Tháng
2 năm 2007, trên diễn đàn talawas, tôi có viết một
bài để góp ý với ông Võ Văn Kiệt về “hòa giải dân tộc và khép
lại quá khứ”. Thời gian ngắn sau đó,
tôi nhận một email từ Việt Nam chuyển lời của ông Võ Văn Kiệt,
rằng nhiều điểm góp ý của tôi có thể tranh luận nhưng cũng rất
nhiều điểm ông thừa nhận là rất có lý. Ông cũng dặn với người
đưa tin nếu tôi có dịp về thì đưa tôi đến nhà chơi để trao đổi
với ông. Tôi trả lời, cũng qua trung gian người đưa tin, cám
ơn ông về việc mời đến nhà nhưng quan trọng hơn tôi mong ông
đáp lại những điều tôi đã nêu ra trong bài viết, nhất là những
điểm ông cho rằng có thể tranh luận được, và phổ biến rộng rãi
cho mọi người cùng đọc. Chuyện đất nước là chuyện chung chứ
không phải là chuyện giữa ông và tôi. Các thế hệ Việt Nam mai
sau trưởng thành từ những bài học, những kinh nghiệm của các
thế hệ đi trước để lại. Không có kinh nghiệm lịch sử nào là
nên bỏ qua và không có bài học lịch sử nào mà không đáng học.
Có lần tôi đọc đâu đó, ông Võ Văn Kiệt dự tính viết một cuốn
sách, tôi rất mừng và âm thầm chờ đợi một tác phẩm hay một hồi
ký của ông.
Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của ông Võ Văn Kiệt một con số đúng
về bao nhiêu sĩ quan công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa bị ông
và Đảng của ông đày ra các vùng rừng sâu nước độc Tiên Lãnh,
Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa. Tôi không kỳ
vọng ở hồi ký của ông một con số bao nhiêu người dân Sài Gòn
bị ông và Đảng của ông đuổi đi khắp các vùng kinh tế mới miền
Đông, miền Tây Nam Bộ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ
công bố đầy đủ danh sách những người bị Ủy ban Quân quản, do
ông làm bí thư Đảng ủy đặc biệt, xếp vào thành phần tư sản mại
bản; của cải, nhà cửa bị tịch thu, cha mẹ phải vào tù, con cái
phải sống lang thang đầu đường cuối chợ. Tôi không kỳ vọng qua
hồi ký ông sẽ giải thích nguyên nhân nào khiến hàng triệu
người Việt đã bất chấp sóng to gió lớn để vượt biển tìm một
con đường sống trong muôn ngàn đường chết. Tôi cũng không kỳ
vọng qua hồi ký ông sẽ chính thức xin lỗi cùng nhân dân miền
Nam nói riêng và cả nước nói chung, những sai lầm của Đảng do
ông trực tiếp lãnh đạo đã gây ra. Và như tôi đã đọc tiểu sử,
quá trình đấu tranh của ông và những mất mát của riêng bản
thân ông, tôi cũng không nghĩ ông Võ Văn Kiệt sẽ thành lập một
đảng hay một cánh đối lập, công khai thách thức vị trí lãnh
đạo của Đảng Cộng sản để lót đường cho một cuộc vận động toàn
dân, toàn diện nhằm tiến đến một xã hội mới, dân chủ, nhân bản
và thịnh vượng như một số người đã bàn tán trước đây.
Ông Võ Văn Kiệt từ năm 1938 cho đến cuối đời vẫn là người cộng
sản. Khác chăng so với những lãnh đạo cộng sản cùng thời, ông
Võ Văn Kiệt sinh ra từ miền cây trái Vĩnh Long, phần lớn quãng
đời đấu tranh của ông cũng từ ruộng đồng, sông nước miền Nam,
gần gũi với nhân dân miền Nam và trong những ngày cuối đời
nhìn lại đã có lúc chạnh lòng buông những câu nói như những
lời an ủi muộn màng, rải rác đó đây trên vài cơ quan ngôn
luận, trong những buổi nhậu, dành cho những người đã chịu đựng
dưới bàn tay ông.
