Kinh nghiệm toàn trị tại Trung quốc
Lời mở
đầu
Bài 1:
Những giới hạn co giãn của toàn trị - Bruce Gilley.
Bài 2: Ðe
dọa quyền tối thượng của Ðảng - Bruce J. Dickson.
Bài 3:
Những vấn đề yếu ớt của nhà nước - Shaoguang Wang.
Bài 4: Sự
bất bình đẳng mới - An Chen.
Bài 5: Ổn
định như núi lửa đang sôi - Qinglian He.
Bài 6: Thức
giấc cùng Trung Quốc - Ted C. Fishman.
Bài 6
Thức giấc cùng Trung Quốc
Ted C. Fishman
Napoléon có lời nhận xét nổi tiếng rằng khi Trung Quốc thức
giấc, thế giới sẽ run sợ. Dĩ nhiên Trung Quốc không bao giờ
thật sự thiếp ngủ. Trên thế giới, có những nước có thể bị tả
một cách tương đối là như đang ngủ. Trung Quốc hầu như không
là một trong những nước ấy.
Suốt thế kỷ vừa qua, Trung Quốc lâm vào tình trạng hỗn loạn
không kém bất cứ xứ sở nào. Nó bị tả tơi vì những cuộc nội
chiến và các cuộc xâm chiếm thuộc địa. Tiếp theo cuộc Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai, cuộc Cách mạng Cộng sản của
Trung Quốc đã buông cương cho các chính sách có tính ý thức
hệ với sức mạnh lớn lao nhằm lập đi lập lại trật tự cuộc
sống riêng tư lẫn công cộng và thường dẫn tới kết quả tai
họa. Từ đầu tới cuối chương trình kinh tế được gọi là Bước
đại nhảy vọt trong hai năm 1959 và 1960, một giai đoạn trong
đó Trung Quốc như thể người đang ngủ đối với thế giới bên
ngoài, năm chục triệu người răm rắp tuân theo các chính sách
của chính quyền, rời bỏ hẳn nông trang để di chuyển vào một
tương lai kỹ nghệ. Sự phá vỡ ấy góp phần gây nên một nạn đói
lớn lao nhất do con người tạo ra, với tổng số người chết đói
trên 30 triệu.
Cách mạng kỹ nghệ của Trung Quốc
Ngày nay, chắc chẳng ai có ý kiến sai lầm rằng Trung Quốc là
nước đang ngủ. Trung Quốc hiện trông có vẻ rất khác, khác
tận gốc, so với nó trước đây, khi bị cai trị bởi những kẻ
duy ý thức hệ cộng sản nghiêm ngặt nhưng quá khứ đó cũng
mang lại kết quả phần nào cho sinh lực hiện tại của xứ sở.
Suốt hai thập niên vừa qua, nền kinh tế Trung Quốc là một
trong những phép lạ trên thế giới. Các con số thì có chút mơ
hồ nhưng theo báo cáo của các cơ quan quốc tế thì mức tăng
trưởng của Trung Quốc bình quân là 9% trong suốt thời kỳ 20
năm. Một mức tăng trưởng đủ nhanh để có thể đưa lợi tức
trung bình tại Trung Quốc lên gấp 4 lần và tạo ra giai cấp
trung lưu có thể chiếm tới một phần tư tổng số dân một tỉ
người.
Ngày nay, dân chúng Trung Quốc chuyển dịch hơn bao giờ hết
với 300 triệu nông dân và cư dân sống tại các làng quê đang
kỳ vọng thế hệ sắp tới của họ sẽ chuyển lên sống ở các thành
phố lớn. Lần này kết quả của di chuyển sẽ không phải là nạn
đói. Các nông trang của Trung Quốc vẫn sản xuất tốt và cư
dân mới của các thành phố gởi tiền về cho thân nhân nơi quê
cũ. Từ lúc bắt đầu các cải cách có tính thị trường và người
dân được phép lao động bên ngoài các kỹ nghệ bị nhà nước
kiểm soát, người Trung Quốc mở ra 125 triệu cơ sở làm ăn.
