Mao và Việt Nam
-
PSN -
22.03.2009 | Trần Bình Nam
Đường gạch nối màu đỏ là ranh giới lưỡi bò mà Trung Quốc tuyên bố
thuộc chủ quyền của mình. Đường gạch nối màu xanh là vùng đặc
quyền kinh tế của các nước theo công ước Luật biển Liên hợp Quốc
1982.
|
Mối lo hôm nay đối với người Việt Nam là tham vọng nuốt
chửng Việt Nam của Trung quốc. Từng lời nói, từng hành động
của các nhà lãnh đạo Trung quốc hiện nay đều nhắm vào hướng
này.
Nhưng mộng bành trướng và khống chế Việt Nam của Trung quốc
không phải trong thời đại đang vươn mình này của Trung quốc
mới có. Đó là giấc mộng ngàn đời, từ thời đại các hoàng đế
Trung quốc, qua các triều đại Minh, Nguyên, Thanh. Và gần
đây Đặng Tiểu Bình, người được liệt vào bậc anh quân đã có
đủ sáng suốt chuyển hướng chính trị đưa Trung quốc ra khỏi
trận cuồng phong Mácxít và Maoít cũng là người đã ra lệnh
cho hàng chục sư đoàn tiến đánh Việt Nam (2/1979). Và trước
đó, Mao Trạch Đông, một nhà đại cách mạng Trung quốc, người
được coi là một hoàng đế tân thời của Trung quốc hậu bán thế
kỷ 20, người hết lòng giúp đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc
chiến tranh chống Pháp giành độc lập cũng – trong mọi hành
động của ông – đều có sự tính toán để uy hiếp và tối hậu
thôn tính Việt Nam.
Người Trung hoa từ ngàn xưa vẫn xem Việt Nam là một phần đất
của Trung quốc. Những khẩu hiệu Trung quốc- Việt Nam “núi
liền núi, sông liền sông”, “môi hỡ răng lạnh” chỉ
là những khẩu hiệu, và mới nhất là châm ngôn 16 chữ vàng “Láng
giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng
tới tương lai.”cũng chỉ là chiêu bài để che đậy những ý
đồ có tính lịch sử của Trung quốc.
Cho nên việc giữ nước lâu dài đòi hỏi các vua chúa Việt Nam
hay những nhà lãnh đạo Việt Nam nắm vững yếu tính lịch sử đó
để có chính sách phòng ngự thích hợp, dù đó là chính sách
kinh tế, xã hội hay quốc phòng.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) cho đến năm
1992 nắm vững được yếu tính lịch sử này. Trong thời kỳ chiến
tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954), thời kỳ xâm lăng
miền nam Việt Nam (1960-1975) cũng như sau khi thống nhất
Việt Nam các nhà lãnh đạo tại Hà Nội – dù được Trung quốc
viện trợ – vẫn luôn luôn cảnh giác ý đồ của Trung quốc.
Nhưng từ năm 1992, do nhu cầu sống còn trước sự sụp đổ của
Đông Âu và Liên bang Xô viết, đảng cộng sản Việt Nam trở nên
lệ thuộc hoàn toàn vào Trung quốc và nền an ninh Việt Nam
trở nên bị đe dọa. Sự bảo vệ biên giới đất liền, lãnh hải,
hải đảo trở nên càng lúc càng yếu ớt.
Trở lại một ít lịch sử bang giao Việt Nam và Trung quốc sau
khi Mao Trạch Đông đánh thắng Tưởng Giới Thạch và thành lập
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949.
Trong cuốn sách mới nhất về Mao Trạch Đông của bà Jung Chang
viết chung với ông Jon Halliday nhan đề “Mao: The Unknown
Story” (Những Câu Chuyện Chưa Được Tiết Lộ về Mao)(1)
bà Jung Chang đã để dành một chương để nói về các ý đồ của
Mao đối với Việt Nam (trang 560 -566).
Theo bà Jung Chang, mỗi hành động của Mao đối với Hồ Chí
Minh đều có hậu ý. Trung quốc giúp huấn luyện và trang bị
quân đội cho ông Hồ trong chiến dịch biên giới (1950) chủ ý
là không để cho các thành phần Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới
Thạch bị tảo thanh tại Trung quốc chạy trốn sang Bắc Việt
Nam có điều kiện trở lại tấn công Mao(2).
Nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự nghi ngờ Trung quốc
trước thái độ tráo trở của Bắc Kinh trong cuộc hội đàm tại
Geneve năm 1954.
Năm 1954 Mao phát động chương trình canh tân để biến Trung
quốc thành một siêu cường (Superpower Program). Trung quốc
cần hiểu biết kỹ thuật và trang thiết bị lúc đó đang bị Tây
phương cấm vận. Trung quốc tranh thủ viện trợ của Liên bang
Xô viết, nhưng Mao biết chưa đủ nên Mao vận động giải tỏa
cấm vận từ Pháp vì Pháp là nước giữ được tính độc lập với
Hoa Kỳ nhiều nhất.
Lúc đó Pháp đang lúng túng tại Đông Dương. Ý của Mao là giúp
Hồ Chí Minh đẩy Pháp vào chân tường rồi sẽ ra tay gỡ kẹt cho
Pháp để đổi lấy điều kiện đòi giúp đỡ kỹ thuật. Tháng 5/1953
khi cuộc chiến tranh Triều Tiên sắp chấm dứt, Trung quốc
chuyển sĩ quan và cố vấn sang thẳng biên giới Việt Nam chuẩn
bị cho chiến trường Đông Dương mà cao điểm là cuộc chiến
thắng có tính quyết định ván bài Việt Nam của trận Điện Biên
Phủ tháng 5/1954.
Theo tài liệu của bà Jung Chang, trước khi hội nghị Geneve
họp (26/4/1954) Mao đã quyết định sẽ giúp Pháp và tìm một
giải pháp nhẹ nhàng cho Pháp chứ không để cho đảng Cộng sản
Việt Nam nhân cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đòi những điều
kiện bất lợi cho Pháp. Thống nhất Việt Nam bằng cách đẩy
mạnh các cuộc tấn công quân sự, đuổi Pháp một lèo ra khỏi
Đông Dương là một trong những chương trình của đảng Cộng sản
Việt Nam.
Ngày 7/5/1954 Điện Biên Phủ thất thủ. Ngày 17/5 chính phủ
Pháp sụp đổ. Theo kế hoạch của Mao sẽ dùng chiến trường Việt
Nam đổi chác với Pháp, ngày 23/5 thủ tướng Chu Ân Lai gặp
riêng tân thủ tướng Pháp Mendes France tại Genève và đưa ra
món hàng đổi chát. Phái đoàn đảng Cộng sản Việt Nam do thủ
tướng Phạm Văn Đồng cầm đầu hoàn toàn không hay biết sự đối
chác này.
Phạm văn Đồng đưa ra một chương trình ở thế mạnh gồm chấm
dứt chiến tranh, Pháp rút ra khỏi Đông Dương, thành lập Liên
bang Đông Dương Việt Miên Lào, và không đồng ý chia cắt Việt
Nam như gợi ý của phái đoàn Chu Ân Lai. Ông Đồng nghĩ rằng
quân đội Cộng sản Việt Nam đang làm chủ chiến trường Bắc
Việt, và đã kiểm soát một khu rộng lớn tại miền Nam Trung bộ
và Nam bộ nên không có lý do gì chấp nhận giải pháp chia
cắt. Mặt khác với sự mất tinh thần của quân đội Pháp sau
trận Điện Biên Phủ và thời gian hứa hẹn của thủ tướng Mendes
France(3), Hà Nội có thể đẩy mạnh các cuộc tấn
công quân sự là đủ buộc đối phương phải nhượng bộ chấp nhận
chương trình của Hà Nội.
Tuy nhiên Chu Ân Lai chỉ trích chương trình của Phạm Văn
Đồng và vừa áp lực vừa dọa rằng nếu Hà Nội tiếp tục thừa
thắng tấn công đẩy Pháp vào chân tường Hoa Kỳ và Liên hiệp
quốc có thể nhập cuộc như đã xẩy ra tại Triều Tiên. Chu Ân
Lai cho biết nếu Hà Nội không ký một bản hiệp ước tạm thời
chia cắt Việt Nam thì đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải tự lực
chiến đấu, Trung quốc không có điều kiện để tiếp tục giúp đỡ(4).