Dù sao tôi cũng mong ông viết, bởi vì hơn ai hết, ông Võ Văn
Kiệt là người có thẩm quyền để viết. Giá trị trong tác phẩm
của ông Võ Văn Kiệt không hẳn ở chỗ là sự thật mà là sự kiện,
dù được nêu ra để biện hộ cho những sai trái của chính ông.
Những
Giọt nước trong biển cả
của Hoàng Văn Hoan và Hồi ký của một
Việt cộng của Trương Như Tảng vẫn có giá trị sự kiện nhất
định và là những tác phẩm tham khảo cần thiết cho các sử gia
và thế hệ mai sau. Hôm nay, ông Võ Văn Kiệt đã qua đời. Ông ra
đi mang theo nhiều chi tiết quan trọng của những năm khó khăn
nhất trong lịch sử dân tộc thời cận đại. Phần lớn những lời
phân ưu dành cho ông đều chấm dứt bằng câu cầu mong hương linh
ông được yên nghỉ, nhưng làm sao hương linh ông có thể yên
nghỉ được khi vẫn còn nợ thế gian này một món nợ mà ông chưa
trả hết.
Những chịu đựng của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân
miền Nam nói riêng dưới bàn tay ông Võ Văn Kiệt và Đảng của
ông trong những năm ngay sau 1975, sẽ mãi mãi sẽ là một vết
thương hằn sâu trong lịch sử. Máu và nước mắt của nhân dân
miền Nam đổ xuống trong các trại tù, trên các khu kinh tế mới,
dọc các vỉa hè Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đã đóng thành băng trong
ký ức của giống nòi. Không ai trách ông Võ Văn Kiệt tại sao
bảy mươi năm trước đã tham gia Đảng Cộng sản nhưng chắc chắn
các thế hệ Việt Nam mai sau sẽ trách ông đã không có những câu
trả lời cho những thảm trạng mà đất nước đã trải qua trong
suốt 22 năm dài (1975 - 1997), thời gian ông đã đóng vai trò
quan trọng trong chính trị Việt Nam.
Ông Võ Văn Kiệt, giống như hầu hết những người cộng sản trong
thế hệ Tân Trào, Pác Bó đã không làm được, đã không trả lời
được những câu hỏi của phiên tòa lịch sử, nhưng tôi tin các
thế hệ Viêt Nam tham gia Đảng Cộng sản sau ông, thế hệ “chống
Mỹ cứu nước”, thế hệ “Tổng công kích Tết Mậu Thân” với một số
khá đông vẫn còn đang sống, có thể trả lời và thậm chí phải
trả lời trước khi các anh các chị xuôi tay nhắm mắt ra đi.
Điều đáng mừng là trong thời gian qua, một số hồi ký như
Tôi bị bắt của nhà thơ Trần
Vàng Sao,
Tôi bày tỏ của nhà
văn Tiêu Dao Bảo Cự mà tôi đã có dịp góp ý trước đây, tiểu
luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô
Nhuận Vỹ, hay mới đây tự truyện Lạc đường của nhà văn
Đào Hiếu đã nối tiếp nhau ra đời. Các anh viết vì bức xúc cá
nhân hay từ nhận thức chính trị không phải là điều quan trọng,
điều quan trọng nhất vẫn là viết ra. Tôi tin rằng với chiều
hướng Việt Nam đang cố mở rộng các mối quan hệ với nước ngoài,
những tấm màn sợ hãi sẽ được vén lên cao hơn, những biên giới
cách ngăn sẽ dần dần thu hẹp, trong tương lai sẽ có nhiều tác
phẩm như thế nữa.
Tôi vừa đọc hết tự truyện Lạc đường của nhà văn Đào
Hiếu. Là một người trong thế hệ trẻ hơn, tôi cảm ơn anh đã kể
lại những chặng đường anh đã đi qua, ghi lại những thao thức
và trăn trở của anh và thế hệ anh. Ngay cả những việc chúng ta
mới làm hôm qua, hôm nay có thể đã không còn đúng nữa và những
câu nói mới vừa thoát ra khỏi cửa miệng nhiều khi biết mình
nói sai rồi, huống hồ những việc đã làm 40 năm trước. Ai cũng
có một thuở hai mươi và ai cũng trải qua một thời tuổi trẻ.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương chiến tranh, nghèo khó, chịu
đựng cái nhục của một nước nhược tiểu bị các nước lớn khinh
khi, coi rẻ, câu hỏi làm gì cho đất nước luôn là mối ám ảnh
hàng ngày, hàng đêm trong ý thức của những người trẻ biết đau
cái đau của đất nước.
