Hương
thơm ngày cũ
Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải
Nhớ cho mình dáng dấp người yêu
Lỡ dòng đời tóc điểm muối tiêu
Còn giấy phút chạnh lòng như mới lớn
Mấy
câu thơ này của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đã nhập vào đầu Giang tự lúc
nào anh không biết. Trong đời, có những điều cứ chạy theo mình như
nước suối nguồn. Ròng rã với ngày tháng. Miệt mài với mọi mùa trăng.
Thăng trầm với sườn đồi vách núi. Và thênh thang về lòng đại dương…
Năm mười bốn tuổi, Giang cùng một người bạn học vào nhà thương để
thăm cô em gái bà con của cậu ta vừa bị xe Honda đụng ở đầu và bất
tỉnh. Đứng bên cô gái trong trạng thái mê man Giang lại thấy cô đẹp
vô cùng. Buồn đâu chưa thấy lại phải lòng một cô gái nhỏ đang bị tai
nạn. Tuổi thiếu niên, vui đó, buồn đó, nhớ thương đó, rồi quên đó,
là chuyện thường tình. Do vậy sau ngày ấy Giang cũng không tìm gặp
cô gái, hay hỏi thăm nhà cửa “nơi nao” để kiếm chuyện làm quen.
Nhưng mãi đến hôm nay, sau gần ba mươi năm, anh vẫn còn nhớ đến cô
gái nằm mê man trong nhà thương ngày ấy. Hẳn bây giờ, nếu có dịp
tình cờ nào mà gặp lại cô gái này, anh kể cho cô nghe chuyện anh
“phải lòng” cô trong lúc cô thập tử nhứt sinh, chắc là cô ngạc nhiên
và cảm động lắm.
Những ngày còn ở Việt Nam, trong một lần đi lao động Xã Hội Chủ
Nghĩa, thủy lợi, có một hình ảnh đập vào mắt Giang, cô gái mười bảy
tuổi, người cùng làng, mà anh vẫn còn giữ mãi đến ngày hôm nay. Bây
giờ nghĩ lại Giang thấy tiên tiếc một chuyện gì…đó, như lời ca:
Ngày xưa tiếc sao mình không ngỏ, để rồi chiều nay mình đâu thấy cô
đơn, ván kia bây giờ đóng thuyền rồi, có còn chi đâu nữa thôi tìm gì
trong mơ...
Ngày ấy, lao động Xã Hội Chủ Nghĩa là điều bắt buộc, không có chuyện
tự nguyện. Giàu nghèo, sang hèn, có học hay thất học đều phải đi làm
công tác lao động và phải mang theo lương thực để tự túc một tuần,
một tháng, tùy theo nhu cầu của nhà nước. Chỉ thương cho những gia
đình nghèo, khoai bắp mỗi ngày còn không có để nuôi con, vậy nếu mất
đi một ngày làm, một tuần làm thì các con lấy gì ăn. Nhưng hình như
đó là chuyện của dân nghèo, chớ không phải là chuyện của cán bộ lo
về thủy lợi ở địa phương, phường xã.
Toán làm thủy lợi của Giang ngày đó khoảng mười người. Tám thanh
niên, hai thiếu nữ, Như và Lan. Lên khu thủy lợi phải tấp vào nhà
dân xin ở đậu và phải tự túc nấu ăn. Bọn Giang phân công là tám
thanh niên mỗi ngày đều phải đi làm thủy lợi. Còn hai cô gái thì
thay phiên nhau ở nhà để nấu cơm cho toán. Nghĩa là, cứ đi làm một
ngày thì ở nhà nấu cơm một ngày. Năng xuất lao động thủy lợi nhiều
hay ít đã có tám thanh niên lo liệu.