Tổng số hiện hành là 85 triệu. So với nước Mỹ, nơi người dân
sống trong nền kinh tế thị trường từ hơn ba thế kỷ nay với
26 triệu cơ sở làm ăn hoặc tính theo đầu người thì có tỉ lệ
xấp xỉ với Trung Quốc.
Trung Quốc mở cửa
Sự tiến bộ đầy kinh ngạc của Trung Quốc không chỉ do vấn đề
mở cửa mà còn do vấn đề chuyển mọi cơ chế hướng tới kinh tế
thị trường, và trên hết, nối kết với hệ thống thương mại thế
giới.
Sự thịnh vượng mới của Trung Quốc chịu một ơn nghĩa nào đó
đối với sự thất bại của các chính sách xã hội thuở trước.
Các nhà sản xuất trên thế giới càng ngày càng chọn Trung
Quốc làm nơi cư trú của họ và những khách mua hàng trên thế
giới cần nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc trị giá hàng trăm
tỉ Mỹ kim mỗi năm, đều nhận thấy mình có lợi thế trong tình
trạng nghèo khổ tràn lan khiến người lao động lương rẻ phải
vào làm trong các xí nghiệp mới lập để sản xuất những hàng
hóa có tổn phí thấp nhất thế giới. Mỉa mai thay, thành công
của Trung Quốc trong suốt 20 năm qua lại mắc món nợ cay đắng
đối với sự cai trị hà khắc của những kẻ theo Mao-ít, những
kẻ đã tạo ra các tiền đề cho một lực lượng sản xuất có kỷ
luật, phí tổn thấp, để ngày nay phục vụ các nhà tư bản của
Trung Quốc và của thế giới.
Vì cách mà Trung Quốc hiện đang sắp đặt các sinh lực của nó,
nó là một xứ sở tiêu biểu cho phần còn lại của thế giới với
những cơ hội lớn lao nhất cùng những hiểm họa cũng lớn lao
không kém. Tính từ sự trỗi dậy của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ
trong cuộc Cách mạng Kỹ nghệ vào thế kỷ 19, không một xứ sở
nào thách thức phần thế giới còn lại một cách lẹ làng và đầy
sức mạnh trên nhiều mặt trận như Trung Quốc
Thách thức của Trung Quốc
Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì phức tạp. Hoa Kỳ
cần cân nhắc từ mọi góc độ bất cứ hành động nào có tác động
lên những quan hệ giữa hai nước. Trung Quốc, như thế giới
dần dần nhận ra, có thể cướp mất bất cứ công việc hãng xưởng
nào của gần như bất cứ xứ sở nào trong bất cứ ngành kỹ nghệ
nào. Năm 2005, Trung Quốc cho thấy nền tài chánh đang gia
tăng của nó khiến nó có thể hành xử trên khắp thế giới. Ngày
nào cũng như ngày nấy, Trung Quốc có tới 2 tỉ công khố phiếu
của Hoa Kỳ. Tháng Năm vừa qua, Lenovo, công ty khổng lồ chế
tạo máy điện toán do nhà nước Trung Quốc làm chủ, đã thỏa
thuận xong việc thương lượng để sở hữu phân xưởng sản xuất
máy điện toán cá nhân của IBM, và như thế, biến Lonovo thành
công ty chế tạo máy điện toán cá nhân lớn thứ ba trên thế
giới. Sang tới tháng Sáu, một trong những công ty dầu hỏa
lớn của Trung Quốc gần như do chính quyền làm chủ, CNOCC
[Công ty khai thác dầu hỏa viễn duyên Trung Quốc] đánh một
quả ngoạn mục dù cuối cùng không đạt kết quả: nó đưa ra giá
18,5 tỉ Mỹ kim để mua UNOCAL, một công ti dầu lửa khổng lồ
của Mỹ.
Liệu những đề xuất đó có thể không làm cả thế giới rúng
động? Trung Quốc đã thành khách mua hàng hóa kỹ nghệ và tài
nguyên thiên nhiên, với tính háo thắng và được chào đón hầu
như khắp thế giới. Quả thật, hãy để sang một bên Hoa Kỳ
trong bức tranh thương mại của Trung Quốc thì thấy Trung
Quốc đang bị thâm hụt mậu dịch lớn lao với các nước khác
trên thế giới khi nó mua những gì cần thiết để xây dựng hạ
tầng cơ sở kỹ nghệ và đô thị. Nhưng việc hiến giá để mua
UNOCL gây rúng động toàn bộ chính quyền Hoa Kỳ, và Quốc hội
Mỹ phải vội vã chận đứng bằng quyền lập pháp để cuối cùng
chấm dứt cuộc thương lượng.