Năm 1968, năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, tôi lớn lên ở
gần cửa biển Sơn Chà, quận 3, Đà Nẵng. Buổi chiều tôi thường
ngồi trên cồn cát trắng ở xóm Cổ Mân nhìn những đoàn xe chở
bom đạn nối đuôi nhau từ cảng Tiên Sa nhập vào các kho quân sự
chung quanh thành phố để từ đó đi vào cuộc chiến. Tôi thầm
nghĩ những bom đạn kia nay mai đây sẽ rơi xuống ở một nơi nào
đó trên quê hương tôi. Đêm đêm trên đường Bạch Đằng dọc bờ
sông Hàn những anh lính Mỹ đen, Mỹ trắng miệng sặc mùi bia
rượu, tay ôm những cô gái Việt bằng tuổi chị tôi và cất tiếng
cười khả ố. Niềm tự ái dân tộc trong lòng tôi dâng cao. Tôi
cảm thấy bi xúc phạm. Họ xúc phạm không chỉ dân tộc Việt Nam,
người con gái Việt Nam, mà dường như còn xúc phạm đến cả hàng
phượng đỏ, hàng sao xanh trên con đường Bạch Đằng thơ mộng.
Cách thành phố Đà Nẵng không xa là bãi rác Hòa Cầm rộng mênh
mông. Nơi đó, mỗi buổi sáng, hàng trăm đứa bé mới ngoài mười
tuổi như tôi bám theo những chiếc xe rác Mỹ để nhặt những
miếng thịt thừa, những lon bơ bỏ dở và ngay cả từng chiếc bao
nhựa dơ dáy. Ngày đó, tuy còn khá nhỏ tôi đã biết tủi thẹn cho
số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành dây
chùm gởi, đồng thời tôi cũng tự hỏi, những điêu tàn đổ nát,
những bất công phi lý của xã hội Việt Nam, trong đó có sự hiện
diện của những người Mỹ đen Mỹ trắng kia phải phát xuất từ một
hay nhiều nguyên nhân nào đó.
Hoàn cảnh đất nước và nhiệt tình tuổi trẻ đã buộc các anh chị
chọn lựa cho mình một hướng đi, một lý tưởng sống, một dâng
hiến dành cho quê hương mà các anh chị nghĩ là đúng nhất. Sự
chọn lựa nào cũng kèm theo đó sự hy sinh, cũng mang tính lịch
sử và lịch sử Việt Nam trước 1975 là một lịch sử đầy nhiễu
nhương, đau thương và ngộ nhận. Nhìn lại tuổi hai mươi không
phải để phê phán những việc làm thời đó đúng hay sai. Sai hay
đúng là thái độ của hôm nay và về sau chứ không phải của quá
khứ.
Bốn mươi năm trước, nếu có người cho rằng xã hội miền Bắc tốt
đẹp hơn xã hội miền Nam có thể đã không gây ra nhiều tranh cãi
bởi vì các tệ nạn tham nhũng, quan chức lộng hành quá phổ biến
ở miền Nam trong khi chưa ai thật sự sống một ngày dưới chủ
nghĩa xã hội; thế nhưng, hơn 30 năm sau mà những người đó vẫn
còn tiếp tục luận điệu giống như thế thì đó chỉ là một cách
nói liều.
Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về tài liệu tham khảo, nếu có
người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Duẩn
về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn
thông cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết
lộ,
Cải cách Ruộng đất,
Nhân văn - Giai phẩm, vụ án
xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản, độc tài
đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì
thật là một niềm tin mù quáng.
Tôi cũng cám ơn nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã phổ biến tiểu luận “Nhà
văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, kết quả của đề tài nghiên
cứu mà anh tham gia với William Joiner Center (WJC) thuộc Đại
học Massachusetts trong hai năm 2005 đến 2007. Vài điểm trong
tiểu luận của anh có thể thảo luận như tôi sẽ làm dưới đây,
nhưng về tổng quát tiểu luận này đã giúp cho tôi thêm những
kiến thức về sinh hoạt văn học trong nước mà tôi không biết
đến nhiều.