Hôm nào Như nấu cơm, khi chiều về thấy, Giang ít có để ý, vì Như gọn
gàng nhanh lẹ, nấu mau xong. Nhưng hôm nào đến Lan nấu, nhìn cô anh
thấy mà... thương. Thường bọn anh phải phụ tay vào mới mong có cơm
ăn sớm. Chắc Lan không quen kiểu nấu cơm dã chiến. Chắc cô không
từng là dân trong Gia đình Phật Tử, Thiếu Nhi Thánh Thể hay Hướng
Đạo..., những nơi tạo cho thanh thiếu niên tự lực cánh sinh khi sinh
hoạt vui chơi ngoài trời. Nấu cơm gì khói phun đầy. Mà nơi này có
củi gì để gọi là củi đâu. Lan quơ quào đại ba lá chuối khô, ba cọng
cỏ khô rơm khô làm mồi. Và khi đã cháy lên thì phải cần củi, tìm củi
không biết “tìm mô” cô chỉ còn biết đi “tha” củi về từ trong những
lều nhà dân cho mình ở đậu. May mà những gia đình này rất dễ dàng
với dân lao động thủy lợi. Thấy Lan ngồi nhúm lửa, thổi lửa, thỉnh
thoảng có nước mắt chảy dài, dù đói mà thấy cảnh này bọn anh cũng
bắt no ngang! Lúc thì Lan ngồi chồm hỗm. Lúc chỏng mông thổi lửa. Có
lúc ngồi bẹp cả xuống đất chẳng còn sợ dơ quần là gì. Cô chỉ mong
cho mau xong để tổ có cơm để ăn. May mà cô không có vết lọ nghẹ nào
dính trên mặt. Nếu có chắc là dễ cười lắm.
Hình ảnh đó sau hai mươi năm, khi Giang kể lại cho Lan nghe trong
một lần điện thoại viễn liên, cô cười bảo anh nhớ dai quá.
Bây gìờ thì Giang biết nói gì với Lan. Ngày xưa cả hai còn nhỏ. Dù
anh có lớn hơn cô vài tuổi, nhưng nghề nghiệp chưa có, đất nước sau
chiến tranh đã hơn mười năm nhưng nhìn đâu cũng còn thấy khổ. Mối
tình trong làng, vừa chớm nở với Lan anh cũng cố gắng nén vội như
người đang đi ngang qua cơn bão, chỉ trông ánh nắng về. Phải lòng
nhau cũng chỉ biết nhìn nhau. Hai chục năm sau đó, từ bên này đất
nước, nhìn tấm hình Lan chụp từ quê nhà gửi sang, Giang biết anh đã
để vuột mất một người tình, cuộc tình, mà những ngày làm thủy lợi và
cả sau đó nữa anh không một lần dám thốt nên lời: yêu em. Để rồi Lan
như hoa lan trong vườn đã có chủ.
Cũng từ nơi đây, vùng của sương mù, Giang gửi về nơi quê hương, nơi
có những mùa nắng dài, và những ngày mưa, ôi mưa sao mà mưa mãi, một
lọ kem Hoa Lan cho... Lan. Nghe nói ở Việt Nam phụ nữ quen sài loại
kem này, nên nhân dịp có người bạn đi Mỹ, anh nhờ mua. Ngày nào
những làn khói trong lúc nấu cơm không làm da mặt Lan trở nên hiu
hắt, nhưng chắc là sau ngần ấy năm với những cơn nắng miền Nam hành
hạ ắt hẳn bây giờ da mặt Lan đã đen, hoặc thâm, hoặc gì gì đó nữa
làm nhan sắc cũng theo tháng năm mà tàn phai. Nhìn nụ cười gượng gạo
của Lan trong hình Giang đoán vậy. Tấm hình đã làm héo úa một dung
nhan. Hy vọng những làn phấn mỏng sẽ làm giảm sự già nua, cùng lúc
làm tăng vẻ mịn màng trên làn da của người đàn bà đã bắt đầu bước
gần vào tuổi bốn mươi. Lan viết thư cho Giang sau khi nhận được hộp
kem: Cám ơn anh còn nhớ đến em. Em… ít… có sài kem, nhưng em cũng
cám ơn anh về món quà này. Cám ơn anh đã nhắc lại những kỷ niệm.
Công việc mệt nhọc, lại chắc là vì đã lớn tuổi, dễ mệt, nên em rất
làm biếng viết thư. Không chỉ làm biếng viết thư cho riêng anh mà
các bạn khác cũng vậy.
