Trước ngày 30 tháng
tư 1975, trong cơn sốt di tản, tôi chen lấn đẩy được vợ con lên
trực thăng. Thằng Mỹ đen thòng người xuống, vừa kéo tôi lên
vừa la lớn cho đồng bọn : ‘’ Bốc lên ! Bốc nhanh lên ! Đầy ứ rồi
! ‘’ Chân tôi vừa chạm sàn trực thăng thì vợ tôi làm rớt cái xắc
da xuống đám ngừơi đang xô đẩy nhau phía dưới. Như cái máy,
tôi phóng xuống theo ! Khi tôi giành giực lại được cái xắc thì
chiếc trực thăng đã bay đi xa. Tôi ôm cứng cái xắc trứơc ngực,
hổn hển nhìn theo mà nghe chết điến trong lòng...
Nhờ bị rớt lại như
vậy mà tôi còn giữ được nhà cửa xe cộ. Bởi vì những nhà khác
-nhà những người đã di tản- đều bị đồng bào hôi của, rồi sau đó
là bị Nhà Nước cách mạng tiếp thu. Cũng là một hình thức hôi
của, nhưng... cao cấp hơn !
Rồi nhờ cái xắc của
vợ tôi với mớ nữ trang và đô la mà tôi làm lại cuộc đời chẳng
khó khăng gì mấy.
Hồi thời trước, tôi
làm chuyên viên điện toán cho một hãng xuất nhập cảng lớn ở chợ
cũ. Bây giờ, sau thời gian đi hội họp học tập để nghe cán bộ
phát biểu dong dài với những từ ngữ lạ hoắc, nghe... ù ù cạc
cạc như vịt nghe sấm, vậy mà tôi cũng hiểu trắng được rằng cách
mạng là đổi đời và hiểu ngầm rằng: muốn sống trong chế độ mới
mình phải lột cái xác cũ ra chôn giấu đi, và muốn sống yên ổn
trong thời buổi này, mình phải biết làm... thợ lặn, nghĩa là
đừng có trồi đầu ra cho thiên hạ để ý, nhứt là chánh quyền.
Vậy là tôi quyết định đổi nghề : tôi đem gia đình thằng Sáu, đứa
cháu kêu tôi bằng bác, về cư ngụ với tôi, rồi chúng tôi lập Tổ
May Thêu. Chạy vòng ngoài là thằng Sáu với chức tổ phó ; tổ
viên là vợ và hai đứa con gái của nó, cộng thêm hai người chị
vợ nó ; còn tôi thì làm tổ trưởng, nghĩa là ngồi không uống
trà, hút thuốc, ký tên, đi họp...
Sau tháng tư năm
1975, không phải chỉ có mình tôi đổi nghề. Phần đông người dân
miền Nam đều đổi nghề, nhứt là ở các đô thị. Chẳng ai bảo ai,
cũng chẳng thấy ai khuyên ai, họ tự động đổi nghề một cách tự
nhiên và đều khắp, giống như theo một thời trang đổi kiểu áo
quần ! Và cũng chẵng có một mải mai mặc cảm. Cho nên thấy giáo
sư đi đạp xích lô, thấy thầy giáo đi làm thợ hồ, thấy lơ xe đò
là thợ bạc hồi thời trước, thấy chị bán nước mía là cựu nhân
viên ngân hàng... v. v. Kể không hết. Và cái nghề được nhiều
người chọn nhứt là nghề mở quán cà-phê vỉa hè ! Dễ quá ! Chỉ cần
đặt trước nhà mấy cái bàn mấy cái ghế... vậy là thành quán !
Cho nên thấy đường nào cũng có, xóm nào cũng có, xó xỉnh nào
cũng có. Nhiều khi hàng quán nằm khích nhau một dọc, vậy mà
chẳng thấy ai phàn nàn ai ! Làm như trong cuộc đổi đời vĩ đại
này, người dân miền Nam dễ thông cảm với nhau hơn hồi trước !
Sau cách mạng, có
những nghề bỗng nhiên biến mất trong sanh hoạt hằng ngày. Điển
hình nhứt là nghề coi tay coi tướng và nghề đấm bóp (cũng gọi là
tẩm quất). Có người... ác ý nói rằng cách mạng rất sợ bị lộ
chân tướng nên mấy thầy tướng số đều bị ‘’ đì ‘’hết, còn tẩm
quất là nghề... chuyên chính của Đảng và Nhà Nước, họ giữ độc
quyền dùng nó để đần những phần tử xét lại hay phản động đã bị
họ bắt nhốt... thì sức mấy mà người dân được hành nghề này !
