Trần Đỗ Cung - Chứng nhân lịch sử cận đại |
Những gián điệp
trong chiến tranh VN 1946-1975
Khi chiến cuộc Việt Pháp bùng nổ ngày 21 tháng Chạp năm 1946,
toàn dân hăng hái tham gia vì lòng yêu nước cao độ chỉ mong muốn
nước nhà đánh đuổi hết bọn Pháp dưới lá cờ đỏ sao vàng Việt Minh.
Tất cả các tráng sinh trong Tráng Đoàn Lam Sơn đều sẵn sàng xung vào
công tác liên lạc sau khi các đơn vị chiến đấu tài tử tan hàng rời
khỏi Thủ Đô. Nhiệm vụ liên lạc không có định nghĩa nhất định. Có khi
là dùng cặp giò hoặc xe đạp chuyển những mệnh lệnh đến các đơn vị.
Cũng gồm cả thu thập các tin tức lượm lặt trong dân chúng đưa về cơ
quan mà không cần biết là cơ quan gì và ở đâu. Công việc thô sơ và
nhân sự cũng tùy tiện, dùng sáng kiến cá nhân, không có huấn luyện
mà tổ chức thì lỏng lẻo.
Nhân vật Hoàng Đạo Thúy là một Trưởng Hướng Đạo nổi tiếng,
tinh thần ái quốc rõ ràng, trong gia đình có nhiều người danh tiếng,
đóng góp vào Tuần Lễ Vàng những con số khổng lồ. Lại có các ông anh
rể như cụ Đặng Văn Hướng Bộ Trưởng đặc trách Thanh Nghệ của chính
phủ, ông Phạm Lê Bổng, một nhà kinh doanh và chủ báo nổi tiếng Hà
Thành. Đưong nhiên Trưởng Thúy tự đứng lên lãnh đạo hệ thống tình
báo khởi thủy mà các cán bộ là các tráng sinh, rành lối sinh hoạt
tháo vát và thám hiểm đi rừng.
Sau vài năm chiến tranh với Pháp, đảng cộng sản Việt Nam nắm
vững tình thế, từ bỏ nhãn hiệu Việt Minh và đưa cán bộ vào phụ trách
mọi việc quan yếu. Họ chuyển Trưởng Hoàng Đạo Thúy qua Chỉ Huy
Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn. Các đoàn viên nổi tiếng như Nguyễn Như
Kim được gửi đi Thái Lan đem vàng mua các thiết bị vô tuyến cho
kháng chiến. Đoàn viên Đặng Văn Việt đi chỉ huy trên mặt trận Việt
Bắc trở thành vang lừng với danh hiệu con hùm xám quốc lộ 4. Các
đoàn viên Hoàng Kim Hải, Tôn Thất Hoàng, Ngô Điền, Hoàng Đình Phu,
Lê Bá Hoan, Nguyễn Trinh Tiếp đi các công việc khác như Cục Quân
Giới, hệ thống truyền thanh, báo chí vv. Riêng tôi sau khi Đại Đội
Sinh Viên Chiến Đấu tan hàng lang thang ở Cự Đà, Đồng Quan, Cống
Thần, được cán bộ giao liên Thành tuyển mộ trở về Hà Nội do thám
tình hình quân đội Pháp hồi cuối năm 1947.
Hôm ấy, khi tôi đang ngồi ở Chợ Đồng Quan thì cán bộ Thành
(tên thật là Phạm Phú Ưng, con cụ Án Sát Thanh Hóa Phạm Phú Tiết,
học dưới tôi năm lớp ở Lycée Khải Định) đến cho tôi biết là bạn học
cũ Tú Tài Toán Khải Định Nguyễn Đình Quảng nhắn giao cho tôi công
việc về thành điều nghiên tình hình quân đội Pháp dưới bí danh Z-4.
Sẵn óc phiêu lưu mạo hiểm Tráng Sinh cộng với lòng ghét Pháp cao độ,
và hơn nữa vị hôn thê còn trong Hà Nội nên tôi nhận công tác nguy
hiểm không một chút do dự. Sáng hôm sau, theo ước hẹn, tôi mang một
túi quần áo nhỏ ra chợ Đồng Quan thì Thành đã đợi sẵn. Thành giới
thiệu một nữ giao liên trẻ tuổi, đầu chit khăn mỏ quạ, mặc áo tứ
thân nâu và quần thâm đi chân đất. Tôi theo chị ta len lỏi qua các
làng xóm vắng tanh, đi quanh co mấy tiếng đồng hồ thì đến chỗ nghỉ
chân. Chỗ nghỉ là một căn lều vắng vẻ và ở lại qua đêm trong khi chị
giao liên biến mất. Tôi không biết địa danh nhưng vì từ Đồng Quan về
Hà Nội chỉ khoảng 35 cây số nhưng lại vòng vo mà không theo đường
cái quan.
Tôi ngủ ổ rơm qua đêm và khoảng 4 giờ sáng hôm sau có một nữ
giao liên khác đầu chít khăn tang trắng, ăn mặc xuề xòa đến tự giới
thiệu có nhiệm vụ hướng dẫn tôi đến mục tiêu. Chị ta độ 35 tuổi,
răng đen, môi ăn trầu cắn chỉ, bảo tôi thay bộ quần áo sạch sẽ, quần
dài trắng, áo sơ mi cụt tay trắng mà chị đưa cho. Ra vại múc nước
rửa mặt chải đầu tươm tất thành một công tử sinh viên, khác hẳn kiểu
bần cố nông nâu sồng đen đủi. Tôi lại rảo bước theo chị giao liên
mới này băng qua đồng ruộng độ hai chục cây số thì ngừng lại. Chị ta
chỉ cho tôi hướng đi vào khoảng 5 cây số thì đến đường cái, rẽ phải
vài cây là đến Ngã Tư Sở và đồn kiểm soát đầu tiên của lính Pháp.
Rồi chị ấy lủi ngay không một lời từ biệt.
Lúc ấy khoảng chín giờ sáng, xung quanh vắng tanh vườn không
nhà trống. Khi ra đến Quốc Lộ 1 tôi rẽ lên hướng Bắc và cứ thế đi
cho đến khi nghe hô bằng tiếng Tây “Halte là”! Tôi đứng yên, lo sợ
thì một tên Thượng Sỹ Pháp dơ súng vào tôi la to “Haut les mains”!