Hồ Chí Minh biết không thể làm ngược lại ý của Trung quốc,
hơn nữa Hồ Chí Minh cũng không muốn thấy cuộc chiến tranh
Việt Nam biến thành một trận chiến tranh Triều Tiên thứ hai
nên Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký Hiệp định hòa
bình chấm dứt chiến tranh và chia đôi Việt Nam qua vĩ tuyến
17. Theo các nhân chứng tại Genève, Phạm Văn Đồng đã khóc mà
tuân lệnh Hồ Chí Minh. Chọn vĩ tuyến 17 thay vì vĩ tuyến 16
là một món quà “phụ thêm” của Trung quốc tặng cho Pháp vì
quốc lộ số 9 nối liền Lào với biển nằm giữa vĩ tuyến 16 &
17.
Mối nghi ngở giữa đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc nẩy
mầm từ đó.
Đầu năm 1965, khi Brezhnev bắt đầu chương trình tăng viện
trang bi nặng cho đảng Cộng sản Việt Nam như súng phòng
không và hỏa tiễn để chống cuộc không tập của không quân Hoa
Kỳ vào miền Bắc Việt Nam, Mao thuyết phục Brezhnev nên dành
tài nguyên đó để đương đầu phía Âu châu hơn là giúp Việt
Nam. Mặt khác Mao thuyết phục Hồ Chí Minh chớ nên quá lệ
thuộc vào Mạc Tư Khoa. Chu Ân Lai - suy bụng ta ra bụng
người - từng nói với Phạm Văn Đồng rằng: “Các anh không
nên nhận viện trợ của Liên bang Xô viết … Liên bang Xô viết
giúp các anh chỉ để tạo điều kiện thương thuyết làm hòa với
Hoa Kỳ thôi.”
Trong khi đó Mao nỗ lực o bế Hồ Chí Minh. Mao cho đổ vào
Việt Nam tiền bạc và hằng ngàn tấn vật liệu và vũ khí nhẹ
cùng với 130.000 binh sĩ để giúp điều khiển súng phòng không
và bảo trì hệ thống lưu thông chống cuộc oanh tạc của Hoa
Kỳ. Theo bà Jung Chang, Trung quốc còn dùng mỹ nhân kế giới
thiệu một thiếu phụ trẻ đẹp làm vợ Hồ Chí Minh, nhưng Hồ từ
chối không nhận.
Ngày 31/3/1968 khi tổng thống Johnson tuyên bố không ra ứng
cử tổng thống nhiệm kỳ 2 (11/1968) và đề nghị thương thuyết,
Trung quốc khuyên Hà Nội đừng nhận lời, nhưng Hà Nội vốn
nghi ngờ thiện chí của Trung quốc đã nhất định đi tới và
ngày 3/4/68 tuyên bố nhận lời đề nghị của tổng thống
Johnson.
Khi cuộc thương thuyết tại Paris bắt đầu. Chu Ân Lai nói với
Hà Nội rằng Trung quốc có nhiều kinh nghiệm thương thuyết
với Hoa Kỳ nên Hà Nội cần cố vấn của Trung quốc trong phái
đoàn thương thuyết, nhưng Hà Nội tư chối. Để trả đũa Trung
quốc tìm cớ ngăn cản sự chuyển vận vật liệu chiến tranh cho
Bắc Việt (của Trung quốc và của Nga chở qua đường Trung
quốc) và cắt đứt các cuộc dàn xếp viện trợ tương lai. Hà Nội
được yêu cầu đừng gởi phái đoàn thương thuyết viện trợ dự
tính đi Bắc Kinh tháng 10/1968.
Dù bị Trung quốc làm khó khăn Hà Nội vẫn không để cho Trung
quốc nắm cuộc thương thuyết tại Paris.
Không dùng viện trợ uy hiếp được Bắc Việt, Mao dùng phương
pháp gián tiếp. Mao thành lập một đảng Cộng sản Cambốt lấy
tên là Khmer Đỏ do Polpot cầm đầu, vừa chống Sihanouk vừa
chống Việt Nam, và năm 1967 Mao định đảo chánh lật đổ
Sihanouk để thiết lập một chế độ thân Trung quốc tại đó
nhưng không thành.
Cơ hội tới khi tướng Lonnol (với sự tổ chức của cơ quan tình
báo Hoa Kỳ CIA) đảo chánh lật đổ Sihanouk ngày 18/3/1970.