Một tối đó, trong
khi tòn ten trên võng hút thuốc sau bữa cơm, tôi bỗng nghe tiếng
rẹt rẹt rẹt từ đằng xa. Đó là tiếng của những nút khoén đập dẹp
xõ xâu mà mấy ông tẩm quất vừa đi vừa lắc để... rao hàng. Ngạc
nhiên, tôi nhỏm dậy lắng tai nghe. Đúng rồi !Đúng là tiếng lắc
nút khoén của ông tẩm quất. Hồi thời trước, ông tẩm quất xóm
tôi thường đi lắc như vậy đêm đêm. Và ổng đấm lưng tôi đều đặn
mỗi tháng hai lần. Sau giải phóng, không nghe ổng lắc rẹt rẹt
nữa. Tôi nghĩ chắc ổng cũng đã đổi nghề như thiên hạ. Nào
dè...
Tôi vui mừng
bước nhanh ra cổng, gọi : ‘’ Đấm bóp ! Đấm bóp ! ‘’. Có tiếng
dạ từ đàng xa, rồi một người đạp xe lại. Thì ra không phải ông
tẩm quất mà tôi quen. Người này cũng trộng tuổi như ông kia,
cũng gầy gầy như ông kia, nhưng cao lớn hơn nhiều. Ổng mặc
sơ-mi ngắn tay và quần sọt, đeo ngang hông một túi vải nhỏ. Lỡ
gọi rồi, tôi đành mở cổng cho ổng vào mà phân vân tự hỏi : ‘’
Không biết ông này ở đâu ra ? Nhứt là trong thời buổi mà thiên
hạ chạy ăn hằng bữa, ai đâu mà đưa lưng cho ổng đấm ? Với lại
không biết ổng thiệt có nghề đấm bóp hay là thứ... ba trợn để
kiếm cơm ? Bởi vì bây giờ cái thứ đó cũng đông lắm ! ‘’
Vào nhà, tôi gọi mấy đứa nhỏ trải một
chiếc chiếu ở hàng ba rồi tôi tự động nằm xuống đó sau khi cởi
quần áo ngoài chỉ còn mặc cái quần đùi. Ông đấm bóp bỏ đôi
giép nhựt ở tam cấp, bước vào nhà nhìn quanh rồi nói :’’Xin
phép cho tôi cởi áo ‘’. Không đợi trả lời, ông cởi áo sơ-mi
máng lên đầu võng, để lộ trên người chiếc áo thung ba lỗ đã ngã
màu vàng và lủng rách nhiều nơi. Ông ngồi xuống cạnh tôi, lấy
trong túi vải chai dầu mở nút trút vào lòng tay, nhìn tôi mỉm
cười:’’Ông nằm sắp xuống ‘’. Tôi làm theo như cái máy. Tôi nghe
hai bàn tay vừa to vừa ấm của ông thoa dầu từ trên ót trên cổ
tôi xuống lần hai vai, rồi lưng, để cuối cùng vuốt dài theo
hai cánh tay nằm dọc theo hông... mà tưởng chừng như vừa được
trùm lên người một làn hơi nóng vừa êm vừa mõng !
Lối đấm của ông ta
không giống lối đấm của ông mà tôi quen. Kỹ thuật của ông hồi
đó đúng là đấm, nghĩa là hai bàn tay cứ đều đặn xuống lên, khi
nắm lại thì có tiếng bóc bóc, khi xòe ra thì có tiếng bụp bụp.
Và cứ như vậy, hết lưng là đến chân đến tay. Còn ông mới này
thì khác hẳn. Ổng... âm thầm hơn và đi sâu hơn. Ổng mằn từng
khớp xương, từng thớ thịt, ổng mò dài theo các đường gân tay
gân chân. Mấy đầu ngón tay của ổng đi tới đâu là mình nghe...
rã rời tới đó ! Thật là kỳ diệu ! Tôi phục ổng quá !