Hắn tiến sát lại, lục soát túi quần áo trong có vài ba quyển sách
Pháp Văn, nắn người tôi từ trên xuống dưới rồi hỏi, “Ton nom, où vas
tu, que vas tu faire”? Trống ngực tôi đánh thình thình nhưng tôi cố
trấn tĩnh trả lời bằng tiếng Pháp, tôi là sinh viên Đại Học Khoa
Học, hồi cư về nhà số 153 Route Mandarine (nhà vợ). Sau khi ghi chép
qua loa hắn ra lệnh, “Ca va, vas”! Hoàn hồn, tôi chào rồi dông một
mạch, chân bước thoăn thoắt trên con đường tráng nhựa thênh thang
không một bóng ngưòi qua lại. Đi độ mưoi cây số thì đến Kim Liên rồi
vào đầu Hàng Lọng. Bảo, vị hôn thê tôi từ trên gác chạy xuống ôm
chầm lấy tôi khóc nức nở, không ngờ mà có dược trùng phùng như vậy.
Nhưng nào đâu nàng có biết là sư trùng phùng này còn nhiều bất trắc
cam go trước mắt.
Bố mẹ vợ tôi là ông bà Phủ Nguyễn Đình Tại, về lưu ngụ tại đây
là nhà từ đường. Trong thời gian ở đây tôi đi làm thợ may, thợ chụp
ảnh và cũng không nghĩ trở lại trường lấy nốt cái bằng cử nhân khoa
học đang dang dở. Độ mươi ngày sau thì tên cán bộ Thành mò đến giao
cho tôi nhiệm vụ đầu tiên là điều nghiên sự sắp đặt của tụi Pháp cho
cuộc hành quân sắp tới của chúng. Thì thà thì thụt, Thành đến hai
lần và Chú Năm của Bảo ông Nguyễn đình Giáp sinh nghi nói với Bảo, “Mày
coi chừng thằng chồng mày là Việt Minh đấy”!
Pháp sửa soạn hành quân thì xuất phát từ Thành Pháo Thủ trên
đường Duvilliers ở ngay cột cờ. Hai ba lần tôi đạp xe qua địa điểm
nghiên cứu tình hình và thấy cách tốt nhất và nguy hiểm nhất là đột
nhập vào trong mới xác định được. Tôi thấy 7 giờ sáng thì nhân công
lũ lượt kéo vào cổng đi làm qua sự kiểm soát của lính canh rồi trưa
lại lũ lượt kéo ra. Vì đám nhân công hết sức đông đảo nên tên lính
gác chỉ khám giấy từng vài người một thôi và có khi chỉ lướt mắt qua
tờ giấy mà không đọc; tôi liền liều mạng may rủi số trời. Sáng sớm
hôm ấy tôi đi theo đám nhân công lũ lượt xuống xe đạp đi qua cổng
kiểm soát nhỏ bên cạnh, một tay giữ ghi đông một tay cầm mảnh giấy
vớ vẩn điềm nhiên đi vào. Tên lính Lê Dương khoát tay cho tôi đi
qua. Hú hồn, mồ hôi vã ra dưới lưng áo. Sau khi dựa xe vào giá tôi
liền theo đám đông tản mát vào. Có một nhóm khuân vác độ mươi người
đi vào kho, tôi vội tháp tùng và theo họ khiêng các thùng lương khô
ra xe vận tải. Làm việc đến trưa khi còi hụ tan tầm thì tôi lại điềm
tĩnh theo mọi người ra cổng lấy xe đạp và ung dung ra khỏi Thành
Pháo Thủ Pháp. Tôi ước tính có khoảng trên dưới hai trăm nhân công
vào và tôi nhẩm đếm đuợc hai chục xe vận tải GMC che mui bít bùng.
Theo chỉ thị của phản gián, ngày hôm sau tôi đi dạo phố Hàng
Ngang, viết hai con số vào giấy bọc kẹo vo viên và vứt xuống đất
dưới gốc cây trước cửa nhà hàng tạp hóa Đông-Bảo-Cánh-Hồng của bạn
Đỗ Quang Trị. Sau khi đi dạo phố một vòng lúc quay trở lại thì tờ
giấy kẹo vo tròn đã biến mất, có nghĩa là phản gián đã cho người
rình sẵn đâu đây. Về sau tôi được biết là Pháp sửa soạn cho cuộc
hành quân Alante ở vùng đồng bằng.
Tôi trở lại hai ba lần khác nhưng không đột nhập vào, chỉ quan
sát bên ngoài mà thôi. Một tuần sau Thành quay lại cho biết đã nhận
được phúc trình rất xác đáng và chuyển lời khen ngợi của đồng chí
thủ trưởng. Tôi tỏ ý vui mừng thì hắn rút ra một gói vuông vức bọc
lá chuối khô nói là thuốc phiện thô cần tiêu thụ vì bên ngoài cần
tiền. Tôi không nhận và nói là tôi không thạo mua bán nên nhờ người
khác thì hơn. Thành có vẻ tiu nghỉu nhét gói nhựa trở vào bọc và bắt
tay tôi ra về. Trong đầu óc tôi lúc bấy giờ đã thấy có điều không
ổn. Được ít ngày sau thì tôi gập anh Đặng Văn Sung rủ tôi về cùng ở
biệt thự số 68 Reinach mà anh ta thuê rẻ của bà Phan Huy Quát là em
họ khi gia đình bà dọn lên Clinique Émile Sergeant trên phố. Biệt
thự xinh xắn nằm trong khu vườn trồng cây và từ đường phố đi vào
phải qua một cái cổng sắt rèn uốn rất đẹp. Đã có sẵn vợ chồng một
anh bếp lo liệu dọn dẹp cơm nước.
Anh Sung đứng đầu Đảng Đại Việt miền Bắc mà người ta thường
gọi là Đại Việt Quan Lại vì có nhiều quan chức Huyện Phủ tham gia.