Nhắc đến WJC, tôi nhớ lại những chuyện xảy ra mười năm trước.
Tôi sống ở Boston và không xa lạ gì các khóa hội thảo mùa hè
của WJC. Trong hai năm 1998 và 1999, tôi đã cùng một số anh
chị trong giới cầm bút đến nói chuyện tại các khóa hội thảo
mùa hè của trung tâm này. Mặc dù không phải là nhà văn, nhà
thơ có những tác phẩm văn chương đủ tầm vóc để đại diện cho
văn nghệ sĩ hải ngoại, tôi vẫn được mời, đơn giản chỉ vì tôi
sống ngay tại Boston, quen thuộc với sinh hoạt của cộng đồng
người Việt và đã có thời học ở Đại học Massachusetts.
Tôi ủng hộ quan điểm và thái độ tích cực tham gia vào các khóa
hội thảo mùa hè tại Đại học Massachusetts của tổ chức cộng
đồng Việt Nam. Thay vì tập trung các sinh hoạt trong nội bộ
người Việt, sự có mặt trong những buổi thảo luận về văn học
Việt Nam, chiến tranh và hậu quả xã hội Việt Nam tại các diễn
đàn rộng hơn, liên quan đến nhiều quốc gia là những việc nên
làm và ngay cả phải làm. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền tự
do phát biểu của đồng bào trong nước thì không có lý do gì tự
giới hạn quyền phát biểu của chính mình trong một xã hội tự
do.
Trong chiến tranh, chế độ Việt Nam Cộng hòa không có nhiều cơ
hội để nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình. Miền Nam không
phải của ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Dương Văn
Minh mà là miền Nam của hơn hai chục triệu người, trong đó có
một triệu người lính đã phải chiến đấu trong những điều kiện
hết sức khó khăn, vừa cô đơn và cũng vừa cô thế. Những vành
khăn tang trắng của những người vợ lính, những đứa bé mồ côi
vì cha vừa tử trận chỉ trắng trong các khu gia binh nghèo,
trong những căn nhà tranh heo hắt chứ không trắng trên các màn
ảnh truyền hình quốc tế. Và từ sau 1975, các nhà văn, nhà thơ
từ các quốc gia khác cũng chỉ biết Việt Nam dưới chế độ cộng
cản qua vở kịch do Đảng Cộng sản Việt Nam dàn dựng, qua các
khẩu hiệu tuyên truyền của phe có quyền ăn nói, nhưng không
biết đến một Việt Nam khác đang bị bịt miệng, đang bị đày ải
trong tù ngục và bị tước đoạt những quyền căn bản của con
người. Do đó, giống như việc thắp lên que diêm trong đêm tối
trời, gióng lên được một tiếng nói của lương tâm dù ở đâu cũng
là điều cần thiết.