Sau khi làm xong,
ổng xin một ly nước, uống, lảnh tiền, cám ơn, rồi lẳng lặng
dẫn xe đạp đi ra. Tôi hỏi với theo : ‘’ Tuần sau, cũng vào giờ
này, ông lại đấm tôi được không ? ‘’Ổng nói ‘ dạ được ‘ rồi đi
thẳng. Tiếng rẹt rẹt của xâu nút khoén lại vang lên xa xa...
Tôi nằm tơ lơ mơ, nghe âm thanh rẹt rẹt mà tưởng chừng như thời
cũ vẫn còn nguyên đây đó, cái thời mà cuộc sống còn mang nhiều
thi vị, kể cả những thi vị thật nhỏ nhoi tầm thường.
Tuần sau, ông đấm
bóp trở lại. Ổng không bấm chuông. Ổng đứng ngoài cổng lắc xâu
nút khoén rẹt rẹt, rẹt rẹt, giống như một... ám hiệu ! Đã
được dặn trước nên người nhà chạy ra mở cổng. Ổng vào nhà, gật
đầu chào tôi rồi tuần tự làm y như tuần rồi. Thấy ổng có tay
nghề ‘’ cao cấp ‘’-nói theo từ ngữ bây giờ-mà không bô bô vừa
làm vừa nói như ông cũ, tôi càng có cảm tình với con người trầm
lặng đó. Nên tôi mở lời :
- Ông làm nghề này
lâu chưa ?
- Dạ... sau giải
phóng.
- Sao tôi không
nghe ông lắc ở xóm này vậy ?
- Dạ... tôi ít đi
lắc lắm. Tôi làm cho khách quen không hà. Hôm rồi nhơn làm cho
ông khách ở gần đây, tôi lắc cầu may nên mới gặp ông đó chớ.
- Hồi thời trước,
ông làm nghề gì ?
Ổng ‘ dạ ‘ rồi nín
thinh. Tôi biết ổng không muốn nói, nên cũng không hỏi tiếp.
Lần này, sau khi
trả tiền, tôi hỏi, giọng thân mật :
- Ông thứ mấy ?
- Dạ... thứ Sáu.
- Ông chắc lớn hơn
tôi cở bảy tám tuổi. Vậy cho tôi gọi ông bằng anh Sáu được không
?
Ổng nhìn tôi, chớp
chớp mắt :
- Dạ được chớ.
- Vậy tuần sau,
cũng ngày này giờ này, nghe anh Sáu.
Ổng “Dạ”,
gật đầu chào tôi rồi dẫn xe đạp đi ra.
Tuần sau, ổng lại đến. Lần này, chính
tôi niềm nở mở cổng. Tôi bắt tay ổng:
- Mạnh hả anh Sáu ?
- Dạ mạnh.
Vào nhà, lại tuần
tự “xin phép, cởi áo, ngồi xuống, xoa dầu”... Nhưng lần này,
sau khi rờ lưng tôi, ổng nói:
- Hơi cảm hả thầy
Hai ?
Tôi ngạc nhiên, vì
hai tiếng “thầy Hai” thì ít mà vì chỗ ông Sáu biết tôi đang cảm
thì nhiều :
- Sao anh biết ?
- Nghề mà thầy
Hai. Lưng thầy lạnh ngắt đây nè !
Rồi ổng
tiếp, giọng đầy tự tin:
- Nhưng không sao đâu, thầy Hai yên tâm.
Tôi làm một chút là thầy thấy khoẻ hà.
Thấy lần này
ổng cởi mở hơn, nên tôi tiếp tục... đẩy đưa:
- Anh học nghề này ở đâu vậy, anh Sáu ?
- Tôi học với một
ông thầy Tàu ở Bình Hòa ?
Ngừng một chút như
để suy nghĩ, rồi ổng nói tiếp, trong lúc hai bàn tay vẫn đều
đặn làm việc :
- Thiệt ra ông thầy
tôi chuyên dạy võ.
- Ủa ? Rồi sao có
vụ dạy tẩm quất ?
Im lặng một chút
rồi ổng mới nói, sau khi cười nghe cái khịt :
- Hồi đó, lâu
rồi, tôi tới thọ giáo với ổng, ổng nắn tay nắn chân tôi rồi mới
nói : “Tao dạy võ cho mày không lấy tiền với điều kiện là mày
đấm lưng cho tao mỗi tuần một lần, mày chịu hông ?“. Tôi trả
lời chịu nhưng tôi không biết đấm lưng. Vậy là ổng dạy tôi đấm
lưng !
