Đi tìm nguồn thơ
-
PSN - 14.6.2010 |
Võ
Quỳnh Uyển
Mến tặng cô Hải Lan.
Tối
nay về nhà mẹ, tôi bắt gặp phong bì thư đề gửi từ tu viện Lộc
Uyển. Gần hai năm trước đổi địa chỉ mới, tôi mượn địa chỉ của mẹ
vì không muốn mất những món quà tinh thần này. Bên trong phong
bì là lá thư màu tím với dòng chữ lớn đập vào mắt “ Mừng em mười
tuổi”, như một lá thư tình. Mối tình của tôi và Lộc Uyển âm thầm
và chung thủy dễ đã mười năm trời.
Nhớ ngày ấy tôi là kẻ cùng tử lang thang đi tìm …thơ. Phật pháp
đối với tôi vừa huyền vi, thâm diệu, vừa xa vời, khó hiểu, vừa
hấp dẫn tôi, lại vừa làm tôi e ngại. Tôi như một kẻ đi ngang qua
Phật pháp, biết rằng nếu mình ghé lại nơi đó thì có thể tâm tư
có nhiều bình yên hơn, nhất là kẻ đó lại có nhiều mảnh vá trong
trái tim. Tiếng gọi của thú đau thương tuy đầy cạm bẫy, gai góc
nhưng nó mạnh mẽ lắm, lôi kéo không cho tôi đi về phía mặt trời.
May mắn thay, tôi lại là kẻ yêu thơ. Nguồn cảm hứng thơ đó đã
hướng dẫn những bước chân tôi đi vào thiền môn.
Đó là ngày mùng hai Tết năm Canh Thìn 2000, năm mở đầu của thiên
niên kỷ mới. Ngôi chùa Vạn Hạnh khá yên tịnh có tôn tượng Đức
Quan Thế Âm lộ thiên quay ra đường chính lúc đó vẫn còn sớm nên
chưa có ai đến lễ lạy. Tôi nhanh chân tranh thủ đến đó thắp
hương cầu nguyện. Trong khi chắp tay nhắm mắt, tôi cảm thấy có
ai đó đang chạm vào người tôi. Lúc đó tôi cho rằng mình đang ảo
giác nên cứ đứng yên nhắm mắt. Rồi có ai đó níu cánh tay tôi.
Tôi quay phắt lại, và có lẽ lúc ấy ánh mắt nhìn của tôi không
đuợc dịu dàng cho lắm. Đó là một bà cụ đầu tóc bạc phơ, được dắt
tay bởi một người phụ nữ. Chị nhìn tôi cười hiền từ xin lỗi. Nét
mặt bà cụ ngây thơ như một đứa bé. Nhìn hai gương mặt ấy lòng
tôi dịu lại ngay tức khắc.
- Xin lỗi em, bà cụ bị bệnh Alzheimer nên cụ không còn nhớ gì cả
và cũng không ý thức được bà đang làm gì. Ngày trước bà cụ thờ
Đức Quan Âm nên chị thường đưa bà đến chùa lễ Ngài, trông thấy
hình tướng của Ngài với hi vọng mong bà sẽ nhớ lại.
Chị tự giới thiệu mình tên Hải Lan. Chúng tôi nói chuyện một hồi
lâu, rồi chị hỏi tôi có thường đi chùa không, tôi trả lời rằng
tôi chỉ đi chùa vào ngày Tết để tìm ý thơ thôi. Đột nhiên chị
nói:
- Tháng tám năm nay, ở trường đại học UCSD có một khóa tu. Khóa
tu này do Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn của Thầy tổ chức
giảng dạy, Uyển tới đó tham dự cho vui. Chúng mình ở chung cho
có bạn.
Nghe nói đến đó tôi hơi phân vân chưa biết trả lời sao. Hình như
đoán được suy nghĩ của tôi, chị nói thêm:
- Cứ dự thử khóa tu đi, Uyển sẽ học được cách làm cho cuộc sống
của mình được an lạc, vui vẻ.