Ngày xưa Giang biết Lan là cô gái ít ăn ít nói, nên nay cũng không
ngạc nhiên khi cô viết cho anh chỉ đôi lời cám ơn khi nhận được quà.
Ngoài ra, anh đoán được có những trầm uất cho Lan, nếu cô cứ bị
chồng chất những khó khăn trong cuộc sống. Công ăn việc làm, hoàn
cảnh gia đình đều có thể giết chết mọi tơ tưởng, vấn vương. Những
tình cảm lãng mạng vừa nảy sinh, phút chốc bị nhát dao thô bạo của
đời sống chém bổ xuống thành những đứt đoạn, lìa tan.
Giá trị của việc làm, sự sống ở Việt Nam cho đám dân nghèo hiện tại
là giá trị phải tranh đấu từng tháng, từng ngày. Ai đó thì có thể
nhậu nhẹt ngày đêm, trai gái ngày đêm, xe này xe kia, chớ dân đen,
dân không có thân nhân nước ngoài, chắc là phải bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời. Một bịt đậu phọng chín mua từ tiệm Á Châu ở đây
khoảng hai đô la, Giang không biết là đắt hay rẻ, nhưng ở Việt Nam
nếu người nông dân được con buôn cho biết hàng của họ đã có „đầu
ra“, dù họ phải bán rẻ, chắc họ mừng lắm. Dẫu sao, cứ có „đầu ra“ là
sẽ có công ăn việc làm ỗn định. Giang không biết chính xác Lan bây
giờ làm gì ở Việt Nam, chỉ nghe nói cô làm trong một cơ quan nhà
nước, lương không nhiều, nhưng cũng lo được cho bản thân, gia đình.
Anh cũng mừng cho Lan.
Từ nơi xa xôi Giang ao ước có một ngày nào đó anh sẽ gặp lại Lan
trên quê hương đã vàng úa, đã khập khiễng vì WTO, đã manh nha những
mầm móng loạn lạc. Nhất là những khi trong gia đình có những xào
xáo, cơm không lành canh không ngọt, anh lại càng nhớ đến Lan nhiều
hơn, vì nơi Lan lúc nào anh cũng tìm thấy sự tươi mát, nhẹ nhàng.
Anh thương tưởng về những buổi chiều nắng rọi bờ đê trên con kinh
thủy lợi, về hình ảnh Lan ngồi bên bếp lửa với khói cơm chiều nơi
mái hiên nhà người nông dân ngày nào, về những ngày trong xóm hai
đứa đứng nói chuyện bên nhau.
Và ngày gặp đó đã đến. Về Việt Nam, Giang dành một buổi xế trưa ngày
chủ nhật để tạt qua thăm Lan mà không báo cho cô biết trước. Anh
muốn đem đến cho cô một ngạc nhiên vui vui. Nghĩ xế trưa cuối tuần,
khi những tia nắng còn rõ nét trên mặt đường, còn làm ran rát làn
da, thì ít khi cô gái nào, đàn bà nào, còn muốn giữ nhan sắc mình
trước những tàn phai của nắng đã dám ra đường, chắc Lan cũng vậy.
Nhưng lúc đến nơi, Giang được người em gái của Lan nói cho biết cứ
khoảng giờ này, vào ngày chủ nhật, chắc chắn một trăm phần trăm chị
Lan của cô đang làm công quả trên chùa. Ngôi chùa cách nhà Lan
khoảng hai cây số. Giang hơi ngạc nhiên vì chuyện Lan đến chùa.
Trong những thư gửi qua, có bao giờ Lan nói cho anh biết đến việc đi
chùa làm công quả vào những ngày cuối tuần. Nghe vậy, anh lại hình
dung đến chuyện Lan và Điệp ngày xưa. Nhưng anh không phải là Điệp,
người tình của Lan, còn ai đó là Điệp ắt chỉ mình Lan biết.