Thành tố Nhân dân tệ
Vào tháng Bảy năm 2005, Trung Quốc chiếm lĩnh hàng đầu các
bản tin trên báo chí thế giới khi chính phủ của nó điều
chỉnh cách mà nó định giá đồng Nhân dân tệ. Trung Quốc vẫn
thường bị công kích về việc giữ cố định hối suất tiền tệ của
mình quá thấp so với đồng Mỹ kim. Ðề xuất mới này là một cử
chỉ có phần nào hướng tới điều mà các viên chức tài chánh
thế giới cổ vũ từ lâu.
Ðiều chỉnh tiền tệ của Trung Quốc lên chưa tới 3% chỉ là một
thay đổi nhỏ nhưng nó là tin lớn tại Hoa Kỳ và châu Âu, nơi
chế độ tiền tệ của Trung Quốc gây lạm phát cho trị giá của
đồng Mỹ kim và đồng Euro khiến các nhà sản xuất tại Âu Mỹ
khó cạnh tranh với các công ty Trung Quốc. Biện pháp tiền tệ
ấy chứng tỏ rằng Trung Quốc, từng có thời bị xem là một nước
có chính sách ngoại giao vụng về và các chính sách kinh tế
vừa ra lệnh vừa kiểm soát, ngày nay có đủ khả năng tinh tế
cả ngoại giao lẫn tài chánh. Với chỉ một cú lao xuống đột
ngột, Trung Quốc trông như thể có thiện ý để cho các nhà phê
bình quốc tế thường chỉ trích nó — thí dụ Ngân khố Hoa Kỳ —
thấy rằng nó có thể nhân nhượng tới một mức nào đó trước nhu
cầu của các đối tác thương mại, trong khi nó đồng thời cũng
đang thận trọng phục vụ cho các nhu cầu của chính nó.
Bằng việc nâng trị giá Nhân dân tệ, Trung Quốc tự ban cho nó
có thêm sức mua trên các thị trường tài nguyên thế giới.
Trong lãnh vực năng lượng, trị giá thấp của tiền tệ Trung
Quốc đặt nó ở thế bất lợi trong thị trường năng lượng thế
giới. Sự kiện này hầu như không phục vụ các mục tiêu của một
nước đang bị trói tay vì điện lực và xăng dầu cho xe hơi xe
tải. Trung Quốc thiếu điện kinh niên. Nhà nước thường bắt
các công ty hoặc các thành phố để đèn lờ mờ nhằm giúp các hạ
tầng cơ sở điện lực bắt kịp nhu cầu. Số lượng ô-tô của Trung
Quốc đang tăng cực nhanh. Tới năm 2025, ước lượng Trung Quốc
sẽ dùng khoảng 14 triệu thùng dầu mỗi ngày — gấp đôi con số
tiêu thụ hiện nay. Việc nâng tiền tệ Trung Quốc lên cao hơn
tỉ giá thấp một cách giả tạo, giúp cho người tiêu thụ năng
lượng tại Trung Quốc mua thêm điện và góp phần giữ cho lạm
phát xuống thấp.
Việc đánh giá lại tiền tệ ấy cũng là tin lớn cho các nước
châu Phi, châu Mỹ La-tinh, và châu Á, những nơi đang cung
cấp cho Trung Quốc nguyên liệu thô và được hưởng lợi khi
khách hàng Trung Quốc có thêm sức mua. Thế nhưng họ phải trả
giá cho sự thịnh vượng của mình. Khi Trung Quốc thiết lập
được các cơ sở sản xuất của nó thì nó cũng lấy mất công việc
sản xuất có phí tổn rẻ hơn của các nước đang phát triển và
các nước phi kỹ nghệ hóa trong khi các nước ấy đã và đang
phấn đấu suốt nhiều thập niên qua để đa dạng hóa nền kinh tế
của mình. Thí dụ, Indonesia nhận thấy rằng công nghệ làm
giày của nó từng có thời phát đạt nay hoàn toàn mất vào tay
Trung Quốc.
