tô cháo huyết
Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa
hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ.
Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy
nó ngay ở bên tay mặt.
Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền,
chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm
theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì
buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc
nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon ! Cháo nấu
nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn
trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết
đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm
phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được
cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của
giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái
“giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng
của huyết. Ngon không chê được !
Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải
phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với... tác phong
cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô
“thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi
chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong... “xã giao thường
thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”,
vừa ngắn gọn lại vừa... bình đẳng nữa ! Thành ra thấy được xử dụng
rất thoải mái và... xả láng ! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu
tôi đã gọi tôi bằng “anh”... ngon lành ! Có lẽ trong lòng nó cũng
khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm
gì mình được” ! Đổi đời... sướng ở chỗ đó !).
Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”,
thản nhiên không ngượng nghịu gì hết ! Có lẽ tại thói quen. Cũng như
tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là... “chị xẩm” với tiếng
“chị” rất... thời trang từ ngữ !
Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè
dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
- Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe
cháo huyết này.
- Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái
tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à.
Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
- Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở
vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
- Ủa ! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy ?
- Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe
đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
- Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở
sở cũ hả ?
- Đâu có ! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc
ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
- Cha... Xa quá há ! Đạp xe chắc mệt hả
thầy Hai ? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
- Rồi cũng quen hà. Ủa ? Mà tại sao thím
dẹp tiệm đi ?
- Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi
cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
- Rồi mấy đứa con thím đâu ? Tôi nhớ hồi
đó trong tiệm có mấy đứa...
- Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
- Sao thím không đi ?
- Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không
biết tiếng, không biết chữ.Đi đâu ? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông
già bà già ở đây mà đi đâu ? Còn thầy ? Sao thầy không đi ?
- Tôi kẹt !
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một
thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi... trở tay không kịp. Vậy là
kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo
huyết ?
Để tránh... thấy hàng cháo huyết, mới đầu
tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa
hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng
nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát
huy sáng kiến” à ?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi
đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn
đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là
đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là... thích thú. Tôi
phục... tôi quá chừng !
Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói
meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng
không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng,
khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi... nhắm mắt chạy luôn,
chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt
trong tôi... bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay
trước xe cháo huyết !
Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm.
Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ :
- Thầy Hai ! Thầy Hai à ! Trời ơi sao đâu
mất vậy ? Vô ăn cháo đi !
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả,
mỉm cười cho... lấy có:
- Thím mạnh hả ?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
- Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà...
- Tôi không có tiền ! (Tôi đã nói như vậy
– dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu
!).
- Không có sao ! Vô ăn đi !
Chừng nào trả cũng được.
Mình quen mà... Thầy Hai !
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó
không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái
mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình
của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ ! Như... cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian
“đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn
một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
Tiếng bà xẩm vang lên:
- Thầy Hai đừng ngại mà... Vô ăn
đi rồi mai mốt trả.
Không có sao !
Lần này, “cái đói” cộng thêm
“cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn
bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm
xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết ! Nó
dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu
trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên,
không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
- Sao lâu quá không thấy thầy
Hai vậy ?
Nó trả lời... gọn ơ:
- Tôi mắc về dưới tỉnh.
- Bà con ở dưới cũng mạnh hết
hả ?
- Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu,
rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
- Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng
nào có tiền trả cũng được, đừng lo !
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng
múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít
từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
- Thời buổi bây giờ, đâu phải
ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng
vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Chỗ quen biết, tôi nói
thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai
trả cũng được hết. Mình với nhau mà... Phải thông cảm với nhau chớ !
Thầy Hai hiểu tôi không ?
Đến đây, bỗng thằng người hạ
cấp trong tôi biến đâu mất ! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô
cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ...”, rồi nín
thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn...
Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà
xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao
giờ cho hết !
Tôi cúi đầu húp được vài
muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy.
Tôi vội xua tay:
- Không ! Không ! Tôi không ăn
giò-cháo-quẩy đâu thím !
- Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai
mà ! Không tính tiền !
Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn
tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà ! Ăn đi !”.
Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm
tôi ứa nước mắt... Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang
cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu
tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm
Đakao...
|