Anh Sung hay đi vắng và giao tôi công việc trông nom đôn đốc mọi
việc. Do sự giới thiệu của anh Sung, tôi vào làm việc tại sở Xã Hội
Bắc Việt dưới quỳền cô Rosa Minh trong chức vụ Chủ Sự Phòng Cho Vay
Danh Dự cho các gia đình hồi cư. Chủ Sự Kế Toán là Bạn Nguyễn Duy
Giá sau này thành Tỉnh Trưởng Nam Định và bị công sản giết chết khi
vào Saigon lúc anh Giá làm cho Bank of Tokyo.
Nhà 68 Reinach là nơi các nhân vật chính trị, các đảng viên
Đại Việt, Duy Dân, người Bắc cũng như người Nam lui tới họp hành ăn
uống và có khi lưu lại qua đêm. Anh Sung thường đi Pháp hoặc
Hongkong trong thời gian ngắn liên lạc với Cựu Hoàng Bảo Đại. Lúc ấy
Tân Thủ Hiến là ông Nguyễn Hữu Trí, một thành viên Đại Việt Quan
Lại. Những nhóm Đại Việt lưu vong từ Hongkong về cũng như nhóm học
viên võ bị Yên Bái hồi hương trên bè xuôi sông tù Vân Nam đều tụ tập
lại đây như các anh Phạm Xuân Chiểu, Vũ Văn Phấn, Đặng Văn Đệ, Vũ
Đức Hải, Trần Thanh Đạm, vv. Tôi thành thân thiết với các bạn Nguyễn
Đình Tú, Nguyễn Tất Ứng, Phạm Trọng Nhân và các bạn Đại Việt miền
Nam như Nguyễn Tôn Hoàn, Đỗ Văn Năng, Thái Còng (Trần Ngọc Lập), Ba
Xạo (Nguyễn Ngọc Huy) và trở thành phóng viên cho Báo Thanh Niên
Saigon của anh Đỗ Văn Năng cũng như Báo Thanh Niên Hà Nội trên đường
Hàng Bút. Rồi không biết từ bao giờ tôi đã nghiễm nhiên đeo nhãn
hiệu Đại Việt. Lúc ấy chính phủ trung ương thay đổi từ Nguyễn Văn
Xuân qua Nguyễn Phan Long và anh Nguyễn Tôn Hoàn làm Tổng Trưởng
Thanh Niên. Tôi được anh Hoàn giao chức vụ Giám Đốc Thể Dục Thể
Thao.
Một hôm tên cán bộ Thành mò đến 68 Reinach và yêu cầu tôi
chuyển hướng theo rõi các hoạt động của các phe nhóm quốc gia nhất
là Đảng Đại Việt. Tôi sững sờ vì khi nhận nhiệm vụ vào thành là để
đối phó với Tây chớ đâu phải làm tình báo chính trị nhắm vào các
đảng phái yêu nước. Tuy nhiên tôi không để lộ ý tưởng và chỉ ậm ừ
cho qua và trong đầu óc thì đã sẵn kế hoạch thoát khỏi bọn chúng,
nhất là lúc tôi nhận được một thư viết tay ký tên Đặng Văn Việt dục
tôi trở ra huấn luyện thêm. Cho nên lúc chính phủ trung ương rục
rịch chuyển vào Saigon tôi liền tự nguyện xung phong đi trước nghiên
cứu di chuyển bộ Thanh Niên vào Nam để rời khỏi địa bàn Hà nội. Tôi
vào Nam với các bạn Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Tất Ứng và nhận lãnh biệt
thự 185 Mayer là tư dinh Bộ Trưởng nhưng chưa có văn phòng làm việc.
Chúng tôi xếp đặt từng trên làm chỗ ở và dọn dẹp từng dưới nhà gồm
cả hành lang và nhà xe thành cơ sở bộ. Cuộc sống Sài Thành thoải
mái, với các giải trí trường Cholon, các Chợ Trâu (marché aux
buffles) của lính Tây (khu Bình Khang của lính Tây). Công việc bận
rộn tổ chức Bộ Thanh Niên đã cho tôi xa lánh được những lo âu về cán
bộ Thành và công việc tình báo tôi đã nhận với Việt Minh.
Rồi tôi nhập ngũ, du học hơn hai năm tại Pháp lại càng làm cho
tôi quên hẳn sự liên hệ với bộ máy kháng chiến Việt Minh. Nhưng cái
nhãn hiệu rởm Đại Việt Bắc Kỳ vẫn theo đuổi tôi trong đời sống quân
ngũ. Cho đến sau khi đảo chính 1 tháng 11 lật đổ chính phủ Ngô Đình
Diệm, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ chấp chính giao cho tôi chức Thứ Ủy
Tổng Cuộc Trưởng Tiếp Tế đương đầu với sự phong tỏa kinh tế Thủ Đô
bởi Cộng Sản. Tôi vẫn ở trong Căn Cứ Tân Sơn Nhứt vì lý do an ninh
và để tránh những áp lực tài phiệt.
Thế rồi đầu tháng Tư năm 1966, bỗng nhiên có một khách lạ vào
nhà hỏi tôi. Tôi chạy ra thì, ngỡ ngàng, trước mặt tôi bằng xương
bằng thịt, là cán bộ Thành không biết thế nào mà đã lọt qua cổng Phi
Long vào nhà. Tôi điềm tĩnh mời hắn ngồi, liếc mắt dò xét xem hắn có
khí giới không và hỏi một cách thân tình: “Đã lâu quá, sao bây giờ
chú lại vào đây, từ lúc nào vậy”? Tên Thành, mặt bủng da chì như
nghiên thuốc phiện, trả lời tôi một cách lễ độ khiêm tốn chớ không
áp đảo đương đầu, “Thưa anh, em bỏ bên kia rồi và em vượt sông Bến
Hải vào đây”.Tôi hỏi ngay, “Trông chú có vẻ nghiện ngập phải không,
bây giờ làm gì sống”? Thành trả lời, “Em trót nghiện nhưng đã cai
rồi. Bây giờ em làm Bí Thơ cho Tổng Trưởng Lao Động. Em chỉ muốn ghé
thăm anh thôi và mừng thấy anh vẫn khỏe”. Tôi tin lời Thành và không
báo cho An Ninh biết.