Vô địch trong các chế độ bất trị
Ảnh hưởng ngày càng tăng trên thế giới cả hai mặt chính trị
lẫn kinh tế làm phát sinh những vấn nạn khó khăn cho các
nước khác. Ngay cả Hoa Kỳ cũng là nước không chắc tìm được
một chiến lược quốc gia về phương sách đối phó với ảnh hưởng
chính trị ngày càng tăng của Trung Quốc vốn thường làm cho
Hoa Kỳ bực mình vì bị tổn thương ảnh hưởng.
Trung Quốc đang quyết chí lập quan hệ bền vững với với các
chế độ mà Hoa Kỳ cùng các cường quốc khác lâu nay muốn cô
lập. Các chế độ tàn bạo ở Myanmar (Miến Ðiện trước đây),
Sudan, Zimbabwe đều hưởng lợi nhờ sự ủng hộ của Bắc Kinh và
các lợi ích kinh doanh của Trung Quốc. Nhưng về lâu về dài,
những quan hệ ấy có thể chứng tỏ cho thế giới thấy là chúng
tiêu cực. Là nhà vô địch trong số các chế độ bất trị, Trung
Quốc có thể đóng vai trò mà các nước khác không thể đóng.
Thí dụ, nó là nước chủ nhà cho các cuộc đàm phán sáu quốc
gia hồi tháng Chín đưa tới kết quả Bắc Hàn hứa từ bỏ chương
trình vũ khí hạt nhân.
Nhân quyền
Tuy thế, suốt thời gian vừa qua, ý nguyện của Trung Quốc
trong việc làm dịu bớt các chế độ ít thơm tho của thế giới
có thể dùng để đánh giá thấp thành tích của ÐCSTQ trong việc
đi theo con đường riêng của nó về nhân quyền. Từ lâu, Trung
Quốc không muốn chấp nhận toàn bộ các tiêu chuẩn quốc tế về
nhân quyền - một lãnh vực mà các siêu cường khác có thể
tuyên bố là họ đang giữ vị trí cao hơn. Dân chủ, tự do ngôn
luận, tự do tôn giáo và sự cai trị của luật pháp, may mắn
lắm mới còn là những mục tiêu xa xăm tại Trung Quốc. Thay
vào đó, chính quyền hùng hổ tấn công nhằm dập tắt các cuộc
phản kháng, trong khi tìm cách nhấn mạnh các tiến bộ kinh tế
và sự ổn định xã hội của nhân dân như một tổng thể.
Trong năm 2005, theo tổ chức Quan sát Nhân quyền (Human
Rights Watch), Trung Quốc có hành động mạnh mẽ chống lại các
nhóm thiểu số tôn giáo, cấm hành đạo, xuất bản sách báo và
tập quán y phục của thiểu số theo đạo Hồi Uighur ở miền tây
tỉnh Tân Cương. Phật tử Tây Tạng tiếp tục chịu những qui
định nghiêm ngặt, cắt giảm những ngày lễ tôn giáo của công
chúng và cấm nhiều nghi thức truyền thống. Hồi tháng Bảy,
Bắc Kinh tuyên bố sẽ chỉ định vị Ðạt Lai Lạt Ma sắp tới. Tổ
chức Quan sát Nhân quyền cũng tường trình rằng một số nhóm
Tin lành và Pháp Luân công, một tổ chức tâm linh có nhiều
tín đồ bị bắt giam mà không được xét xử công bằng, bị tống
vào các trại lao cải hoặc bị giao cho các viện tâm thần. Vào
đầu năm 2005, Bộ Ngoại giao Mỹ cho công bố bản báo cáo năm
2004 của Bộ về nhân quyền tại Trung Quốc. Bản báo cáo ấy ghi
nhận rằng “chính quyền duy trì những nghiêm cấm chặt chẽ về
tự do ngôn luận và tự do báo chí, và đợt bắt giam vào cuối
năm đó là dấu hiệu cho thấy một chiến dịch mới nhắm vào các
nhà văn nổi tiếng và các nhà bình luận chính trị.”