Ngoại trừ tôi, hầu hết các nhà văn miền Nam tham dự các khóa
hội thảo mùa hè do WJC tổ chức đều đã nhiều năm phục vụ trong
quân đội và thời gian ở tù sau 1975 cũng không ngắn hơn bao
nhiêu so với quãng đời lính tráng của họ. Trong số anh em
chúng tôi, nhà văn Hoàng Ngọc Liên lớn tuổi nhất. Vào tháng 9
năm 1999 ông đã ngoài 70 tuổi. Là một cựu sĩ quan cao cấp
trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bị giam 13 năm trong các
nhà tù khắp miền bắc, thế nhưng, ông không dùng diễn đàn WJC
để tố cáo tội ác cộng sản, để đòi Đảng Cộng sản phải đền nợ
máu trước nhân dân, đòi giới lãnh đạo Đảng phải ở tù ít nhất
bằng số năm ông đã từng phải ở. Không. Nhà văn Hoàng Ngọc Liên
xem buổi hội thảo chỉ là cơ hội để kể lại những điều mắt thấy
tai nghe trong năm tháng ông ở tù và quan trọng hơn, nhắn gởi
những lời đầy hy vọng đến những người cầm bút Việt Nam thuộc
thế hệ trẻ trong nước cũng như đang tham gia trong khóa hội
thảo mùa hè năm đó. Trong bài viết “Những câu chuyện chưa kể”
ông đọc ở hội thảo vào buổi chiều ngày 1 tháng 9 năm 1999 tại
Đại học Massachusetts, Boston, nhà văn Hoàng Ngọc Liên kết
luận: “Tôi nghĩ rằng lâu nay, nhất là từ năm 2000, tuổi
trẻ Việt Nam là kỳ vọng của dân tộc Việt Nam, trong chiều
hướng góp phần xây dựng đất nước chúng tôi, một đất nước bị
chiến tranh tàn phá, sau 24 năm hòa bình, thống nhất, vẫn còn
nghèo nàn, lạc hậu mà dân chúng hầu như xa lạ với những quyền
Tự do căn bản của con người. Tôi, và những người như tôi, tin
tưởng vào thế hệ trẻ, ủng hộ các bạn trẻ cầm bút, với văn
phong mới mẻ hơn, súc tích hơn.”
Nếu câu nói trên do tôi nói ra thì chẳng có gì đáng để ý. Tôi
trẻ hơn nhà văn Hoàng Ngọc Liên nhiều, chưa từng bị đánh đập,
bị đày ải một ngày nào trong các trại tập trung Hoàng Liên
Sơn, Thanh Phong, Vĩnh Phú, phát biểu hay ca ngợi lòng nhân ái
là chuyện thường tình, nhưng nhà văn Hoàng Ngọc Liên thì khác,
ông vừa mới thoát ra khỏi địa ngục trần gian cộng sản, sức
khỏe chưa kịp phục hồi, thân thể còn đau nhức nhưng vẫn dựa
lên các giá trị thiêng liêng của tình dân tộc và mục đích Tự
do, Nhân bản cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau để nói
lên những lời tâm huyết của mình. Thật quý hóa và may mắn biết
bao nhiêu. Không ai hòa giải với ông và ông cũng chẳng cần ai
hòa giải. Ông đã tự hóa giải các xung đột bằng nhận thức và
qua đó đã hòa giải được với chính mình. Dù bị tù 13 năm ông đã
bước ra khỏi cổng trại như một người chiến thắng chứ không
phải người thua trận. Ông trở về như sau một cuộc hành quân
dài chứ không phải một người vừa được trao trả tự do, bởi vì
lý tưởng Tự do Nhân bản vẫn còn là nguồn thôi thúc trong lòng
nhà văn 70 tuổi và ông vững tin mục đích tốt đẹp đó một ngày
sẽ đến với đất nước Việt Nam.
Đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, tôi
cũng tìm thấy trong nhà văn Tô Nhuận Vỹ một ước vọng ngày mai
tươi sáng như nhà văn Hoàng Ngọc Liên. Đất nước phải vượt qua
những bế tắc, văn học phải vượt qua những bế tắc, mỗi nhà văn
nhà thơ cũng phải tìm mọi cách vượt qua những bế tắc của chính
mình để đi lên và đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, khác với nhà
văn Hoàng Ngọc Liên ở điều kiện tự do, nhà văn Tô Nhuận Vỹ cho
rằng bước đầu tiên và cần thiết nhất để hội nhập văn học Việt
Nam trong cũng như ngoài nước là hòa hợp hòa giải trong giới
văn nghệ sĩ: “đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi
đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân
tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng
bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu
ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh.”
Tôi không nghi ngờ thiện chí của nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhưng
thành thật mà nói, hòa giải hòa hợp chỉ là một chiếc bóng do
Đảng vẽ ra mà những người Việt có lòng đang đuổi bắt như đã
từng đuổi bắt con bồ câu hòa bình trước 1975.