Rồi nhìn tôi một chặp, chị nói như đánh trúng tim đen của tôi:
- Thầy Nhất Hạnh viết văn làm thơ hay lắm đó…
Thế rồi mùa thu năm đó tôi tham dự khóa tu đầu tiên trong cuộc
đời tại đại học UCSD do tăng đoàn Làng Mai tổ chức. Dường như
tôi nghe âm vang ngày xưa của lời mời gọi này rất giục giã,
nhưng có cái gì cản trở bước chân của tôi. Tôi sợ mình thất
vọng. Ông thầy đó theo Cộng Sản đó. Chùa đó là của Cộng Sản
đó…tôi trở thành nô lệ của những tin đồn. Rồi buổi gặp gỡ
đầu năm ấy cứ làm tôi thao thức. Tôi nhất định phải đích thân
tôi, phải bằng đôi tay của mình, con mắt của mình, cái mũi cái
lưỡi của mình cầm lấy bóc vỏ trái quýt, ngưởi lấy mùi thơm của
nó, nếm phải hương vị của nó chứ không chịu ngồi đó nghe người
khác mô tả, kể lại rằng thì là trái quýt có hình dạng, vị chua
giống như trái cam. Làm sao để biết được như thế nào là trái
quýt nếu như chính bản thân mình không đích thân thấy và xúc
chạm? Nếu nghe người khác tả lại bằng ngôn ngữ của họ, dưới cái
thấy của họ, thì mình chỉ có thể hình dung ra trái quýt, nhưng
đó không phải là cái biết về trái quýt.
Đầu tiên là tôi nhìn thấy dáng dấp thanh tao, nhẹ nhàng của các
vị tăng, ni của tăng đoàn. Nụ cười của họ biểu hiện nội tâm an
lạc. Đa số họ là những người trẻ tuổi. Họ tụng kinh rất hay và
rất mới, chứ nghe không buồn ngủ như nghe …cải lương. Tóm lại họ
làm thành một đoàn thể xuất gia trẻ trung, tươi mát, sinh động
nhưng đầy chất liệu của sự thảnh thơi, thoát tục. Điều thứ hai
tôi bắt gặp ở đây toàn thơ là thơ. Thơ là thiền ngữ nhắc nhở
thiền sinh, mà cũng là thi ngữ, không phải là thơ đơn thuần để
chuyên chở đạo, chỉ cần cho có vần có điệu cho dễ nhớ thôi đâu.
Những bài thơ tôi đọc được vừa là thi phẩm, vừa là bài kệ, chẳng
hạn như bài:
Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng hiện bóng trong ngần
Bài kệ thiền hành:
Ý về muôn vạn nẻo
Thiền lộ tâm an nhiên
Từng bước gió mát dậy
Từng bước nở hoa sen
Bài kệ nghe chuông:
Nghe chuông phiền não tan mây khói
Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
Vườn Tâm hoa Tuệ nở xinh tươi.
Rồi bài thơ Tìm Nhau được chính tác giả thiền sư đọc cho mọi
người nghe. Lời thơ tha thiết cảm động đã lấy của tôi không biết
bao nhiêu nước mắt:
Con đã đi tìm Thế Tôn
Từ hồi còn ấu thơ
Con đã nghe tiếng gọi của Thế Tôn
Từ khi mới bắt đầu biết thở
Con đã rủi rong
Vạn nẻo đời hiểm trở
Đã từng đau khắc khoải
Với trăm thương ngàn nhớ
Trên bước đường hành hương
….
Con đã nhìn thấy Thế Tôn
Thế Tôn ngồi đó
Vững như núi Tu Di
Bình an như hơi thở
Thế Tôn ngồi đó
Như chưa bao giờ từng vắng mặt
Như chưa bao giờ trên thế gian
Đã từng có cơn bão lửa
Thế Tôn ngồi đó
Yên lặng và thảnh thơi
…
Thế Tôn là tình yêu đầu
Thế Tôn là tình yêu tinh khôi
Nghĩa là không bao giờ
Sẽ cần tình yêu cuối
Người là dòng sông tâm linh
Tuy đã từng chảy qua
Hàng triệu kiếp luân hồi
Nhưng luôn luôn còn mới.
