếu, chuyển Hoàng Đạo Thúy qua chỉ huy Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn,
Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng phát triển Khoa Học Kỹ Thuật. Các đoàn
viên nổi tiếng như Nguyễn Như Kim, con rể cụ Đốc Trần Văn Thìn, được
gửi đi Thái Lan đem vàng mua các thiết bị vô tuyến cho kháng chiến.
Đoàn viên Đặng Văn Việt lên mặt trận Việt Bắc vang danh với biệt
hiệu Con Hùm Xám Quốc Lộ 4. Các đoàn viên khác như Hoàng Kim Hải,
Ngô Điền, Hoàng Đình Phu, Lê Bá Hoan, Nguyễn Trinh Tiếp đi phụ trách
các công việc của Cục Quân Giới, hệ thống truyền thanh báo chí.
Riêng tôi sau khi Đại Đội Sinh Viên Chiến Đấu tan hàng lang thang ở
Cự Đà, Đồng Quan, Cống Thần thì được cán bộ giao liên Thành tuyển mộ
lên Hòa Bình nhập toán nghiên cứu quân giới của kỹ sư Trần Đại
Nghĩa. Nhưng khi tôi đeo ba-lô đạp xe đến Vân Đình thì Pháp nhẩy dù
xuống, dội lại và mất liên lạc luôn trở về chợ Đồng Quan bán thuốc
Tây độ nhật. Mãi đến tháng 9 1947 thì cán bộ Thành trở lại tuyển tôi
trở về Hà Nội do thám tình hình quân Pháp.
Hôm ấy khi tôi đang ngồi ở chợ Đồng Quan thì Thành (tên thật là
Phạm Phú Ưng, con cụ Án Sát Thanh Hóa, học dưới tôi năm lớp ở Lycée
Khải Định) mò đến cho tôi biết là bạn học cũ Toán Khải Định Nguyễn
Đình Quảng, phụ trách phản gián, nhắn giao cho tôi công tác về thành
điều nghiên tình hình hành quân của Pháp với bí danh Z-4. Sẵn óc
phiêu lưu mạo hiểm tráng sinh cộng với lòng ghét Pháp cao độ, và hơn
nữa vị hôn thê còn trong Hà Nội nên tôi nhận công tác nguy hiểm
không một chút do dự. Sáng hôm sau theo ước hẹn tôi mang một túi
quần áo nhỏ ra chợ Đồng Quan thì Thành đã đợi sẵn. Thành giới thiệu
một nữ giao liên trẻ chit khăn mỏ quạ, mặc áo tứ thân nâu và quần
thâm đi chân đất. Tôi theo chị ta len lỏi qua các làng xóm vắng
tanh, quanh co cả mấy tiếng đồng hồ thì đến chỗ nghỉ chân.
Chỗ tạm nghỉ là một căn lều tranh hiu quạnh và chị giao liên
lặng lẽ rút đi.
Đêm tôi nằm ổ rơm chỉ nghe tiếng ễnh ương òm ọp thâu canh. Tuy nhiên
vì mỏi mệt nên giấc ngủ đến thật nhanh và khoảng bốn giờ sáng một nữ
giao liên khác đến tự giới thiệu có nhiệm vụ tiếp tục hướng dẫn tôi.
Chị này đứng tuổi, ăn mặc xuề xoà, răng đen, môi ăn trầu cắn chỉ.
Tôi ra vại múc nước mưa rửa mặt chải đầu và thay quần trắng sơ-mi
cụt tay trắng mà chị đưa cho, thoát xác bần-cố-nông đen đủi thành
một sinh viên Hà Nội. Rồi tôi lại theo chân thoăn thoắt của chị băng
qua các cánh đồng, men theo các bờ ruộng nhiều khi trơn như mỡ.
Trong đêm khuya không có một bóng người qua lại, các làng mạc thì
vườn không nhà trống, chỉ nghe tiếng giun dế và tiếng cành tre cọ
vào nhau xào xạc. Đi như vậy độ hai chục cây số thì chị ta ngừng
lại, chỉ cho tôi đi độ khoảng 5 cây số thì đến đường cái rồi rẽ phải
vài cây là đến Ngã Tư Sở, rồi đồn kiểm soát Pháp đầu tiên. Xong
nhiệm vụ chị ta lủi ngay không một lời từ biệt.
Lúc ấy khoảng chin giờ sáng, xung quanh vắng tanh. Khi ra đến
Quốc Lộ Một tôi rẽ tay phải và cứ thế đi cho đến khi nghe tiếng Tây
quát “Halte là”. Tôi đứng yên lo sợ thì một tên Thượng Sỹ Pháp dơ
súng vào tôi hô to “Haut les mains”! Hắn tiến sát lại, nắn người tôi
từ trên xuống dưới, lục soát túi quần áo trong có vài quyển sách
Pháp văn rồi hỏi, “Ton nom, où vas tu, que vas tu faire”? Trống ngực
tôi đánh thình thình nhưng tôi cố trấn tĩnh trả lời bằng tiếng Pháp,
“Tôi là sinh viên khoa học, trở về nhà vợ ở số 153 Route Mandarine”.