Hình ảnh con bồ câu trắng hiền hòa trên bầu trời quê hương
thân yêu đã đẩy bao nhiêu tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện lao vào
chỗ chết, đơn giản bởi vì “nếu là chim tôi sẽ làm một bồ
câu trắng và nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Các
thành phố lớn miền Nam như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đâu đâu cũng
xuất hiện các phong trào đòi quyền sống, đòi hòa bình, đòi tự
quyết. Các cuộc xuống đường diễn hành gần như mỗi ngày, mỗi
tuần, nhiều đến nỗi làm cho dư luận quốc tế và cả những người
hiểu biết giới hạn về chính trị có nhận xét trong các phe đang
đánh nhau chỉ có chính quyền miền Nam mới là những kẻ hiếu
chiến và đi ngược lại khát vọng hòa bình dân tộc.
Kỹ thuật tuyên truyền tinh vi của Đảng đã biến những người
lính miền Nam đang ngày đêm đổ máu trong cuộc chiến mà không
có quyền chọn lựa thành những kẻ sát nhân, trong lúc những kẻ
ném lựu đạn vào nhà hàng Mỹ Cảnh, pháo kích vào trường tiểu
học Cai Lậy, chôn sống đồng bào trên Bãi Dâu Huế, đặt mìn trên
quốc lộ số một… lại trở thành những anh hùng dân tộc. Và sau
1975, mọi người đều biết tất cả các phong trào hòa bình giả
tạo đó đều do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những con
chim bồ câu trắng xinh xinh kia là do bàn tay Đảng vẽ ra, và
những kẻ ném bom ngày nào cũng không ai khác hơn chính là
những đảng viên biệt động thành trung kiên của Đảng.
Tôi cũng không nghĩ cần thiết phải có một nhu cầu hòa giải
trong giới văn nghệ sĩ dù một thời đã phải đứng hai bên chuyến
tuyến khác nhau. Tôi chưa gặp anh Tô Nhuận Vỹ chỉ vì chúng ta
chưa có điều kiện gặp nhau chứ không phải tôi hận thù, oán
trách gì anh mà không gặp. Tôi đi rất nhiều nơi và tiếp xúc
với nhiều anh chị chú bác trong giới cầm bút nhưng rất hiếm
khi gặp một nhà văn nhà thơ mang lòng thù hận các nhà văn nhà
thơ trong nước. Một số khá đông không thích tham gia vào các
tác phẩm viết chung giữa các nhà văn trong nước và hải ngoại
bởi vì họ không muốn làm cái loa tuyền truyền giùm cho Đảng,
vả lại những tác phẩm viết chung chẳng đem lại một lợi lạc gì
cụ thể khi phần lớn chỉ phát hành tại hải ngoại chứ không phải
trong nước, một nơi có 80 triệu người cần phải đọc. Sau 33
năm, hàng trăm tác phẩm được viết trước 1975 tại miền Nam vẫn
chưa được tái bản, chưa được công nhận, nhà văn nhà thơ gốc
Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị đối xử như một thứ công dân hạng
hai, nói chi là các nhà văn nhà thơ vượt biên sau 1975 và tác
phẩm của họ được viết ra tại hải ngoại. Nếu văn học là đời
sống tinh thần của con người trong một thời đại nhất định thì
văn học hải ngoại hẳn phải mang đậm nét của hành trình tìm tự
do đầy gian khổ, đương nhiên những tác phẩm như thế sẽ không
bao giờ có mặt trong một nhà sách nào ở Việt Nam khi chế độ
cộng sản còn tồn tại.
Tình cảm giữa những người cầm bút dù bên này hay bên kia không
xa cách nhiều như anh Tô Nhuận Vỹ lo lắng. Tôi còn nhớ mười
năm trước, vài ngày trước khi đến WJC tham gia hội thảo, có
người hỏi tôi, nếu gặp nhau trong buổi hội thảo, tôi sẽ làm
gì, sẽ đối xử ra sao với những người được gọi là “văn nô cộng
sản” từ Việt Nam sang. Tôi trả lời người đó rằng sau buổi hội
thảo, tôi sẽ rủ các anh chị từ trong nước sang đi uống cà-phê.