Cái yếu của phe quốc gia là nặng tình cảm và cả tin. Cho nên
những trường hợp như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng được cài vào cơ
quan đầu não của ta mà không biết. Có lẽ có hằng ngàn gián điệp Cộng
Sản gài khắp các cơ quan quân cũng như dân. Trong đám sinh viên thì
có những Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Văn Nuôi đã bị chính quyền
bắt giam. Riêng Không Quân đã có phi công Nguyễn Thành Trung, gọi là
phản loạn thì không đúng vì hắn nằm vùng để xuất hiện theo chỉ thị
ngoài Bắc. Tướng Hạnh làm Tổng Tham Mưu Trưởng cho Dương Văn Minh
cũng là một tên nằm vùng cơ hội. Trong giới sư sãi cha cố cũng không
ngoại lệ. Thượng Tọa Thích Minh Châu Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn
Hạnh, ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, mà lại vào đảng cộng sản từ năm 1943
với danh tính Đinh Văn Nam. Thượng Tọa Thích Thiện Minh nuôi dưới
trướng bọn Hoàng Văn Giầu là một ổ gián điệp. Về phía các cha cố
cũng vậy, với những linh mục Chân Tín, Thanh Lãng vân vân.
Khoảng 1959 Cộng Sản đưa ra độc chiêu thành lập Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam với các cơ sở di động ở Hố Bò và Chiến Khu D. Các cán
bộ cao cấp như Lê Đức Thọ và em là Lê Đức Mai cải danh thành Mai Chí
Thọ len lỏi từ Bắc vào qua ngả Hạ Lào. Chúng tuyển mộ dễ dàng các
người miền Nam dễ tính và có tinh thần bài Bắc Kỳ để tung vào Sài
Gòn làm công tác phá hoại hoặc tình báo. Chính quyền miền Nam của
Ngô Đình Diệm, với sự trợ giúp của CIA lãnh đạo bởi Đại Tá Lansdale
ráo riết thành lập sở Địa Hình và tuyển mộ các thanh niên quả cảm
gửi ra Bắc. Nhiều toán biệt kích được thả dù xuống các địa điểm chọn
trước, bằng phi cơ lúc đầu của Không Lực Việt Nam rồi sau với các
máy bay Đài Loan do Đại Tá Bob Yeh chỉ huy. Còn có các biệt kích
người nhái xuất phát từ Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng-Mỹ Khê trên các
thuyền chài cải trang rồi các PT boat đột nhập các vùng duyên hải
phía Bắc Vĩ Tuyến 17. Một số ít là các điệp viên đơn độc, phần đông
là người công giáo di cư được huấn luyện cấp kỳ và thả ra Bắc bằng
đường biển.
Trong số điệp viên đon đôc này (singleton) nổi bật nhất là Trần
Viết Hùng bí danh Đặng Chí Bình. Anh ta là một thanh niên trẻ tuổi,
người công giáo, được cha Khuê đề bạt và huấn luyện trong nhiều
tháng bởi nhân viên Trung Ương Tình Báo Quốc Gia cũng như cán bộ CIA
Mỹ. Anh đột nhập miền Bắc bằng đường bể trên thuyền máy xuất phát từ
bến Mỹ Khê Đà Nẵng. Sau chuyến đầu thất bại, chuyến thứ nhì thì đổ
bộ vào bờ bể Hà Tĩnh và men theo Quốc Lộ Một về Hà Nội. Là một thanh
niên công giáo mới lớn lên, ở lứa tuổi hai mươi, Bình đã xông xáo
nhận một nhiệm vụ ngắn và giới hạn thi hành trên địa bàn Hà Nội. Có
thể nói nhiệm vụ có tính cách chiến thuật, đưa mật thư cho ba đối
tượng qua mật khẩu.và quan sát tình hình dân chúng, cũng như sư đoàn
308 của Thiếu Tướng Vương Thừa Vũ. Sau ba tuần lễ hoạt động trong
tình tiết căng thẳng anh ta bị đối phuơng phát hiện và bắt vào Khám
Hỏa Lò biệt giam dã man, thẩm cung hằng ngày, ăn uống đói khát. Có
lần anh đã lừa trốn tù và bị bắt lại rồi bị đánh đập tàn nhẫn đưa
đến quyết định thắt cổ tự tử.
Sau sáu năm hành hạ trong Hỏa Lò anh Bình bị chuyển về các
trại lao cải khắp nơi trong mười hai năm. Trong thời gian này, ngoài
sự hành hạ thể xác, anh gập các nhóm biệt kích và cả phi công Phan
Thanh Vân bị hạ trong chuyến thả tình báo tại Cồn Thoi Ninh Bình.
Sau khi mãn án 18 năm anh Bình trở về Sài Gòn với cha già đã lẩm cẩm
và bà mẹ mù lòa, thi hành bản án năm năm mất quyền công dân. Anh
Bình đã can đảm đào thoát được qua Mỹ và định cư tại Boston. Nghe
nói sau khi Cộng Sản chiếm Saigon chúng đã bắt cha Khuê tùng xẻo và
vứt xác ra bãi rác. Phải nói Gián Điệp Đăng Chí Bình chỉ là một loại
nhỏ và được tiếng vì đã cắn răng qua sự giam cầm hành hạ độc ác của
Việt Cộng tại Hỏa Lò cũng như các trại lao-cải dã man của chúng. Ở
Boston anh Bình đã ngày ngày vào thư viện Đại Học UMA viết 1,800
trang hồi ký Thép Đen kể lại câu chuyện kinh hoàng đầy máu và nước
mắt trong ngục tù tàn bạo cộng sản. Thép Đen đã dược hoàn tất trong
mưòi hai năm, như “một chứng tích, một di cảo cho tất cả đã nằm
xuống hay còn trong ngục tù ác dộc và man rợ Cộng Sản Bác Việt”.
Về phía Việt Cộng thì có Phạm Xuân Ẩn được tuyển chọn vào
chiến khu rồi gửi đi Hoa Kỳ học báo chí tại Orange County Community
College để trở về hoạt động tình báo chiến lược. Ẩn sanh năm 1927
tại Biên Hoà. Cha là một công chức đạc điền tầm thường gốc Hải
Dương, thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh và mẹ cũng quê miền Bắc. Năm
1945 Ẩn cũng như các thanh niên cùng trang lứa đã theo Việt Minh vì
lòng ái quốc. Trong những năm xáo trộn ở Sài Gòn, Ẩn đã tham gia các
cuộc biểu tình xách động và gập Bác Sỹ Phạm Ngọc Thạch đưa vào chiến
khu D. Bác Sỹ Thạch muốn Ẩn trở thành một cán bộ tình báo chiến
lưôc. Ẩn gia nhập đảng cộng sản năm 1954 tại rừng U Minh dưới sự
chứng kiến của Lê Đức Thọ.