Theo người em gái Lan chỉ, Giang chạy xe đến chùa. Ngôi chùa lớn,
yên tỉnh, ngày nhỏ anh đã có lần vào, chung quanh giờ có xây tường
cao để „che chắn“ bên trong. Trước sân chùa có những hàng cây thông
cao, chung quanh có những cội bồ đề, cành nhánh đang dao động vì cơn
gió nhẹ. Từ trong chùa tiếng Đại Hồng Chung đã ngân vang từng tiếng,
cách quãng, thảnh thơi và vang ra xa như bất tận.
Tiếng Đại Hồng Chung vang lên làm những phiền trược ai đang có cũng
tan biến đến vô thủy vô chung, tận cùng trời đất. Từ xa nhìn vào nơi
Đại Hồng Chung đang ngân vang tiếng vọng, Giang thấy nét mặt của một
người đàn bà, tóc được phủ kín bằng chiếc nón màu nâu, chiếc áo màu
lam, ngồi quay lưng nghiêng nghiêng về phía anh, đôi cánh tay, bàn
tay của người như vịn vào chiếc dùi thật lớn được treo chặt tòn ten
bởi hai sợi dây lên trần nhà chùa. Cung cách của „người thỉnh
chuông“ xem ra như chẳng màn gì đến thế sự bên ngoài. Người đàn bà
như chỉ vịn hờ vào chiếc dùi, nhưng cứ sau mỗi lần người thút chiếc
dùi vào Đại Hồng Chung là một tiếng „bong“ thật lớn vang lên, rồi
theo sau là muôn ngàn tiếng vọng ngân dài lan truyền ra thật xa, xa
đến cả bản làng thôn xóm, những khu nghĩa địa quanh chùa.
Giang dựng xe trước cổng chùa, yên lặng đi trên con đường nhỏ vòng
qua ao sen và tượng Quan Thế Âm lớn trước chùa để vào hậu liêu. Chùa
vắng hoe, không một bóng người. Vùng đất này ngày xưa, còn nhỏ,
Giang đã nghe kể có rất nhiều ma vì chung quanh có nhiều mả mồ. Nay
nghĩ lại không phải là lời truyền từ xưa là không có lý. Thời đại
ngày nay mà ngôi chùa này có sự yên tĩnh như hiện tại, thật đến rợn
người. Từ chánh điện đến khu nhà phía sau, từ trong ra ngoài không
thấy một bóng người, không một chú tiểu, không một ni cô, chỉ có
tiếng Đại Hồng Chung đang lên tiếng.
Bước chân Giang lần lên tam cấp, nơi có Đại Hồng Chung, chậm chạp
nhè nhẹ như người đi ăn trộm. Giang sợ như là một tiếng động từ anh
gây ra sẽ làm tiếng Đại Hồng Chung ngưng lại, buổi thỉnh chuông sẽ
hư hoại. Giang đến rất gần người đàn bà. Một cảnh tượng làm anh thấy
thương cảm vô cùng, thấy như anh cũng không còn là mình nữa. Người
đàn bà đang thản nhiên ung dung tự tại đánh dùi đều đặn vào Đại Hồng
Chung không ai khác hơn là Lan. Dù nhìn nghiêng nhưng Giang vẫn nhận
ra Lan, cô gái của hai mươi năm trước đã cùng anh làm thủy lợi trên
vùng kinh tế mới, đã có những buổi chiều ngồi thổi lửa nấu cơm cho
bọn anh ăn. Thời đó đất nước sau chiến tranh, còn khổ, còn chấp nhận
được, còn hiện tại, đất nước đã hơn ba mươi năm sau chiến tranh
không lẽ Lan cũng còn dính dáng với nỗi buồn như vậy sao (dưới mắt
một người đời trần tục từ Giang, anh thấy dáng Lan đang ngồi đánh
dùi vào Đaị Hồng Chung sao mà buồn quá!). Lan cũng biết có người đến
gần mình, nhưng cô không quay lại, vẫn tiếp tục công việc „thỉnh“
108 tiếng Đại Hồng Chung.