…
Bài pháp tôi được nghe trong khóa tu đó là bài pháp về đề tài “
vô thường, vô ngã và niết bàn”. Bằng những lời lẽ rất giản dị,
dễ hiểu, bằng hình ảnh rất gần gũi với đời sống hàng ngày, bằng
cách lý giải dùng phương pháp khoa học, vị thiền sư đã giảng
giải các từ ngữ Phật giáo này một cách rõ ràng. Trước đây tôi đã
hiểu những từ này một cách mơ hồ, phiến diện, chỉ có nghĩa tiêu
cực và …dường như chẳng ăn nhập gì đến cuộc sống của tôi. Tôi
còn nhớ, nhớ một đoạn trong bài giảng đó: vô thường, vô ngã
không phải là những khái niệm, mà là những chìa khóa để có tuệ
giác, để mở cánh cửa thực tại. Như khi chúng ta đốt lên một que
diêm, thì ngọn lửa sẽ làm lóe sáng lên các ý niệm về vô thường
và vô ngã, và sau đó chính ngọn lửa đó đốt cháy tan các chìa
khóa này. Còn niết bàn là một thực tại không có các khái niệm
như có, không (phi hữu, phi vô), đến, đi (vô khứ vô lai), sanh,
diệt (bất sanh bất diệt), và một, khác (phi nhất phi dị). Những
lời Thầy giảng đã đập tan sự lệch lạc trong sự ngộ nhận của tôi
về những từ ngữ cơ bản của Phật giáo. Với tình thương lớn, Thầy
đã nhắc đi nhắc lại rằng đó là những phương tiện dùng để quán
chiếu, chứ không phải là thực tại, lại càng không phải là những
ngôn từ để bám víu vào, để tranh biện. Bài pháp thoại ngày hôm
đó như tiếng triều âm làm tôi chao đảo, như ánh dương rực rỡ xua
tan lớp sương dày ngăn cách giữa tôi và đạo Phật. Thành thật mà
nói, trong khóa tu đó tôi không học hỏi được gì nhiều về thiền
tọa, thiền hành bởi lẽ tâm tư tôi bị chấn động mạnh mẽ. Tôi tự
hỏi chính mình có phải chính nét đẹp của thi ca được lồng vào sự
thiền tập kia đã làm cho tôi nghiêng ngả hay không hay là tiếng
sét tâm linh này đã thực sự chạm vào da thịt tôi? Tôi tự cho
mình rất nhiều cơ hội để trả lời câu hỏi này.
Trong tờ chương trình của khóa tu có dành ngày cuối cùng để
viếng thăm tu viện Lộc Uyển. Tu viện Lộc Uyển? Tôi chưa hề nghe
đến tên chùa này ở San Diego bao giờ. Và rồi cuối cùng tôi cũng
đến được chùa Lộc Uyển chung với đoàn thiền sinh tham dự khóa tu
chia nhau ngồi trên hơn 10 chiếc xe bus lớn. Đây mà được gọi là
chùa hay sao? Nó ở tận trên núi cách xa nơi ồn ào thị tứ. Chỉ có
con đường đất nhỏ xíu đầy bụi ngoằn ngèo oằn mình chịu trận nằm
im cho đoàn xe người đến thăm viếng. Không có một mái che trên
đầu, chúng tôi chia nhau đi xung quanh và ngồi trên những tảng
đá hoặc gốc cây có bóng mát. Chỉ có những cái kho như bị bỏ
hoang trông tiêu điều lắm. Tôi tự hỏi tại sao ở một xứ giàu có
và tân tiến bậc nhất hàng đầu thế giới mà vẫn có những người bỏ
lại sau lưng thế giới của cải vật chất mà biết bao nhiêu người
mơ ước để chọn một đời sống thiếu thốn ở một nơi vắng vẻ tiêu
điều như vầy? Và tôi bắt đầu yêu mến tu viện Lộc Uyển từ đó.