Những bất định
Với sức mạnh liên tục của mình, Trung Quốc dàn trải sự bất
định trên cả hai lãnh vực chính trị lẫn kinh tế. Ðang có
những nghi ngờ rộng rãi rằng không biết sự tăng trưởng của
Trung Quốc có kéo dài không và không biết môi trường kinh
doanh của nó có đáng tin cậy không?
Một số quan tâm tập trung quanh tâm trạng của người dân
Trung Quốc, những kẻ dĩ nhiên phải chung chia sự bất định đó
hơn ai hết, và sẽ là những kẻ đầu tiên chịu đau khổ nếu trật
tự xã hội và kinh tế bị sụp đổ. Mặc dù di chuyển và gởi tiền
về cho gia đình, hàng trăm triệu người dân Trung Quốc nói
chung bị gạt ra ngoài phép lạ kinh tế, và tệ hơn nữa, cảm
thấy mình bị nó trừng phạt. Theo các thống kê của Liên hiệp
quốc, số người nghèo nhất chiếm 20% trong tổng số 1,3 tỉ dân
và chỉ chiếm 4,7% tổng số lợi tức, trong khi những người
những người giàu nhất cũng chiếm 20% tổng dân số lại chiếm
số lợi tức trên một nửa (> 50%).
Tại Trung Quốc, những cuộc phản kháng vẫn tiếp tục gia tăng,
thường xuyên hơn và nhiều người tham gia hơn. Vào tháng Bảy
năm 2005, Chu Dũng Cương, Bộ trưởng Công an của Trung Quốc,
được tường trình qua hãng Reuters rằng, có 74.000 “sự cố tập
thể” (biểu tình và nổi loạn) xảy ra trong năm 2004, tăng so
với 58.000 vụ năm 2003 và 10.000 vụ năm 1995. Những sự cố ấy
chủ yếu bị giới hạn tại địa phương; ÐCSTQ vẫn thừa sức mạnh
cưỡng bách và động viên cải thiện, giữ không cho những người
bất đồng chính kiến vượt quá ranh giới địa phương để liên
kết nhau và lớn mạnh thành phong trào.
Ðảng lập được thành tích về sự tăng trưởng kinh tế lạ
thường, thế nhưng sau những biện pháp hứa hẹn và trình diễn
mà chỉ có ý nghĩa kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc khỏi vùng đất mơ mộng của nó, kinh tế Trung Quốc
nửa đầu năm 2005 lại tăng trưởng tới hơn 9,4% so với nửa đầu
của năm 2004. Những đảo lộn xã hội và kinh tế thường là kết
quả của những nhân tố mà thế giới ít biết tới, và thật là
điên rồ khi tiên đoán có phần nào chắc chắn rằng Trung Quốc
sẽ không chịu một sự đảo lộn nghiêm trọng vào một thời điểm
sớm sủa nào đó. Kinh tế của xứ sở này có trên một tỉ “biến
số” với ý nguyện tự do ngày càng tăng, và gần như hết thảy
mọi người đều thấy cuộc đời mình bị phá vỡ một cách có ý
nghĩa vì sự thay đổi.
Quan hệ với các nước khác
Ngoại trừ những gì không biết ở bên trong Trung Quốc, một số
bất định về tương lai Trung Quốc có xuất xứ từ sự bất định
về cách mà các nước khác có thể hành động đối với Trung
Quốc, đặc biệt Hoa Kỳ. Thí dụ, trên mặt trận kinh tế, năm
2005 Quốc hội Hoa Kỳ đã tranh luận kịch liệt về thuế xuất
nhập khẩu và những nghiêm cấm trên hàng hóa của Trung Quốc,
ngăn không cho các công ty Trung Quốc thâm nhập vào các công
ti sáp nhập của Hoa Kỳ và chơi trò mua lại công ty, đồng
thời thảo luận về sự đáp trả mối đe dọa quân sự xuất phát từ
Trung Quốc trong tương lai.