Biết làm gì bây giờ khi Lan còn đang mê „thỉnh chuông“, Giang đi đến
hành lang bên hông chùa, đứng yên lặng nhìn quang cảnh chung quanh
chùa, nhìn nắng đang „thiêu đốt“ xóm làng bên ngoài. Mùa hè ở Việt
Nam sao bây giờ có nắng kinh hoàng! Đời sống khó khăn hiện tại không
đủ nóng để đốt người thôi sao, mà bây giờ ông trời còn bắt người dân
chịu cái nắng đến khắc nghiệt như vậy? Hay là cái nắng do nền công
nghiệp toàn cầu gây nên và Việt Nam cũng cùng hứng chịu, như hứng
chịu mưa bão cứ mỗi năm lại về. Để tránh nắng đàn ông còn tỉnh bơ,
chớ phụ nữ đàn bà bây giờ một bước ra đường là tay, mặt, đầu tóc
hoàn toàn được che kín bằng bao tay, bằng nón, bằng khăn. Thậm chí
có cả những cô gái mang dép còn mang cả vớ để che bàn chân cho
khỏi…đen. Việt Nam bây giờ đầy những người bịt mặt. Không còn biết
ai đẹp ai xấu! Không biết ai oan ai ưng!
Giang nhìn lên trần nhà chùa, thấy rõ được những màng nhện bám trên
những hàng kèo cột đen xì. Chùa đã trải qua những mùa nắng mưa dầu
dãi, mấy độ rêu phong. Ngôi chùa này, ngày nhỏ có những lần Giang đã
đi qua khi có đám ma hoặc bắt dế về đá, bắt bọ rày về cho bay với
tàu thủy máy bay được làm bằng cây, bằng kẽm. Nhưng ngày ấy, vì còn
nhỏ nên Giang không để ý gì đến ngôi chùa, có mệt vào xin thầy trụ
trì chuối sứ để ăn, nước lạnh để uống, rồi lại ra đi chơi tiếp tục,
nay đến đây cũng bất đắc dĩ vì nghe nói có Lan đang ở trong chùa,
chớ lòng anh chưa bao giờ thấy thấm nhập Phật Pháp nhiều, chưa cảm
được thấu đáo đời sống thiền môn.
Xong buổi thỉnh Đại Hồng Chung, Lan cất nón, thay bộ đồ màu lam ra.
Lan trở thành một thiếu nữ và cô đang đi tìm người khách lạ nào
viếng chùa thình lình trong buổi xế trưa hôm nay. Vài phút nhìn
Giang ngượng ngập rồi Lan cũng nhận ra anh. Cô lộ vẻ ngạc nhiên:
- Anh Giang đây phải không…? Ủa. Anh về hồi nào mà không báo
cho em biết trước. Ai chỉ em ở chùa mà anh biết để vô đây. Anh đi
với em xuống nhà sau để ngồi uống nước và nói chuyện.
Lan khoan thai đi trước dẫn đường xuống tam cấp ra hậu liêu. Giang
đi sau, thấy dáng Lan y như ngày trước: khoan thai nhưng có nét hơi
ẻo lả. Khi hai người đã ngồi đối diện Giang vẫn còn bồi hồi bởi hình
dáng Lan vừa qua, nên nói chuyện với Lan còn rất lơ là:
- Lan không thay đổi nhiều. Nhưng hơi ốm và da mặt hơi đen hơn
hồi nhỏ.
Lan vừa rót nước ra ly vừa trả lời:
- Mời anh Giang uống nước. Ai bây giờ nghèo mà không ốm và đen.
Anh không nghe chữ „dân đen“ sao?
Giang hỏi Lan:
- Lan cũng nghèo à?
- …
Lan chưa kịp trả lời. Thấy câu hỏi của mình hơi kỳ kỳ khi vừa mới
gặp lại Lan, nên Giang hỏi tiếp chuyện khác:
- Sao chùa vắng quá vậy? Không thấy một bóng người!
- Thầy trụ trì đi vắng, chắc cũng gần về. Chùa ở đây chỉ có hai
người tu. Thầy và một sư cô.
Giang cười với Lan:
- Còn Lan nữa! Lan cũng định đi tu à? Chắc có giận người nào
tên Điệp chớ gì.