Nói xong, ông Sáu
cười nhè nhẹ mấy tiếng. Tôi biết ổng đang sống lại với những kỹ
niệm nên tôi “khơi“ luôn:
- Mà tại sao anh
Sáu phải đi học võ vậy ?
Ổng ngập ngừng một
chút rồi mới nói :
- Tại hồi đó
tôi muốn đóng vai Tiết Nhơn Quí !
Ba tiếng “Tiết Nhơn Quí“ làm tôi nhớ lại
bà già vợ tôi hồi thời trước hay đi coi hát bội và bà thích nhứt
nhân vật Tiết Nhơn Quí. Bà thường nói “Đóng vai Tiết Nhơn Quí,
không ai hay bằng kép Sáu Thanh hết ! Thằng đó múa thiên phương
họa kích như thần. Còn khi nó gặp lại Dương Mậu Sanh, nó khóc
như thiệt vậy, hay không chỗ nói !“ Tiết Nhơn Quí... Cây Thiên
Phương Họa Kích... Kép Sáu Thanh... Ông già đấm bóp thứ Sáu...
Tôi xoay người lại hỏi:
- Vậy anh Sáu là
kép Sáu Thanh phải không ?
Gương mặt già nua
đó bỗng nhăn lại vì xúc động. Ổng nuốt nước miếng mấy lần mới
nói được:
- Dạ phải.
- Hồi đó bà già vợ
tôi mê anh lắm. Bả cứ nhắc hoài lúc Tiết Nhơn Quí gặp lại nghĩa
huynh Dương Mậu Sanh. Anh đóng hay đến nỗi khán giả ai cũng sụt
sùi khóc hết.
Ông Sáu im lặng,
chớp mắt thật nhanh rồi nhìn đi nơi khác. Ổng nhìn ra sân, ổng
nhìn ra cổng. Ở đó, tôi không có vặn đèn khi đêm xuống như
thời cũ -phải làm giống thiên hạ để đừng ai để ý- nên bóng tối
dăng đầy. Tôi biết : trong vùng tối đó, ông Sáu đang nhìn thấy
lại ánh sáng huy hoàng của thuở mà trong vai Tiết Nhơn Quí ông
đã làm rung động biết bao nhiêu khán giả đêm đêm...
Một lúc sau, ông
Sáu mới nói, giọng trầm tĩnh:
- Thầy Hai nằm
xuống đi, để tôi làm tiếp.
Bây giờ, mấy đầu
ngón tay của ổng “đi“ thật chậm nhưng thật sâu. Làm như ổng
đang tiếp tục mò mẫm để tìm lại những kỷ niệm vụn vặt mà cơn lốc
cách mạng 1975 đã bất thần thổi tung đi mất. Tôi bỗng nghe
thương hại ông Sáu vô cùng...
Tôi xin mở
dấu ngoặc ở đây để viết vài hàng về nhân vật Tiết Nhơn Quí. Tôi
chỉ nhớ đại khái nhưng chắc cũng đủ để cảm thông sự xúc động của
anh Kép tài danh Sáu Thanh, bây giờ là ông già đang ngồi đấm
lưng tôi trong im lặng...
Tiết Nhơn Quí nhà nghèo, nhưng có sức
mạnh hơn người. Một mình anh ta kéo khúc gỗ mà mười người kéo
không nổi ! Và anh ta ăn uống cũng bạo lắm: mỗi bữa cơm, anh ta
ăn bằng mười người ăn ! Vì nhà nghèo nên thường xuyên Tiết Nhơn
Quí ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Trong làng, có Dương Mậu Sanh là nhà có
tiền và tánh tình rất hào phóng. Biết tình cảnh của Tiết Nhơn
Quí, Dương Mậu Sanh bèn đem về nuôi và kết nghĩa anh em. Nhờ
được ăn uống đầy đủ nên Tiết Nhơn Quí, ngoài việc giúp đỡ nghĩa
huynh trong công tác nặng nhọc, hàng ngày luyện tập võ nghệ với
cây thiên phương họa kích đến trình độ mà khi tung lên là “lá
rụng cát bay“...