Khi về Sài Gòn Ẩn vào làm việc cho cơ quan TRIM và được cơ
hội gập các nhân vật CIA trẻ Mỹ như Lansdale và các sỹ quan trẻ Việt
Nam sau này trở thành những nhân vật trọng yếu trong chính trường.
Mười Hướng là Thủ Trưỏng của Ẩn đã nhìn rõ tương lai và quyết định
gửi y qua Mỹ học về báo chí. Mai Chí Thọ thu xếp đủ tiền mua vé đi
Mỹ và Bác Sỹ Trần Kim Tuyến đã giúp lấy chiếu khán xuất ngoại năm
1957. Về nước Ẩn vào làm cho Việt Tấn Xã dưới quyền Nguyễn Thái và
được ký hợp đồng bán thời gian với Reuters trong bốn năm trước khi
trở thành phóng viên cho tuần báo Mỹ Time, viết bài cho New York
Herald Tribune và Christian Science Monitor.
Dùng một máy chữ Hermès cung cấp bởi Phản Gián Bắc Việt, Ẩn
đánh các phúc trình mật trong đêm, làm phóng ảnh và cải trang như
các cuộn phim chưa chụp rồi gửi qua giao liên đến hầm địa đạo Củ
Chi. Từ đó tài liệu được tức tốc hộ tống đến núi Bà Đen rồi chuyển
qua Nam Vang và được gửi bằng máy bay qua Quảng Châu để cuối cùng về
tay Bộ Chính Trị Bắc Việt. Đóng đúng vai trò phóng viên, Phạm Xuân
Ẩn đã chỉ đưa ra những tin tức xác thật, không thêu dệt thêm bớt. Ẩn
đã nói, “Hai công việc tôi làm có vẻ trái ngược nhau nhưng thật
ra lại rất đồng bộ: Công việc gián điệp phải thu thập tin tức, phân
tách kỹ lưỡng rồi giữ bí mật như con mèo dấu cứt; Nhiệm vụ của nhà
báo cũng là thu thập và phân tách tin tức nhưng để đưa ra cho thế
giới biết sự thật”. Thí dụ anh ta đã cắt nghĩa với nhà báo Mỹ
Bob Shaplen là nếu thấy chợ chim hiếm cào cào thì chắc là vùng sản
xuất đã bị Việt Cộng chiếm; và khi cào cào trở lại trên thị trường
thì quân ta đã chiếm lại vùng ấy. Là một điệp viên tứ trùng, làm
việc cho đệ nhị phòng Pháp, cơ quan phản gián phôi thai của Việt Nam
Cộng Hòa, CIA Mỹ và Cộng Sản Bắc Việt, Ẩn sống trong căng thẳng tột
cùng như “một con cá trong ao, bị bắt lúc nào không biết, và phải
sẵn sàng chịu tra tấn thẩm cung theo số mạng”.
Ẩn thường la cà ở nhà hàng Givral và đậu chiếc xe Renaukt-4 cũ
mèm trên bờ hè. Tại đây anh trao đổi tin với các đồng nghiệp ngoại
quốc và gặp các bạn sỹ quan Hải Lực Không Quân đấu láo để biết những
tin tức hành quân cũng như chính trị. Trưóc khi xẩy ra vụ Tết Mậu
Thân Ẩn đã liều mạng hướng dẫn Tư Cang qua các ngõ ngách thành phố,
đường đi nước bước, chỗ chứa nhiên liệu Nhà Bè, tòa Đại Sứ Mỹ, Ngân
Hàng Quốc Gia vv... Một nữ phóng viên chiến trường Mỹ Laura Palmer
gọi đùa Ẩn là Thiếu Tướng Givral, một trùng hợp ngẫu nhiên vì sau
khi thắng trận, Bắc Việt đã thăng chức cho y là Thiếu Tướng anh hùng
quân đội nhân dân. Nhưng Ẩn lại nói đùa là y chỉ là Tướng quân tình
dục, Tướng chuyên đảo chính hay Tướng quân khuyển. Ẩn rất thông
minh, điều nghiên tình hình, phân tách các khía cạnh tương quan
chính trị, kinh tế xã hội gửi ra Bắc. Khi Bắc Việt gửi đại quân để
thanh toán chiến trường họ lo nhất là Mỹ có thể trở lại, các pháo
đài B-52 lại oanh kích trải thảm và Hạm Đội 7 ở ngoài khơi lại bắn
phá đổ bộ. Phúc trình của Ẩn phân tách kỹ tại sao Mỹ không thể trở
lại, nhất là Mỹ đã giảm thiểu quân viện, giới hạn bom đạn và nhiên
liệu cho không quân ta.
Khổ cho chúng ta là Tổng Thống Thiệu đã ôm kín mấy bức thư mật
cam kết của Richard Nixon để ngây thơ đánh lá bài tẩy lật ngửa xuống
chiếu hạ lệnh bỏ vùng 2 và vùng 1 hầu đẩy Mỹ trở lại, đưa đến cuộc
thảm bại nhanh chóng trong có 55 ngày trái với ý đồ ba năm của Bắc
Việt. Ông Thiệu lại còn giao tài liệu cho cố vấn thân cận Nguyễn
Tiến Hưng qua Mỹ cứu vãn tình thế, vận động hành lang (lobby) với
3,000 Mỹ Kim trong túi. Thật quả là bất hạnh cho chúng ta. Khi phúc
trình của Ẩn đến tay Võ Nguyên Giáp thì hắn mừng rỡ la lên “Chúng
ta đã lọt vào phòng hành quân của Mỹ rồi”!