Mao vội vàng đưa Sihanouk sang Bắc Kinh và thuyết phục Việt
Nam phối hợp với Sihanouk thành lập một mặt trận Đông Dương
chung chống Mỹ (lẽ dĩ nhiên) dưới sự lèo lái của Trung quốc.
Chính sách của Mao đối với Hà Nội thống nhất ở chỗ tạo trở
ngại không cho Việt Nam thống nhất và ngăn cản không để Việt
Nam tạo ảnh hưởng tại hai nước Miên, Lào. Ngay cả Mặt Trận
Giải Phóng miền Nam do Hà Nội nặn ra do nhu cầu chính trị
xâm lấn miền Nam Trung quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội ve vuốt,
mua chuột để tách Mặt Trận này ra khỏi ảnh hưởng của Hà Nội.
Chính sách trước sau của Trung quốc là không để cho Việt Nam
trong bất cứ trường hợp nào trở thành một quốc gia thống
nhất và hùng mạnh.
Trong thời kỳ chiến tranh (chống Pháp 1946-1954), và xâm lấn
miền Nam (1960-1975) Hà Nội dùng chính sách đi dây giữa
Trung quốc và Liên bang Xô viết để bảo đảm nguồn viện trợ
quân sự và kinh tế, nhưng sau khi thống nhất Việt Nam
(1975), Hà Nội bắt đầu có thái độ độc lập hơn với Trung
quốc.
Để giải tỏa gọng kềm của Trung quốc chọc từ phía Cam bốt,
tháng 12/1978 Hà Nội tấn công lật đổ chế độ Polpot thân
Trung quốc. Hậu quả là cuộc tấn công trả đũa của Trung quốc
qua biên giới phía Bắc tháng 2/1979.
Hà Nội cũng chứng tỏ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà Trung quốc vẫn thường tuyên bố là thuộc Trung
quốc. Khi Hà Nội đẩy mạnh cuộc tấn công trên bộ chiếm miền
Nam năm 1975 Hà Nội đã cho các đơn vị hải quân ra trú đóng
tại một số đảo quan trọng trong quần đảo Trường Sa để chận
trước sự “xí phần” của Trung quốc. Sự hiện điện của quân đội
Cộng sản Hà Nội tại các đảo Trường Sa là điều làm cho Trung
quốc rất khó chịu và đã dẫn đến cuộc đụng độ tại Trường Sa
năm 1988 làm cho hơn 80 chiến sĩ hải quân Việt Nam tử trận.
Các diễn biến trên chứng tỏ rằng cho đến năm 1992 dù bị áp
lực nhiều phía của Trung quốc các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn cố gắng thực hiện truyền thống bảo vệ tổ quốc
trước cuộc xâm lấn không mệt mỏi của Trung quốc.
Nhưng vào năm 1992 tình hình thế giới chuyển biến đột ngột.
Liên bang Xô viết sụp đổ và Hoa Kỳ đã rút ra khỏi vùng Thái
Bình Dương trong khi Trung quốc trở nên lớn mạnh về cả hai
mặt quân sự và kinh tế. Hà Nội trước sự đe dọa sụp đổ đã
phải nhờ cậy vào Trung quốc để sống còn nên mất tư thế của
một nước có chủ quyền đối với Trung quốc.
Hình như các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
không đủ bản lãnh để hoạch định một chính sách giữ nước
trong những điều kiện mới. Và từ sự thiếu vắng chính sách và
nhân sự lãnh đạo vững vàng là một chuổi dài thua thiệt và
nhượng bộ.
Hà Nội phải ký hai Hiệp ước đất liền (1999) và biển (2000)
với những điều khoản bất lợi cho Việt Nam. Mất thêm đất
trong vùng Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, và nhiều chục ngàn
hải lý rộng trong vịnh Bắc Việt. Vùng đánh cá của ngư dân
Việt Nam trong vịnh Bắc Việt và ngoài khơi biển Nam Hải bị
hạn chế do chính sách “gunboat” của Trung quốc. Ảnh hưởng
của Việt Nam đối với hai nước láng giềng Cam Bốt và Lào dần
dần bị thu hẹp. Trung quốc đã thả hai gọng kềm hai bên hông
Việt Nam, một bên là Lào nay hoàn toàn tùng phục Trung quốc,
một bên là căn cứ tàu ngầm tại cực nam đảo Hải Nam. Tương
lai của Việt Nam còn lệ thuộc vào nguồn dầu hỏa trên biển
Đông thì Việt Nam hiện nay cũng không có điều kiện khai
thác. Nỗ lực khai thác qua việc ký giao kèo tìm dầu khí với
công ty BP của Anh (2007) và ExxonMobil của Mỹ (2008) không
thành trước áp lực của Trung quốc.