Sau khi ghi chép qua loa hắn ra lệnh, “Ca va, vas”! Hoàn hồn, tôi
chào rồi dông một mạch, chân bước thoăn thoắt trên con đường tráng
nhựa thênh thang không một bóng người qua lại. Đi độ mươi cây số thì
đến Kim Liên rồi vào đầu Hàng Lọng. Bảo, vị hôn thê tôi, từ trên lầu
chạy xuống ôm chầm lấy tôi khóc nức nở, không ngờ có được trùng
phùng như vậy. Nhưng nào nàng có ngờ đâu là sự trùng phùng này còn
nhiều cam go bất trắc trước mắt!
Bố mẹ vợ tôi là ông bà Phủ Nguyễn Đình Tại về lưu ngụ tại đây là
nhà Từ Đường. Trong thời gian ở đây tôi đi làm thợ may, thợ chụp ảnh
căn cước và cũng không nghĩ trở lại trường lấy nốt cái bằng cử nhân
toán đang dang dở. Độ mươi ngày sau thì tên cán bộ Thành mò đến giao
cho tôi nhiệm vụ điều nghiên sự sắp đặt của tụi Pháp cho cuộc hành
quân sắp tới của chúng. Thì thà thì thụt, Thành lui tới hai ba lần
và Chú Năm của Bảo Nguyễn đình Giáp sinh nghi nói với Bảo, “mày coi
chừng, thằng chồng mày là Việt Minh đó”!
Pháp sửa soạn hành quân thì xuất phát từ Thành Pháo Thủ trên
đường Duvilliers ngay cột cờ. Hai ba lần tôi đạp xe qua địa điểm và
thấy cách tốt nhất và nguy hiểm nhất là đột nhập vào trong mới xác
định được. Tôi thấy 7 giờ sáng thì nhân công lũ lượt kéo vào cổng
qua sự kiểm soát của lính canh rồi trưa lại kéo ra. Vì đám nhân công
khá đông đảo nên tên lính gác chỉ khám từng tốp một thôi và có khi
chỉ lướt mắt qua tờ giấy mà không đọc. Tôi liền liều mạng, may rủi
số Trời. Sáng hôm ấy tôi đi theo đám nhân công lũ lượt đi qua cổng
kiểm soát nhỏ bên cạnh, một tay cầm ghi đông, tay kia cầm mảnh giấy
vớ vẩn điềm nhiên đi vào. Tên lính Lê Dương khoát tay cho tôi đi
qua. Hú hồn, mồ hôi toát ra dưới lưng áo. Sau khi dựa xe vào giá tôi
liền theo đám đông tản mát vào. Có một nhóm độ mười người đi vào
kho. Tôi tháp tùng theo họ khiêng các thùng lương khô ra xe vận tải
GMC che mui bít bùng. Theo chỉ thị của phản gián, ngày hôm sau tôi
đi dạo phố Hàng Ngang, viết hai con số ước lượng nhân công và xe GMC
vào giấy bọc kẹo, vo viên lại rồi vứt xuống gốc cây xế cửa hàng tạp
hóa Đông-Bảo-Cánh-Hồng của bạn Đỗ Quang Trị. Sau khi đi dạo phố một
vòng quay trở lại thì miếng giấy kẹo vo tròn đã biến mất, có nghĩa
là phản gián đã cho người rình sẵn đâu đây. Về sau tôi được biết là
Pháp sửa soạn cho cuộc hành quân Atlante ở miệt đồng bằng.
Tôi trở lại hai lần nhưng không đột nhập, chỉ quan sát bên ngoài
mà thôi. Một tuần sau Thành trở lại cho biết đã nhận được phúc trình
rất xác đáng và chuyển lời khen ngợi của Thủ Trưởng. Tôi tỏ ý vui
mừng thì hắn rút ra một bọc lá chuối khô vuông vức nói là thuốc
phiện thô cần tiêu thụ vì ngoài ấy anh em cần tiền. Tôi nói là không
rành việc mua bán nên nhờ người khác thì hơn. Thành có vẻ tiu nghỉu,
nhét gói nhựa vào túi và bắt tay ra về. Trong đầu óc tôi lúc ấy đã
thấy có điều không ổn. Được ít ngày sau thì tôi gặp anh Đặng Văn
Sung rủ tôi về cùng ở biệt thư 68 Reinach mà anh thuê rẻ của bà em
họ Phan Huy Quát khi gia đình dọn lên Clinique Émile Sargeant trên
phố. Biệt thự xinh xắn nằm trong khu vườn trồng cây và từ đường phố
đi vào phải qua một cái cổng sắt uốn rèn rất đẹp. Đã có sẵn vợ chồng
một anh bếp lo cơm nước.