Tuy nhiên, vì tiêm nhiễm lối ăn nói phóng khoáng trong bao năm
thân cận với các đối tượng phóng viên quốc ngoại và hơn nữa vì Ẩn đã
trả ơn cứu BS Trần Kim Tuyến ra khỏi Sài Gòn trong giờ phút cuối
cùng của Việt Nam Tự Do, nên bộ Chính Trị cộng sản đã đưa y đi huấn
luyện cải tạo tư tưởng ở Hà Nội. Khi về Sài Gòn y được cấp một biệt
thự ở gần cuối đường Yên Đỗ, nhưng thật ra thì Ẩn bị cách ly như một
con chim trong lồng son và phía ngoài cổng luôn luôn có một cảnh sát
lưu thông đứng làm việc. Năm 1997 chính phủ cộng sản đã từ chối hộ
chiếu xuất ngoại cho Ẩn qua dự cuộc hội thảo tại New York về đề tài
“những di sản về Việt Nam” (the legacy of Vietnam). Theo lời một cựu
phóng viên Mỹ đã gặp lại Ẩn ngày 28 tháng Tư năm 2005, “Được gặp
một đại gián điệp sau ba mươi năm có lẽ cho tôi biết một vài chi
tiết bổ ích. Nhưng sau khi tôi từ dã y trong đầu tôi lại nẩy thêm
nhiều câu hỏi không giải đáp. Ẩn đã gây ra bao nhiêu thiệt hại? Bao
nhiêu người tôi quen biết đã bỏ mạng vì những phúc trình của y?
Chúng ta chẳng bao giờ biết, vì Ẩn không nói, hoặc giả Ẩn cũng không
thể biết được”!
Frank Snepp từng là một thẩm tra viên của CIA và hiện cộng tác
với một hệ thống truyền hình tin tại Los Angeles đã nhận xét,
“Chúng ta ước tính có khoảng mười bốn ngàn gián điệp hoạt động tại
miền nam. Bọn cộng sản đã thâm nhập vào các cơ quan đầu não chính
phủ Nam Việt như một miếng phó mát Thụy Sĩ. Chúng đã biết tất cả các
tin tức trước cả Tòa Đại Sứ Mỹ như sự đi đêm của Kissenger và quyết
định của Thiệu rút lui khỏi Cao Nguyên. Chúng ta không biết rõ sự
thối nát trong chính quyền Nam Việt nhưng chắc chắn Ẩn hiểu hơn và
lẽ cố nhiên biết rõ là chính sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sẽ thất
bại. Tuy nhiên sau khi Sài Gòn thất thủ, Ẩn cũng đã thất vọng và
tuyên bố, “tình hình đã tồi bại khi rơi vào tay một lũ dốt nát và
chuyên chính, một bọn phát xít vô lương tâm”!
Một điệp viên khác chống cộng là một phụ nữ “con cháu Bà Trưng
Bà Triệu”, gia nhập ngành tình báo trong một tình huống đặc biệt. Đó
là Matahari Việt Nam Dặng Mỹ Dung tức Yung Krall, người miền Nam
trong một gia đình trung lưu ở Long Thành. Thân phụ Đặng Văn Quang
là giáo chức nhiệt thành yêu nước và đã bị Pháp giam cầm ngoài Côn
Đảo. Trong nhà tù ông tiếp xúc với các nhân vật ái quốc khác trong
số có các cán bộ cộng sản và ông bị lôi cuốn vào quỹ đạo Hồ Chí
Minh. Bà vợ ông rất hiền thảo, nhất mực thờ chồng nuôi con nhưng có
đầu óc độc lập, muốn sống một cuộc đời bình dị nơi quê cha đất tổ.
Sau hiệp định Genève chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17, ông tập kết ra
Bắc với con trai lớn Đặng Văn Khôi, ông đổi tên là Đặng Quang Minh,
trong khi gia đình vợ con ở lại miền Nam. Ông đã cho điều chỉnh giấy
tờ hộ tịch của các con mang họ Trần của mẹ. Trong số con có cô con
gái nhỏ tên là Đặng Mỹ Dung vừa đi học ở Cần Thơ vừa làm việc giúp
mẹ. Sau khi đậu Tú Tài, Mỹ Dung vào làm việc cho phòng Tâm Lý Chiến
Vùng 4 dưới quyền Đại Úy Nguyễn Đạt Thịnh. Rồi gia đình về Sài Gòn
sinh sống và Mỹ Dung vào làm việc cho câu lạc bộ Mỹ Rex BOQ. Sau khi
thuyên chuyển qua Brinks BOQ rồi Splendid BOQ cô gặp một Trung Úy
phi công Hải Quân tên John Krall và hai người yêu nhau thành vợ
chồng để ngày 3 tháng 8 1968, bắt đầu xây cuộc đời thơ mộng tại
Monterey California.
Đầu tháng Tư tình hình Sài Gòn sôi bỏng sau khi đại quân cộng
sản dồn dập tiến chiếm các nơi. Tìm cách đưa mẹ và gia đình ra khỏi
Sài Gòn, Mỹ Dung đã thuận làm cho CIA. Lúc ấy thân phụ là Đại Sứ cho
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở Mạc Tư Khoa và các nước Đông Âu và
CIA cũng muốn biết tin tức về đối phương khi Nga Sô Viết còn toàn
thịnh. Trong thời gian ấy Trung Úy Hải Quân John, chồng Mỹ Dung, tìm
đủ cách trở về Sài Gòn bất hợp pháp lo cho gia đình mẹ vợ. Sau độ
hai tuần lễ ở Sài Gòn, qua bao nhiêu trường hợp và tình tiết khúc
mắc John đã đưa được gia đình vợ và các trẻ em mồ côi Minh Trí ra
khỏi Việt Nam ngày 23 tháng Tư 1975. Hoàn cảnh của Mỹ Dung thật là
đặc biệt, xâu xé giữa cha cuồng tín với Hồ Chí Minh và mẹ cùng gia
đình mong có một đời sống hiền hòa không cộng sản. Đó cũng là hoàn
cảnh đau thương của bao nhiêu gia đình Việt Nam, người bên nọ kẻ bên
kia, trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đầy máu và nước mắt.
Khi Cộng Sản thanh toán xong miền Nam thì chúng đưa cái vòi
bạch tuộc qua Mỹ, thiết lập cơ sở tình báo để rình rập cộng đồng di
cư mới hình thành và cũng để thu thập tin tức cho khối cộng quốc tế.
Chúng lợi dụng các hội Việt Kiều Yêu Nước trong số các sinh viên du
học trước 1975. Không có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, chúng liền
đặt bản doanh tại văn phòng Đại Sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc của
Đinh Bá Thi mà sự đi lại chỉ giới hạn trong vòng 25 dặm bán kính.