Biết Giang nói giỡn nên Lan cười theo anh:
- Đâu có! Đâu có ai tên Điệp mà Lan giận. Em chỉ lên chùa làm
công quả. Em thấy mỗi lần lên chùa em rất vui.
- Hồi nãy đứng nhìn Lan đánh Đại Hồng Chung sao thấy Lan có vẻ
như buồn buồn!
- Không có buồn đâu anh! Tại mình phải cố giữ sự nghiêm trang
yên tĩnh, chớ không phải buồn.
- Lan đi chùa tự bao giờ? Hồi còn ở Việt Nam anh có thấy Lan đi
chùa đâu?
- Lúc đó em có đi, nhưng anh đâu có biết! Nhưng lúc đó chỉ
thỉnh thoảng em mới đi thôi, không thường như trong mười năm đổ lại
đây.
- Còn chuyện chồng con em ra sao? Viết thư anh có hỏi nhưng sao
không thấy em nói gì cả.
- Em đâu có chồng con mà kể cho anh nghe. Không có nên em giấu.
Em mắc cở nên không kể cho anh nghe.
- Sao vậy Lan? Em đẹp, sao lại ở vậy, không chịu lập gia đình?
- Em muốn đi tu!
- Sao vậy?
- Không biết tại sao! Nhưng ngay từ những năm mười lăm mười sáu
tuổi, thỉnh thoảng cuối tuần, ngày rằm, em đã đến chùa này làm công
quả rồi. Không hiểu sao, nhưng rồi từ từ em không còn muốn lập gia
đình, không còn muốn ở ngoài đời. Em chỉ muốn đi tu thôi! Và Lan cứ
tiếp tục nói chuyện đi tu.
Thấy Lan cứ nói chuyện tu, buồn quá, nên Giang đổi đề tài:
- Thầy, em nói hồi nãy là ai?
Sư ông hay sư bà?
- Thầy là một sư cô, ở nơi khác đến tu, không phải người làng
mình. Thầy đang đi công chuyện Phật sự. Anh ngồi chơi đây một lát
nữa chắc sẽ gặp thầy.
- Sao em lại phải ngồi đánh Đại Hồng Chung trong ngày hôm nay?
Mặt Lan lộ ra nét vui:
- Em xin thầy cho phép để em làm công quả đó! Ngồi thỉnh 108
tiếng Đại Hồng Chung sẽ có nhiều phước báu lắm! Em chỉ rảnh có ngày
cuối tuần.
Lan cười:
- Dọn đường cho sau này em xuất gia.
- Trong tuần em cũng đi làm? - Giang nhỏ nhẹ hỏi Lan.
- Dạ. Em là cô giáo dạy ở nhà trẻ.
- Cũng sống được?
- Dạ, cũng sống được anh. Còn cuộc sống của anh ở Anh chắc là
sướng rồi, phải không?
Mấy ngày sau Giang hẹn Lan vào một ngày chủ nhật, sau buổi thỉnh Đại
Hồng Chung ở chùa, sẽ có một việc quan trọng mà anh muốn bàn cùng
Lan trước khi anh trở lại Anh. Trên con đường mòn vào núi, buổi
chiều vắng hoe, hai người vừa đi vừa trò chuyện:
- Nãy giờ anh đã nói hết hoàn cảnh và ý định của anh.
Bây giờ Lan tính sao? Có chịu để anh làm giấy bảo lãnh em qua bên
Anh không?
Lan không nhìn thẳng vào mắt Giang. Đôi mắt cô hướng về phía trước
mặt, hướng đỉnh núi, nơi có một tảng đá khổng lồ màu trắng, nghe nói
là nơi mấy ông “cách mạng” trốn bom B52 thời còn chiến đấu ở trong
rừng. Vùng dưới tảng đá là cây rừng với màu xanh sậm.
- Thôi anh! Đừng làm giấy bảo lãnh em làm gì. Em đã nói với
anh, em không còn muốn lập gia đình!