Anh Sung đứng đầu Đảng Đại Việt miền Bắc mà người ta thường gọi
là Đại Việt Quan Lại vì có nhiều quan chức Phủ-Huyện tham gia. Anh
Sung hay đi vắng và giao tôi đôn đốc mọi việc. Qua sự giới thiệu của
anh Sung, tôi vào làm ở Sở Xã Hội Bắc Việt dưới quyền cô Rosa Minh
trong chức vụ Chủ Sự Phòng Cho Vay Danh Dự (prêt d’honneur) cho các
gia đình hồi cư. Chủ Sự Kế Toán là bạn Nguyễn Duy Giá sau này thành
Tỉnh Trưởng Nam Định và bị cộng sản giết chết khi anh đang làm việc
tại Bank of Tokyo ở Sài-Gòn.
Nhà 68 Reinach là nơi lui tới các nhân vật chính trị, các đảng
viên Đại Việt, Duy Dân, người Bắc cũng như Nam họp hành, ăn uống và
có khi lưu lại qua đêm. Anh Sung thường đi Pháp hay Hồng Kông trong
thời gian ngắn liên lạc với Cựu Hoàng Bảo Đại. Lúc ấy Tân Thủ Hiến
là Nguyễn Hữu Trí, một thành viên Đại việt Quan Lại. Những nhóm Đại
Việt lưu vong từ Hồng Kông về cũng như nhóm học viên võ bị Yên Báy
hồi hương trên bè xuôi sông Hồng như các anh Phạm Xuân Chiểu, Vũ Văn
Phấn, Đặng Văn Đệ, Vũ Đức Hải, Trần Thanh Đạm đều tụ tập ở đây. Tôi
thành thân thiết với các bạn Nguyễn Tất Ứng, Nguyễn Đình Tú, Phạm
Trọng Nhân và các bạn Đại Việt miền Nam như Nguyễn Tôn Hoàn, Đỗ Văn
Năng, Trần Ngọc Lập (Thái Còng), Nguyễn Ngọc Huy (Ba Xạo) và trở
thành phóng viên của báo Thanh Niên Sài Gòn và báo Thanh Niên Hà Nội
trên Đường Hàng Bút. Rồi không biết từ bao giờ tôi nghiễm nhiên đeo
nhãn hiệu Đại Việt. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân thay đổi qua Nguyễn
Phan Long và anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận Bộ Thanh Niên giao cho tôi
Giám Đốc Thể Dục Thể Thao.
Một hôm cán bộ Thành mò đến 68 Reinach yêu cầu tôi chuyển hướng
theo rõi các hoạt động của các phe nhóm quốc gia nhất là Đảng Đại
Việt. Tôi sững sờ vì lúc nhận nhiệm vụ vào thành là để đối phó với
Tây chớ đâu phải làm chó săn rình mò các đảng phái yêu nước. Tuy
nhiên tôi không để lộ ý tưởng và chỉ ầm ừ cho qua và trong đầu đã
sẵn có kế hoạch thoát khỏi bọn chúng, nhất là khi tôi nhận được một
bức thư viết tay ký tên Đặng Văn Việt dục tôi ra huấn luyện bổ túc.
Cho nên khi chính phủ trung ương rục rịch di chuyển vào Nam tôi liền
xung phong đi trước nghiên cứu đưa bộ Thanh Niên vào Sài Gòn. Tôi đi
với hai bạn Nguyễn Tất Ứng và Nguyễn Đình Tú, nhận lãnh biệt thự số
185 Mayer là tư dinh Bộ Trưởng nhưng chưa có phòng sở làm việc.
Chúng tôi xếp đặt từng trên làm chỗ ở và từng dưới gồm cả hành lang
và nhà để xe thành cơ sở bộ. Cuộc sống Sài Gòn thoải mái với các
giải trí trường Chợ Lớn, các Chợ Trâu (marché aux buffles) tức các ổ
bình khang của lính Tây trên đường Galiéni. Công việc bận rộn tổ
chức Bộ Thanh Niên đã cho tôi xa lánh những lo âu về cán bộ Thành và
công việc tình báo tôi đã nhận với Việt Minh.
Rồi tôi nhập ngũ, du học hơn hai năm tại trường Không Quân Salon
de Provence của Pháp càng làm cho tôi quên hẳn bộ máy kháng chiến
Việt Minh. Nhưng cái nhãn hiệu rởm Đại Việt Bắc Kỳ vẫn theo đuổi tôi
trong suốt đời quân ngũ. Cho đến sau đảo chính 1-11 lật đổ chính
quyền Ngô Đình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ chấp chính giao cho tôi chức Tổng
Cuộc Trưởng Tiếp Tế, hàng Thứ Ủy, đương đầu với sự phong tỏa kinh tế
Thủ Đô của cộng sản. Tôi vẫn ở trong căn cứ Tân Sơn Nhất cho có an
ninh và tránh các áp lực tài phiệt.