Tiết Nhơn Quí
ăn đến... người nghĩa huynh bị sạt nghiệp !
Một hôm, nhân đánh đuổi Cáp Tô Văn và cứu
được Lý Thế Vân nên được vị này thâu dụng dưới trướng. Rồi từ
đó Tiết Nhơn Quí theo phò Lý Thế Vân đánh đông đánh tây bao
nhiêu năm mới dựng nên cơ đồ cho ông này lên làm vua. Lúc đó
Tiết Nhơn Quí đã trở thành một vị nguyên soái lừng danh thiên
hạ.
Thời gian sau,
nhân chuyến viễn chinh qua làng cũ, Tiết Nhơn Quí cho hạ trại ở
đây rồi truyền lịnh tướng tá đi mời Dương Mậu Sanh. Ông này bây
giờ nghèo xác xơ, nghe nguyên soái cho vời mình thì không biết
làm sao, vì không tiền mua lễ vật để ra mắt nguyên soái. Cuối
cùng ông đành làm liều: ông lấy hai cái hũ đổ đầy nước, đóng nút
rồi bịt lại bằng mấy lần vải đỏ, xong ông xin một ít rượu rưới
lên đầu hũ cho có mùi. Như vậy, người ta sẽ nghĩ là hai hũ
rượu, và như vậy khi tiếp vị nghĩa huynh, nguyên soái sẽ không
bị mất mặt với những người dưới trướng.
Được thông báo,
Tiết Nhơn Quí vội vã bước ra đón người anh kết nghĩa đã nuôi
mình trong lúc cơ hàn mà bao nhiêu năm dài bận chuyện quân binh
mình không về thăm được. Dương Mậu Sanh đặt hai hũ rượu giả lên
bàn, vòng tay cố gắng lắm mới nói được mấy lời:“Thưa nguyên
soái, tôi xin có chút lễ mọn để ra mắt nguyên soái... “ Nhìn bộ
quần áo trên người Dương Mậu Sanh, Tiết Nhơn Quí hiểu ngay tình
cảnh của người anh kết nghĩa. Ông ôm lấy nghĩa huynh, xúc
động:“Dương huynh lúc nào cũng tốt với tiểu đệ. Ơn xưa biết bao
giờ đệ trả cho xong mà bây giờ còn cho đệ rượu để mừng tái ngộ.
Thì đệ xin uống cho huynh vui“. Nói xong, Tiết Nhơn Quí bưng lên
một hũ, mở nút uống ực ực mà trào nước mắt. Xong, nói lớn cho
mọi người trong trướng đều nghe:“Ngon ! Ngon quá !Rượu của nghĩa
huynh ta ngon quá ! Cay quá ! Làm ta chảy nước mắt“. Rồi truyền
lịnh:“Rượu của nghĩa huynh ta tặng cho ta, vừa ngon vừa quí.
Đứa nào rớ vào là ta chém đầu. Nghe chưa ?“ Rồi tự tay xách hai
hũ rượu một cách trịnh trọng đem vào trong cất kỹ.
.......
Ông Sáu im lặng làm
lưng tôi một lúc, bỗng nói:
- Hồi đó, lúc nào
diễn đến lớp Tiết Nhơn Quí uống rượu giả của Dương Mậu Sanh,
tôi cũng xúc động nên khóc thiệt. Khán giả nghĩ rằng tôi khóc
giả mà như thiệt nên khen quá chừng. Có nhiều người liệng tiền
lên sân khấu cho nữa, thầy Hai à !
- Rồi tại sao anh
Sáu không đi hát nữa vậy ?
- Mấy ngày đầu
tháng tư 75, ông bầu rã gánh, vì đâu còn hát hò gì nữa. Lúc
đó tụi này vẫn “trụ“ ở đình Thanh Nguơn là nơi mà tụi này hát
thường xuyên. Đào kép nhạc công bỏ đi tứ tán. Còn lại ở đình
có anh Ba thợ đèn, anh Tư Rưa người thủ vai Dương Mậu Sanh và
tôi. Tụi này ở chùm nhum với nhau như vậy tới ngày giải phóng.