Có một lần, sau khóa tu đầu tiên đó không bao lâu, tôi có dịp
trở lại Lộc Uyển vào một buổi chiều hoàng hôn. Số là khi tôi ra
sân bay để đón em gái tôi từ San Jose về chơi San Diego, tôi bắt
gặp nó đi cùng với một sư chú, sư chú này tình cờ đi cùng chuyến
bay với nó. Sư chú muốn về Lộc Uyển chơi vài ngày nhưng không
biết đường đi. Đường từ sân bay về tu viện có khoảng một giờ lái
xe. Thế là tôi tình nguyện đưa sư chú đến tu viện mặc dù tôi
không chắc là mình có còn nhớ con đường nhỏ hẹp ngoằn ngèo lên
núi hay không. Chúng tôi bị lạc đường đến hai tiếng đồng hồ, từ
bốn giờ đến sáu giờ chiều chúng tôi mới vào được nhà khách. Tuy
lạc đường, em gái tôi lái xe vòng vòng, nhưng tôi thấy buổi
chiều rất đẹp. Cây cỏ lặng mình êm đềm trong ánh sáng hoàng hôn
nhạt dần. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng chuông. Tôi biết chắc
rằng tiếng chuông kia không phát ra từ núi Đại Ẩn Sơn nơi tu
viện Lộc Uyển đang giấu mình, vì Lộc Uyển còn hoang sơ lắm,
không có đại hồng chung! Tiếng chuông kia vang vọng trong tâm
tôi, ngân lên từ xóm Lá, làng Vĩnh Điềm quê tôi, nấp sau lưng
ngọn đồi trên đó có chùa Hải Đức. Nhớ những buổi chiều rằm trăng
lên vằng vặc sau những hàng dừa, bụi tre cao tít tắp trên không
trung, tiếng chuông từ trên ngọn đồi xa xa đổ vào không gian xưa
từng âm thanh trầm hùng vang dội làm ngân nga âm hưởng đến tận
buổi chiều hôm nay. Đó là cảm hứng thơ khi tôi làm bốn câu đầu
của bài “Đến Lộc Uyển, Lạc Đường, Nghe Hoa Kinh”:
Lanh quanh ở chốn bụi hồng
Lạc đường trời đất gởi lòng gió mây
Núi non giục thả thơ bay
Hoa kinh rớt nhẹ chuông lay chiều vàng
Bao giờ múc ánh trăng tan
Vỡ trên sóng biếc thấy chàng mai sau
Bao giờ kết lưới Đế Châu
Hoa xưa lấp lánh chiếu màu-mười-phương
Bao giờ hơi thở bình an
Mắt thương nhìn cuộc trăng tàn biển dâu
Bao giờ ta lại tìm nhau
Giở trang bối diệp hong màu mắt môi
Bao giờ lá rụng chân đồi
Nhặt lên thấy lại nụ cười chân phương
Bao giờ gom hết yêu thương
Tình hoa tĩnh tọa ngát hương gọi mời
Bao giờ hoa cũng là người
Cánh quỳnh vui nở những lời sa di
Đường về là bước đường đi
Quay đầu thấy bến. Biển mê cõi nào?
Tuy sống trong cùng quận hạt San Diego với Lộc Uyển nhưng tôi
không có dịp đến đó vào mỗi cuối tuần khi có ngày quán niệm. Tôi
không có điều kiện để về đó chia sẻ từng giọt mưa, hạt nắng với
tu viện, chia nhau từng chén cơm cọng rau với các thầy các sư
cô, nhưng tôi về đó ít nhất mỗi tháng chín để tham dự khóa tu
hàng năm hay mỗi khi có Sư Ông Nhất Hạnh qua tổ chức an cư. Đã
mười năm trôi qua, biết bao điều thay đổi. Con đường ngoằn ngèo
lên dốc bắt đầu sau khi qua khỏi cổng tu viện bây giờ đã được
tráng nhựa, không còn con đường bụi đất và những ổ gà như những
năm trước. Những bảng hiệu “you have arrived” “đây
là tịnh độ” màu nền sơn trắng đã ngả vàng và nét chữ màu
đen không còn sắc nét nữa vì mưa nắng và gió bụi, như một chàng
thanh niên phong sương dạn dày kinh nghiệm. Càng trông cũ kỹ thì
càng có bề dày thời gian, Lộc Uyển dường như trông chững chạc
trên mảnh đất hoang sơ năm nào. Thiền đường Thái Bình Dương sừng
sững như một chứng tích về sự mầu nhiệm về ý của tổ tiên người
Việt và người Mỹ muốn đạo Phật cắm rễ tại nơi này. Nhưng đó chỉ
là mặt mũi của Lộc Uyển. Đã có biết bao nhiêu bước chân đã vào
ra thiền hành trên con đường này, từ những bước chân ban đầu
chập chững tập đi có ý thức, hơi thở có ý thức và sự kết hợp
giữa bước chân và hơi thở cho thành thục để trở thành những bước
chân an lạc? Đã có bao nhiêu đôi mắt, bao nhiêu trái tim vào ra
những cánh cửa rộng mở của thiền đường kia để nghe pháp thoại,
để thực tập chuyển hóa không phân biệt màu da, ngôn ngữ? Đã bao
nhiêu hạnh phúc và khổ đau đã đến và đã ra đi nơi này, khi Lộc
Uyển như ngày hội lớn tấp nập vào ra, khi lặng lẽ tịch mặc âm
thầm cùng nắng gió. Vì chứng kiến sự đổi thay và trưởng thành
của Lộc Uyển từ ngày ấy đến bây giờ, lòng tôi cảm thấy biết ơn
Phật, chư Tổ, biết ơn tăng thân, cùng bạn đạo khắp năm châu và
cảm ơn hạt giống lành mà tôi đã gieo xuống mảnh đất Phật pháp từ
vô lượng kiếp!