Việt Nam hình như đang mất sự tự do tối thiểu của một quốc
gia độc lập.
Ngư dân bị tàu Trung quốc bắn chết (1/2005) trong Vịnh Bắc
Việt Hà Nội không dám lên tiếng công khai phản đối và đòi
bồi thường.
Trung quốc lấy đất của Việt Nam ghép vào quận huyện của
Trung quốc (12/2007) Hà Nội không dám để cho nhân dân biểu
tình bày tỏ sự phản đối.
Và năm nay, kỷ niệm 30 năm trận chiến bảo vệ biên giới năm
1979, báo chí Hà Nội không được viết lách tự do ca ngợi các
chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ tổ quốc. Và làm lễ chào mừng các
chiến sĩ đang trú đóng tại Trường Sa mà báo chí và các cơ sở
truyền thông do chính phủ kiểm soát không loan tin… Và còn
nữa!
Vậy phải làm gì?
Phát huy nội lực và liên kết với đồng minh là sách lược ngàn
đời để cứu nước.
Liên kết với ai? Nếu không phải với Hoa Kỳ, Úc châu, Nhật
Bản, Ấn Độ, Liên bang Nga, Liên hiệp Âu châu, Hiệp Hội Asean
trong đó có trọng lượng nhất là Hoa Kỳ. Nhưng chính Hoa Kỳ
cũng đang gặp khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế và trong
kế hoạch chấn hưng kinh tế Hoa Kỳ cũng đang nhờ sự hợp tác
tài chánh của Trung quốc. Trung quốc đã không ngần ngại cho
biết thế yếu của Hoa Kỳ và cảnh giác Hoa Kỳ chớ quá nóng vội
giúp đỡ Việt Nam.
Bà Hillary Clinton tân bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ trong
chuyến công du đầu tiên đến Trung quốc (2/2009) đã lỡ lời
“thỉnh cầu” Trung quốc mua trái phiếu quốc gia của Hoa Kỳ để
cùng có lợi chung thì liền ngay sau đó Trung quốc cho tàu
chiến nghênh tàu của Hoa Kỳ trong biển Đông trong một vùng
biển được hiểu là hải phận quốc tế. Để áp lực Hoa Kỳ nhượng
bộ trên biển Đông, thủ tướng Ôn Gia Bảo lên tiếng nhắc khéo
rằng “không biết trái phiếu Trung quốc đang mua của Hoa Kỳ
có bảo đảm không?”
Vậy chỉ còn phát huy nội lực là chính. Và phát huy nội lực
đòi hỏi sự đoàn kết của toàn dân sau lưng người cầm quyền.
Và toàn dân chỉ đoàn kết sau lưng nhà cầm quyền khi họ có
đầy đủ quyền tự do dân chủ.
Chính sách từ Mao, đến Đặng Tiểu Bình, rồi nay đến Hồ Cẩm
Đào trước sau vẫn là khống chế Việt Nam. Và trong chiến lược
lâu dài đương đầu với Hoa Kỳ để giành quyền bá chủ, Trung
quốc sẽ phải chủ động mở con đường về phía nam trước. Bất cứ
gì trên con đường tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều
phải được thôn tính.
Việt Nam ở ngay trên con đường tiến của Trung quốc. Chừng
nào thì những người lãnh đạo tại Hà Nội nhận thức được mối
nguy mất nước để đoàn kết quốc dân cùng cứu nước?
Trần Bình Nam
March 19, 2009
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
---------------------------
(1)
Phát hành tháng 11/2006 do Anchor Books, một chi nhánh của
nhà xuất bản Random House Inc.
(2)
Tác giả Qiang Zhai trong cuốn “China & The Vietnam Wars,
1950-1975” the University of North Carolina Press cũng có
nói đến ý này của Mao Trạch Đông.
(3)
Thủ tướng Mendes France hứa rằng đến ngày 20/7/1954 ông
không tìm được một giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương
ông sẽ từ chức.
Tiết lộ bởi Lê Duẫn, “Mao: The Unknown Story” trang 562.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|