Mọi người ngồi chung quanh tôi hôm đó đều bật cười vì nghĩ
rằng tôi nói chơi. Không, tôi nói thật. Tôi đã đi uống cà-phê
với nhiều anh chị văn nghệ sĩ từ trong nước sang. Không giống
như những năm đầu, thời anh Lê Lựu sang tham gia WJC trở về,
viết những bài ký sự rẻ tiền được in trong hai tập ký Một
thời lầm lỗi và Trở lại nước Mỹ, các anh chị đến
những năm sau dễ thông cảm hơn nhiều. Gặp ai tôi cũng chỉ yêu
cầu một điều, hãy viết về cuộc đời và đất nước như các anh các
chị đã từng sống. Thời kỳ viết theo chỉ thị đã qua rồi, xin để
lại cho các thế hệ mai sau những lời chân thật. Hơn bao giờ
hết đất nước đang cần những người nói thật và sống thật.
Đối với các em sinh viên du học cũng thế. Tôi gặp họ rất sớm.
Nhiều em mới sang còn đọc thơ Tố Hữu cho tôi nghe và còn nói
về “Bác Hồ là vị cha chung, là sao Bắc Đẩu là vầng Thái Dương”
của các em bằng một ánh mắt hồn nhiên và hãnh diện. Tôi kiên
nhẫn nghe mà không phản đối bởi vì tôi hiểu đó là tất cả những
gì em có. Thế giới tri thức của em từ lớp vỡ lòng đã được đóng
khung trong những bài giảng đầy tính giáo điều cuồng tín. Một
tuần lễ trước khi bị xử tử hình về tội diệt chủng, Nicolae
Ceausescu vẫn còn được học sinh Rumani, giống như các em học
sinh Việt Nam ngày nay, ca tụng là tinh hoa kết tụ từ dòng
trường giang Danube. Tôi biết sau 4 năm đại học, các em sẽ
thay đổi. Các em còn trẻ nên những thói hư tật xấu, mê tín dị
đoan dễ đến nhưng rồi cũng sẽ dễ đi. Bệnh sùng bái cá nhân sẽ
bớt dần, nhường chỗ cho ánh sáng khoa học thâm nhập vào tâm
hồn trẻ trung của các em. Quá trình đổi mới nhận thức không
diễn ra trong một sớm một chiều mà là một quá trình dài, từng
bước và liên tục. Các em sẽ lớn lên và trưởng thành không phải
chỉ ở tuổi tác mà cả về trí thức. Mỗi thế hệ có trách nhiệm
riêng trong từng giai đoạn lịch sử. Các bậc cha chú dù đúng
hay sai rồi cũng sẽ lần lượt xuống đất hay lên giàn hỏa và các
em sẽ phải nghiêng vai gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ
mình. Các em có quyền trách móc, đổ thừa nhưng không có quyền
từ chối.
Cửa nhà tôi ngày đó giống như cửa chùa, ai đến cũng được, tôi
chưa bao giờ hỏi lý lịch hay căn cước người nào. Cách nói và
cách trả lời với từng người có thể khác, nhưng đều chuyên chở
một quan điểm chính trị và niềm tin về tương lai đất nước
giống nhau. Quan điểm chính trị của tôi rất rõ ràng và đơn
giản. Với tôi, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam, từ nhà văn
nhà thơ cho đến người chưa hề viết nổi một lá thư, từ các nhà
trí thức học nhiều hiểu rộng cho đến các bác nông dân tay lấm
chân bùn, từ các cha cho đến các thầy, từ những người đã chết
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 hay còn sống
hôm nay, nói chung hơn 80 triệu người, đều là nạn nhân của chủ
nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có
chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ
Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho
đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu
đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân
tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay
quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực
lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có
mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng,
Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp
đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ
thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự,
sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ
quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất
cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ
là một giấc mơ tiên.
Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với
dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do
đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của
lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi,
rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát
xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều
lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như
một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc
giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là
mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với
Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc
cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới
cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong
“Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do
Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:"Vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ
cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và
sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ
cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại
quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của
đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài,
đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý
luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc
các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm
trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng
Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu
cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới
quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một
số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy
ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó
mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những
chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v..., nhưng mục đích
của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán.