Biết nói gì thêm với Lan đây, khi cô cứ một mực từ chối. Chuyện vợ
chồng của Giang đã “rã gánh”, không còn hợp nhau nên đường ai nấy
đi, không hận thù, chỉ còn xem nhau như bạn. Kỳ này đi về Việt Nam
anh định tìm một người vợ khác, không ngờ biết ra Lan chưa có gia
đình, anh lại thao thức nhiều đêm để đi đến một quyết định sẽ xin
cưới Lan. Dù muộn nhưng vì là chỗ quen biết trước, nên anh nghĩ tình
yêu hai đứa chắc là không đến đổi nào nhạt nhẽo, còn thi vị nữa là
khác.
Lan cười chọc Giang:
- Ngày xưa, sao lúc đi anh không rủ em. Lúc đó anh chưa có vợ
mà. Nếu anh rủ em cùng đi vượt biên lúc đó, biết đâu bây giờ chuyện
đã đổi khác.
- Lúc đó anh cũng vội vàng. Hơn nữa vì sợ công an nên anh cũng
không dám rủ ai. Nhưng mà chuyện cũng đã qua lâu rồi!
-.....!
Đường vào gần chân núi sương chiều càng đậm đặc. Giang vòng tay
ngang qua vai Lan để cản bớt sương lạnh cho cô, chứ không phải anh
muốn đổ trút những buồn vui trong cuộc đời mình lên đôi vai nhỏ bé
của người bạn gái thuở thiếu thời. Lan để yên bàn tay Giang trên vai
cô. Anh hít được mùi hương thơm, mà cũng không biết hương thơm từ
Lan, hương thơm của núi rừng về chiều, hay hương thơm ngày cũ. Và
khi trên đường trở lại về làng thì trời đã tối hẳn, không kìm hãm
nổi cảm xúc, cộng lối sống Tây phương đã quen, Giang đã ôm Lan vào
lòng và hôn trên đôi má nàng đã lấm tấm sương. Giang đành chia tay
Lan từ buổi chiều tối hôm đó.
Năm ngoái có cơn bão lớn thổi ngang qua làng Lan, nên sau đó, khi
nghe nói có người trong thành phố Giang ở về Việt Nam làm công tác
từ thiện, nhân vụ bão lụt vừa qua, dịp này anh nhờ họ về ghé đến
chùa của Lan để giúp đỡ dùm, nếu chùa có bị thiệt hại vì bão. Khi họ
trở qua Giang được biết, đến chùa ngoài hai sư trụ trì cũ họ còn gặp
một sư cô mới vào tu, Pháp danh là Thích Nữ Trí Vân, tên ngoài đời
là Lan, người của làng.
Dù biết Lan đã vào chùa tu như lời thư cô đã viết, nhưng khi nghe
những người vừa gặp Lan nói ra, Giang cũng thấy buồn buồn. Giang
biết kể từ đây, khi gặp lại Lan anh không có quyền áp má, quàng vai
như lần gặp trước, mà phải chấp tay Nam Mô A Di Đà Phật. Giờ Lan đã
là sư cô. Một sư cô chưa từng vẩn đục bởi chuyện thế gian trần tục.
Duyên nghiệp của Lan được sinh ra trong đời này là để đi tu. Có
người bạn, khi nghe Giang kể chuyện Lan, đã nói với anh như vậy.
Một anh bạn trong toán về Việt Nam làm công tác từ thiện còn nói
giỡn: Sư cô mới đi tu này chỉ khoảng tuổi trên dưới bốn mươi, rất
vui vẻ và còn đẹp lắm! Mọi người đều cười ồ lên, trong khi chỉ mình
Giang biết là Lan đã đi trên con đường cô đã chọn, nên cô vui khi
tiếp chuyện với khách thập phương cũng là chuyện thường tình, còn
chuyện đẹp xấu chắc cô không màng.
Tự dưng Giang có cảm giác không vui, như ngọn gió bấc muộn, lạc
loài, đang mang hơi lạnh về trên khắp thành phố anh đang cư ngụ, dù
trời đang bước những bước chân chậm chạp vào xuân.
Vũ Nam (Germany)
|