Trương Đình Hùng là con Luật Sư Trương Đình Du nổi tiếng giầu sang
và dân chúng đã thường trầm trồ nhìn bà Du lái chiếc xe Hoa Kỳ
décapotable bóng loáng qua đường Catinat. Hùng đã du học tại Mỹ
nhiều năm trước đây và là một sinh viên phản chiến có nhiều tham
vọng chính trị.
Vì qua Paris gặp lại thân phụ sau hai mươi năm chia cắt, Mỹ
Dung đã được dịp biết Phan Thành Nam, đại sứ Việt Cộng tại Paris
cũng như đại sứ Võ Văn Sung và lọt vào biệt thự của Chính Phủ Cách
Mạng Lâm Thời ở Verrières-la-Buisson và trụ sở chính thức của họ, số
44 đường Madrid, Neuilly-sur-Seine. Qua những liên hệ tình cờ, Mỹ
Dung được móc nối với Huỳnh Trung Đông, chủ tịch hôi người Việt Nam
hải ngoại tại Paris. Rồi từ đó được giới thiêu với bà Thoa có chồng
Mỹ để kết nối với Trương Đình Hùng và Nguyễn Văn Lũy chủ tịch Hội
Việt Kiều Yêu Nước Hoa Kỳ ở San Francisco. Bà cũng gặp Nguyễn thị
Ngọc Thoa, Huỳnh Trung Đông và Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp để liên hệ
đến Thu Novax và Đinh Bá Thi, Đại Sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc. Mỹ
Dung đã kể lại những tình tiết hồi hợp toát mồ hôi lạnh đột nhập vào
hang cọp. Kết quả là Mỹ Dung đã phá vỡ một mạng lưới hoạt động tình
báo quốc nội thu thập tin tức của chính phủ Hoa Kỳ, chủ động bởi
Trương Đình Hùng tức David Trương và Robert Humphrey của cơ quan
thông tin Hoa Kỳ USIS. Ra tòa như một nhân chứng chính, vai trò CIA
và FBI của Yung Krall đã lộ và kết thúc. Các can phạm đã lãnh án 15
năm và khi mãn tù Trương Đình Hùng đã qua Hòa Lan sinh sống. Sau vụ
án, Đại Sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất trở về Việt Nam.
Có một lần tại văn phòng Đại Sứ Liên Hiệp Quốc, vào buổi trưa
khi mấy cộng sự viên đã đánh giấc ngủ “siesta”, ông Thi đã ngồi
chuyện trò thân mật với Mỹ Dung khá lâu và đã trao đổi về những mơ
ước cá nhân. Thi nói, “Tôi đã vào Nam đôi lần và đã thấy nhiều
nơi rất đẹp; nhưng tôi mê nhất là Thủ Đức với giòng sông Đồng Nai
hiền hòa. Tôi tưởng tượng sẽ xây ngôi nhà lý tưởng ở đó, tôi tượng
hình đàn gà chạy lại đòi ăn, con trai tôi cỡi xe gắn máy về từ Sài
Gòn và chúng tôi cùng ngồi ngắm cảnh chiều tà trên giòng sông
ngay trước nhà”. Mỹ Dung đặt tay nhẹ lên tay Đại Sứ Thi và nói
hết sức cảm động, “Cháu mong là giấc mơ của Bác sẽ thành sự thật
trong tương lai gần đây”! Ông ta nói ngay, măt đỏ hoe, “Bác
cũng mong vậy trước khi quá chậm; Bác Gái của cháu bị bịnh đã lâu.
Bác đã xin chính phủ cho phép qua đây chữa trị nhưng mặc dầu đơn xin
đã gửi lên các chỗ cao nhất nhưng cho đến giờ vẫn không có hồi âm.
Như cháu chắc cũng hiểu, chính quyền nào thì cũng có khuyết điểm và
nhược điểm chính của chúng ta là thiếu lòng tin cậy”. Bất
hạnh cho ông ta, khi trở về Việt Nam, Đinh Bá Thi đã bị lạnh lùng
thanh toán dã man trên quốc lộ 1 gần Bình Tuy trên đưòng trở về Hà
Nội do một tai nạn giao thông dàn cảnh của các đồng chí. Những thành
phần “Việt Kiều Yêu Nước” cũ thì dù nhà nước mời gọi cũng không mấy
ai trở về đóng góp cho quê hương. Theo Mỹ Dung thì hoạt động tình
báo của bà chỉ có tính cách cơ hội, đưa được gia đình ra khỏi Việt
Nam và đền đáp ơn Mỹ Quốc đã cưu mang dân mình trong hoàn cảnh
nghiệt ngã.
Trong một dịp ở Paris, Mỹ Dung đã đến thăm một người bạn của
gia đình, ông Huỳnh Ngọc Châu là con ông bà Huỳnh Ngọc Nhuận, một
đại điền chủ giầu có, ruộng thẳng cánh cò bay ở miền Tây và có cả
nhà máy gạo. Đã có lần mẹ Mỹ Dung đã đưa gia đình lên tá túc tại
biệt thự to lớn của ông bà Nhuận ở Sài Gòn. Ông Châu là một kỹ sư
dầu hỏa làm việc cho công ty Esso Oil, đúng là một hoàng tử trong
gia đình dưới con mắt của Dung ở tuổi 12. Ông ta bị ung thư ruột già
và được Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ can thiệp cho qua Pháp chữa bệnh.
Ông Châu từng giúp đỡ nhiều thân phụ Dung trong thời gian giam cầm
và lúc ở trong bưng biền. Hiện tại “Bác Châu” đang dưỡng bệnh tại
nhà nhạc phụ Cao Minh Chiếm trên đường phố nhỏ Rue de Savoie. Sau
khi xuống taxi và lững thững đi bộ đến địa chỉ cô ta thoáng thấy
hình như có cái đuôi thập thò theo mình và phải quanh co vào các
hiệu thực phẩm. Khi vào nhà thì nhận thấy căn phòng chật hẹp với
chậu thau bát đĩa bừa bộn cạnh một bếp điện nhỏ, một lon dầu mỡ và
một hộp sắt tây cắm thìa đũa. Thật là một cảnh đau lòng! “Bác
Châu đắp một cái chăn rằn ri thường thấy bán ở chợ Trời Sài Gòn và
thò bàn tay ra nắm lấy tay tôi; trông hình như Bác đã già đi cả trăm
tuổi”!