Có người đến nay vẫn nghĩ rằng việc họ hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng Cộng sản để đứng lên “Chống Mỹ cứu nước” là một lý
tưởng cao đẹp của cuộc đời họ, nhưng không biết rằng câu đó
chỉ là một trong hàng chục khẩu hiệu có tính giai đoạn mà Đảng
đã dùng. Nếu Mỹ không qua Việt Nam thì Đảng có để yên cho nhân
dân miền Nam xây dựng một xã hội tự do dân chủ không? Chắc
chắn là không. Dĩ nhiên, Mỹ không qua sẽ không có khẩu hiệu
“Chống Mỹ cứu nước”, nhưng Đảng có thừa chuyên viên truyên
truyền chuyên nghiệp để nghĩ ra những khẩu hiệu khác không kém
phần khích động.
Tôi đồng ý với nhà văn Tô Nhuận Vỹ rằng giữa các nhà văn nhà
thơ trong và ngoài nước hay đã từng đứng trên chuyến tuyến
khác nhau vẫn còn “một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót”,
nhưng nghĩ cho đúng, cái hố sâu đó chẳng phải do nhà văn nhà
thơ nào đào ra. Đó không phải là hố sâu tình cảm mà là hố sâu
ý thức hệ. Theo lẽ tự nhiên, ai đào ra thì người đó phải lấp
lại. Trách nhiệm hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ các cách
ngăn về ý thức hệ là trách nhiệm của giới lãnh đạo Đảng Cộng
sản Việt Nam. Trong suốt 33 năm qua với bao nhiêu cơ hội nhưng
các lãnh đạo Đảng chẳng những không thể hiện một hành động nào
cụ thể để chứng tỏ tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc mà càng
đào sâu hơn những hố sâu ngăn cách, làm lở loét thêm những vết
thương vẫn còn đang mưng mủ trên da thịt của nhiều triệu người
Việt Nam. Việc yêu cầu chính quyền Nam Dương đập bỏ tấm bia
tưởng niệm đồng bào chết trên Biển Đông hay việc tổ chức rầm
rộ kỷ niệm 40 năm Mậu Thân trên nỗi đau câm nín của hàng ngàn
đồng bào Huế là vài ví dụ điển hình.
Với đồng bào hải ngoại, những hành động xúc phạm hương linh
của những em bé chết trôi, những bào thai ngột nước ngay lúc
còn trong bụng mẹ, những oan hồn đang vất vưởng khắp Biển Đông
như thế, làm sao lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể vận động được
đoàn kết trong ngoài, nhất là đối hơn hai triệu người Việt hải
ngoại, để cùng đưa đất nước đi lên?
Với đồng bào trong nước, những chương trình ca nhạc rầm rộ
mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân, trong lúc cùng thời điểm đó
trên khắp ba miền đất nước, nhất là tại Huế, hàng trăm ngàn
đồng bào đang khóc trong âm thần, trong tủi nhục, trong hờn
căm u uất, thì làm sao lãnh đạo Đảng có thể phát huy được nội
lực dân tộc?
Bất cứ một người Việt Nam nào với một trình độ nhận thức trung
bình cũng biết những hành động vừa nêu của giới lãnh đạo Đảng
là không cần thiết và quá đáng. Tôi tin ngay cả trong Bộ Chính
trị và Trung ương Đảng cũng có người biết việc đó là phi nhân,
lạc hậu, vụng về và quá đáng, nhưng họ không có chọn lựa nào
khác ngoài việc phải làm, đơn giản bởi vì che đậy tội ác là
phản ứng tự nhiên của những kẻ đã gây ra tội ác.
Chim bay cần đôi cánh nhưng không phải giống chim nào có cánh
cũng có thể bay cao. Chim se sẻ chỉ biết bay quanh vườn, nhảy
nhót trên những cành xoài, cành ổi, nhưng để có một hạm đội
Việt Nam, một phi đoàn Việt Nam, một vệ tinh Việt Nam, một phi
thuyền Việt Nam, đất nước phải cần có đôi cánh phượng hoàng,
nói đúng hơn là đôi cánh dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, với
những mâu thuẫn đối kháng và bế tắc ngay từ bên trong cơ cấu
độc tài đảng trị sẽ không có khả năng đưa đất nước lên ngang
tầm với thời đại, và do đó, việc chọn lựa một con đường thay
thế là trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước
hôm nay.
www.trantrungdao.com |