Ngừng một
chút, rồi không đợi tôi hỏi, ông nói tiếp, giống như ổng đang
quây lại một cuồn phim :
- Rồi họ đến đuổi tụi tôi ra, lấy đình
làm hội trường. Anh Ba và anh Tư đưa vợ con về quê. Còn lại
mình tôi không vợ không con nên cũng dễ. Tôi đổ lỳ, “bám trụ“.
Cuối cùng họ để tôi ở cái nhà xép phía sau đình nhưng bắt tôi
làm gác dan cho họ luôn ! Rồi bởi vì họ không trả lương nên tôi
phải đi đấm bóp để sống.
- Bộ bây giờ người ta cũng kêu đấm bóp như
hồi xưa, hả anh Sáu ?
- Đâu có ! Người
như thầy Hai đây hiếm lắm. Chỉ có cán bộ là thích ba cái vụ này
thôi. Bây giờ bọn đó mới có tiền. Tiền... “ chùa” mà thầy Hai
! Tôi nói bao nhiêu là họ đưa bấy nhiêu, không thắc mắc gì
hết. Cho nên khách của tôi phần đông là cán bộ...
Tôi bật cười:
- Vậy là anh phục
vụ tốt chế độ rồi anh Sáu !
- Đâu có thầy Hai !
Thầy không biết chớ khi tôi làm lưng cho họ tôi đâu có làm theo
bài bản như tôi làm cho thầy Hai đây. Tôi dằn vật họ như một con
thú. Tôi làm cho đã nư mà. Tôi làm lưng họ mà nghĩ như tôi đang
rửa nhục vậy. Cho nên tôi cứ bẻ tay bẻ chân, rồi tôi vặn đầu vặn
cổ. Tôi dẵm lên lưng dẵm lên đầu. Càng làm, tôi càng nghe hả
dạ. Vậy mà họ khen ngón nghề của tôi có “trình độ cao“ ! Cái
thứ dốt mà thầy Hai !
Ngừng một chút rồi
tiếp :
- Thầy Hai biết
không, nói nghe khùng chớ nhiều khi tôi ao ước được biến thành
Tiết Nhơn Quí thiệt, với trùng trùng binh mã trong tay như thuở
đi chinh Đông, để tôi quét sạch bọn vô thần này một phát !
Ổng nói mà hai tay
ổng vẫn mằn mò đầu gân thớ thịt của hai chân tôi. Theo tuần tự
lớp lang thì ổng đang ở phần cuối của cữ đấm. Bỗng ông Sáu thở
dài :
- Coi vậy chớ lâu
lâu tôi vẫn nhớ sân khấu, nhớ tuồng nhớ tích. Tôi thủ vai Tiết
Nhơn Quí gần hai mươi năm mà thầy Hai. Nó thấm trong xương
trong máu lận. Dễ gì quên ?
Rồi ổng chép
miệng, cay đắng :
- Hồi đó, có bao giờ tôi nghĩ rằng tôi sẽ
tuột xuống đi đấm bóp như bây giờ đâu, thầy Hai.
- Đổi đời mà anh Sáu. Đều trời hết chớ bộ
!
Tôi nghe ổng khịt
mũi rồi lầm bầm:“Hừ !Đổi đời !Đổi đời ! Mẹ bà nó !“ Tôi biết đã
đến lúc tôi nên làm thinh để đừng khơi lại một vết thương nào
khác nữa...
... Ông Sáu trở lại
đấm cho tôi được hai lần. Đến kỳ hẹn sau, ổng không tới. Tôi
nghĩ có lẽ ổng bịnh. Tôi đợi thêm một tuần. Cũng không thấy ổng
tới. Thắc mắc, tôi đạp xe lại xóm đình Thanh Nguơn hỏi thăm mới
biết là ông Sáu đã bị bắt. Người ta nói chánh quyền nghi ổng
có ý đồ gì đó bởi vì theo dõi thì “phát hiện“ đêm nào ổng cũng
“lê la“ ở nhà các cán bộ !
Trên đường về nhà,
tôi miên man nghĩ :“Tiết Nhơn Quí trước sau như một, có ở tù,
có bị chúng nó tẩm quất... chắc con người đó không bao giờ thay
đổi. Và tôi lại nghĩ : bọn... ’đỉnh cao trí tuệ’ này không tình
không nghĩa, hữu thủy vô chung, tiền hậu bất nhứt. . . thì
làm gì biết được Tiết Nhơn Quí là ai ?“
Tiểu Tử |