Ông Châu nói năng mệt nhọc và than đau đớn ê chề với căn bệnh,
mặc dầu đã chi tiêu bao nhiêu tiền cho tất cả những trị liệu có
được. Ông nghẹn ngào nói, “Khi mẹ cháu sắp sửa rời Sài Gòn đã ngỏ
ý rủ gia đình Bác cùng đi; Bác đã từ chối vì thấy nước nhà đã thắng
được ngoại xâm. Nhưng nay nghĩ lại, Bác thấy ở lại thế mà hay vì các
con Bác đã chứng kiến tận mắt cái bất hạnh với một tập đoàn bất
nhân”. Nói đến đây ông khóc ròng và tiếp tục, “Đầu năm 1977
trong khi cả nhà đang quây quần bên nhau thì một lũ nón cối xách
súng AK ập vào. Chúng vây mọi người lại, trợn mắt bặm môi la hét dọa
nạt. Chúng xô đẩy mẹ Bác khảo của làm cho bà cụ lăn xuống đất sợ
hãi. Con nhỏ của Bác khát sữa khóc lóc và Bác Gái đã xin họ cho đi
lấy bình sữa nhưng cũng không được phép”.
“Bác mong sao Chủ Tịch Thọ giúp cho gia đình Bác sớm qua
đây đoàn tụ. Chúng lục lọi khắp mọi nơi, niêm phong các phòng ốc và
dồn cả gia đình vào phòng gia nhân rồi chúng kéo mẹ Bác đi luôn. Bác
phài nhờ Bác Thọ giúp tìm bà cụ và chính Bác Thọ đã đích thân đến
nhà lao Cần Thơ, cách nhà cả 400 km để đưa bà cụ về trước khi chúng
bắt cụ phải ký giấy cúng tất cả tài sản cho nhà nước. Các con Bác đã
chứng kiến mọi sự việc quái gở xấu xa. Chúng không thể lớn lên để bị
lừa một lần nữa bởi lũ-chó-đẻ”! Chủ Tịch Thọ đã giúp gia đình
Bác Châu từ bỏ nước nhà giải phóng để qua Paris đoàn tụ với Bác Châu
hai tháng trước khi Bác qua đời. Trong đám tang ông Châu người ta
thấy một bên là cánh bạn hữu còn bên kia là bọn Mặt Trận Giải Phóng
đi xe ngoại giao đến dự.
Trong thời gian John đổi qua Luân Đôn làm Tùy Viên Hải Quân,
Mỹ Dung đã vận động cho cha ghé qua gặp mẹ và con cháu. Cô ta cố
thuyết phục cha vê hưu sau khi nước nhà đã thống nhất và cùng mẹ
sống cuộc đời còn lại ờ bất cứ nơi nào ngoài Việt Nam. Tuy nhiên cô
đã nhận dược câu trả lời lạnh lùng của thân phụ, “Nước nhà còn
cần bố. Bố không nhúng vào việc của con và cũng xin con đừng
chà đạp lên xác tín của bố”. Mỹ Dung nhất quyết tìm đáp số vê sự
cuông tín của cha đã bỏ gia đình với sáu con thơ theo cộng sản gây
tang tóc cho quê hương nhân danh cách mạng cứu nước. Cô muốn gập
Hoàng Văn Hoan là bạn đồng song với cha, nguyên thành viên Chính Trị
Bộ, phó chủ tịch Quốc Hội, trong chủ tịch đoàn Mặt Trận Tổ Quốc, đã
đào thoát qua Trung Quốc hô hào lật đổ Hà Nội để thực hiện một cuộc
cách mạng mới. Trong mấy năm 1982-1986 cô viết nhiều thư cho ông
Hoan và đã xin chiếu khán qua Trung Quốc lưu lại hai tuần từ 16
tháng Tư đến 1 tháng 5 1988. Ông Hoan đã đến gặp cô hai lần tại nhà
khách Trung Quốc. Trung Cộng đãi ông như một thượng khách, một con
bài quý chống lại bọn Hà Nội tráo trở. “Tôi thấy Hoan sống quan
liêu phủ phê như một tư bản đỏ, với những ý niệm đóng khuôn, không
có gi mới lạ. Khi tôi trở về đáp xuống phi trường Los Angeles thì có
cảm tưởng như từ bóng tối đến ánh sáng tự do. Năm 1991 Hoàng Văn
Hoan chết, thôi ta hãy để cho ông ta an nghỉ”!
Ba điệp viên, ba hoàn cảnh, ba trình độ, ba động lực, ba tâm
trạng. Tuy nhiên họ đều có một mẫu số chung là can đảm, bình tĩnh,
yêu tổ quốc và kiên trì phục vụ lý tưởng của mình cho đến cùng, bất
chấp mọi đe dọa cho chính bản thân. Họ đều may mắn qua khỏi để kể
lại những tình tiết trong đoạn đời sóng gió. Duy có Phạm Xuân Ẩn vẫn
phải ngậm miệng theo lệnh nghiệt ngã của Bộ Chính Trị Bắc Bộ Phủ,
mặc dầu anh đã nói theo Joséphine Barker, “Tôi có hai mối tình,
Tổ Quốc và Pháp Quốc” (J’ai deux amours, mon pays et Paris).
Hiện tại Ẩn đã 78, sức khỏe suy sụp vì suyễn kinh niên, ở trong nhà
giữa đống sách báo cũ vàng, các bình dưỡng khí trợ thở và con chó
berger thân tín.
-----------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
-
Thép Đen, tác giả Đặng Chí Bình
-
Un Vietnamien
bien tranquille, by Jean Claude Promonti,
-
A
thousand tears falling, by Yung Krall,
-
The spy who loved us, by Howard W. French
-
Phạm Xuân Ẩn, by Dan Southerland, produced for the web by Maggy
Sterner,
-
Khi Đồng Minh Tháo Chạy, tác giả Nguyễn Tiến Hưng
-
Mạn đàm với Yung Krall của Lâm Lễ Trinh
Prunedale California
20 tháng 9, 2006
|