Một ngày nọ ra vườn đột nhiên tôi thấy có một bụi cây ngò xanh
non mơn mởn đứng lồ lộ trước mắt. Tôi chẳng hề gieo hạt, cũng
chẳng thấy nó chỉ cách vài hôm. Hôm nay nó bỗng hiện diện ở đó,
tôi cắt một cành vào bếp nêm canh, mùi hương thơm ngát tỏa khắp
nhà. Tôi ngầm so sánh bụi ngò này có hạt giống như hạt giống
Phật pháp đã gieo vào A-lại-Gia thức từ bao nhiêu kiếp trước.
Bỗng một hôm duyên lành đến, hạt giống được tắm gội nắng mưa,
chỉ cần một trận mưa pháp thì hạt giống sẽ nẩy chồi đâm lộc.
Nghe được và thực hành Phật pháp, một hành giả sẽ chuyển hóa
thân tâm và đời sống của mình và hoàn cảnh xung quanh, dâng hiến
bao nhiêu nét đẹp và mùi hương cho đời và cho đạo. Đó là nhân
duyên tôi làm bài thơ Hạt Giống:
Ơ
hay,
bụi ngò
ai gieo mà mọc?
ai trồng mà lớn?
thì ra em đã ẩn tàng trong tôi
khi mưa không gội
khi nắng không về
em chẳng hiện hành làm chi
ngoan, chẳng cần tôi dỗ ngủ
những phiến lá non xanh
xòe lớn từng ngày
tặng đời mùi thơm trong bát canh
tỏa khắp nhà
sáng nay tôi chợt nhận ra em
lớn khôn vững chãi
theo tôi đi về
trưa tối
mỗi ngày
mỗi niềm vui
Bài này tôi không chọn thơ có vần để diễn đạt. Tôi muốn chọn thể
tự do và một vài từ trong duy thức học để biểu hiện sự bộc phát
bất ngờ của hạt giống niềm vui ẩn tàng.
Có phải rằng đầu xuân năm 2000 trước tôn tượng đức Quan Âm, Ngài
đã soi thấy tâm tư và thấu rõ căn cơ của tôi. Ngài đã dùng thơ
để độ cho tôi hay nói khác hơn Ngài đã dùng phương tiện Phổ môn
để dẫn dắt tôi vào thiền môn. Trong kinh Pháp Hoa có nói rằng
nếu một người cần thân gì để được độ thoát thì Ngài sẽ thị hiện
làm thân đó để độ cho người ấy. Đã tự lúc nào tôi không còn đi
tìm nguồn thơ nữa. Thơ tự đến với tôi, bằng từ những gì gần gũi
và đơn giản nhất của cuộc sống hàng ngày. Nguồn thơ đến từ chính
sự sống luôn tuôn chảy. Chỉ cần nhìn và tiếp xúc cho thật sâu
sắc những gì đang xảy ra thì thể tính của cuộc sống vốn là một
nguồn cảm hứng thơ bất tận.
Võ Quỳnh Uyển
Mira Mesa, San Diego tháng năm 2010