Thế rồi đầu tháng Tư 1966 bỗng nhiên có một khách lạ vào hỏi
tôi. Tôi chạy ra thì ngỡ ngàng, trước mặt tôi cán bộ Thành bằng
xương bằng thịt không biết làm cách nào mà đã lọt qua cổng gác Phi
Long vào nhà. Tôi điềm tĩnh mời hắn ngồi, liếc mắt xem hắn có khí
giới không và hỏi một cách thân tình, “Đã lâu quá sao bây giờ chú
lại vào đây, từ lúc nào vậy”? Tên Thành, mặt bủng da chì như nghiện
thuốc phiện, trả lời tôi một cách khiêm tốn không áp đảo đương đầu.
“Thưa anh em bỏ bên kia rồi. Em vượt Bến Hải vào đây”. Tôi hỏi lại
ngay, “Trông chú như nghiện ngập phải không, bây giờ làm gì sống”?
Thành trả lời, “Em trót nghiện nhưng đã cai rồi; bây giờ em làm Bí
Thơ cho Tổng Trưởng Lao Động. Em chỉ muốn đến thăm anh thôi và mừng
thấy anh vẫn khỏe”. Tôi tin lời hắn và cũng không báo cho an ninh.
Cuộc đời của tôi từ năm vào ngưỡng cửa Đại Học cũng khá rắc rối
sau ba năm đầu tươi đẹp vô lo ở Hà Nội, như một sinh viên hấp thụ
các điều mới lạ trong chốn Ngàn-Năm-Văn-Vật. Kể từ khi thời cuộc đưa
đẩy với cao trào ái quốc chống Pháp, với những say sưa không tính
toán, tôi cũng đã bị Việt Minh lợi dụng lòng ái quốc của mình cũng
như bao nhiêu thanh niên thời đại. Tuy nhiên tôi còn may mắn thức
tỉnh sớm, có lẽ không phải vì đầu óc suy xét của mình mà tôi cho là
do ông bà ông vải phù hộ.
Cho nên tôi đã thoát khỏi cảnh tù tội cộng sản hay cái vỡ mộng
của bao nhiêu bạn đã xả thân vì nước làm công dã tràng vun xới đất
nước Việt Nam để bây giờ tuy có danh nhưng há-miệng-mắc-quai, nuốt
cay ngậm đắng như các Đặng Văn Việt, Lê Thiệu Huy, Phạm Thành Chính,
Lê Đình Luân, Nguyễn Kèn, Nguyễn Thế Lương, Phan Hạo, Hoàng Xuân
Bình, Ngô Điền, Hoàng Đình Phu. Họ phải ngồi nhìn bọn bần-cố-nông
cộng sản, sâu-bọ-lên- làm-người, hành xử như những tư-bản-đỏ bóp nát
nhân dân nghèo đói, để hưởng thụ trên xương máu của các anh hùng
liệt sỹ hy sinh cho tổ quốc.
Tôi không được sinh trưởng tại Hà Nội và chỉ sống vẻn vẹn ở Hà
Thành có ngót sáu năm. Trong đời sống sinh viên tỉnh lẻ, tuy nghèo
tiền, nhưng tôi cũng đã có dịp làm quen khá rõ mức sống văn hóa và
không khí phong phú cổ kính trong một nền nếp lịch sử đã hun đúc từ
bao nhiêu Triều Đại. Chưa bao giờ tôi trở lại thăm nền-xưa-lối-cũ
nhưng theo những tin tức qua báo chí và các mạng truyền thông cũng
như sự kể lại của bạn bè đã về thăm quê hương, hình như họ đã và
đang phá tan hoang cái di sản quý giá nhất của tổ tiên để lại.
Thật là một sự phí phạm ngu xuẩn, đến nỗi những địa danh như
Nghi Tàm, Hồ Tây cũng đã bị hiếp dâm một cách thô tục. Tất cả khu
phố cổ với băm sáu phố phường đang dần dà bị biến thể khiến cho các
du khách ngoại quốc kêu trời! Ngay gần Núi Nùng, một địa danh lịch
sử ở khu vườn bách thảo lại sừng sững mọc lên lăng Hồ Chí Minh với
kiến trúc Nga Sô lạc lõng bê tông cốt sắt như chửi rủa ngôi chùa Một
Cột tiền nhân để lại. Ô hô ai tai cho Hà Nội, một đô thị trong
sông!
Trần Đỗ Cung
Viết tại Prunedale,
Monterey, California.
Giáng Sinh 2006 |