Cũng thế, Nhật Bản hiện đối mặt với sự bất định ngày càng
tăng trong quan hệ của nó với Trung Quốc. Năm 2005, người
Trung Quốc bùng phát bạo động nhắm vào những lợi ích của
Nhật Bản tại Trung Quốc và duy trì những trao đổi ngoại giao
căng thẳng do việc Nhật Bản không chịu xin lỗi về những tàn
ác mà họ gây ra tại Trung Quốc trong thế kỷ vừa qua. Cả
Trung Quốc lẫn Nhật Bản đều tiếp cận vấn đề với sự thôi thúc
mãnh liệt của tinh thần dân tộc chủ nghĩa, và sự thù nghịch
của đôi bên dường như ngày càng tăng, không tránh khỏi.
Một đốm có thể coi như sáng là sự cải thiện quan hệ của
Trung Quốc với Ðài Loan, dù quan hệ này chẳng phải không có
vấn đề lớn. Năm 2005, cả hai xứ sở tiếp tục cùng nhau khiêu
vũ một cách tinh tế mà cho đến nay, giữ cho hòn đảo ấy được
độc lập trên một qui mô lớn. Về mặt tiêu cực, Trung Quốc vào
tháng Ba vừa qua, đã thông qua đạo luật cho phép dùng vũ lực
chống lại Ðài Loan nếu vùng đất đó chính thức tuyên bố độc
lập đối với lục địa. Nhưng đã có những dấu hiệu cho thấy cả
Trung Quốc lẫn Ðài Loan đều có thể đang muốn cân nhắc những
chuẩn bị mang tính cấu trúc để đem cả hai tới gần nhau hơn.
Bằng một đề xuất cảm động nhưng nặng tính tượng trưng, Trung
Quốc tuyên bố vào tháng Năm rằng cho phép du khách lục địa
được viếng thăm Ðài Loan.
Thức giấc nhìn thách đố
Trong hầu hết các cách mà Trung Quốc thách thức Hoa Kỳ và
thế giới, các chiến lược làm thế nào để bám trụ cạnh tranh
với Trung Quốc và làm thế nào để phồn vinh khi những phát
triển của nước mình sẽ thành công hơn nữa nếu không tùy
thuộc vào việc Trung Quốc đang cố ý gây ảnh hưởng lên các
lợi ích của thế giới. Ðúng hơn, những nước cạnh tranh với
Trung Quốc phải tìm ra giải pháp cho riêng mình. Thế giới,
và có lẽ đặc biệt Hoa Kỳ, làm hết sức để tránh lăng mạ xứ sở
đó. Ðằng sau những gì có tính kinh tế mà thế giới đang sợ
hãi Trung Quốc thì có điều gì đó ngưỡng mộ. Sự điều hành nền
kinh tế mạnh mẽ của xứ sở ấy đã đem hàng trăm triệu người
dân ra khỏi vực sâu đói nghèo hun hút. Nó đã bắt đầu tạo ra
một giai cấp trung lưu rộng lớn nhất. Và nó lúc này là nơi
tọa lạc của một số cơ sở sản xuất tốt nhất, so với bất cứ
nơi nào.
Một số người phản đối cái nhìn ấy và vạch ra rằng Trung Quốc
vẫn là một nước cộng sản bị điều hành bởi giới tinh hoa chỉ
chăm lo cho quyền lực của mình hơn là chăm lo cho người dân
Trung Quốc. Ðiều ấy chẳng cần phải chối cãi. Tuy nhiên, chú
mục vào tính tiêu cực thì rất ít để ý tới sự tiến bộ gây
kinh ngạc của Trung Quốc và không đưa ra được chiến lược tốt
nhất để ứng xử với nó. Bằng việc xem Trung Quốc như quỉ dữ
thì phần còn lại của thế giới sẽ ít hưởng lợi. Chúng ta hẳn
sẽ tiến hành tốt hơn trong việc nghiên cứu, và có thể miễn
cưỡng ngưỡng mộ những sức mạnh đang càng ngày càng tăng của
xứ sở ấy - và dĩ nhiên, nhân dân năng động của nó. Nói cách
khác, bằng nhiều cách không chỉ Trung Quốc cần nhận ra, mà
phần còn lại của chúng ta cũng cần nhận ra.
Có thể đọc thêm:
* Peter Hays Gries, China’s New Nationalism: Pride,
Politics, and Diplomacy (Tân dân tộc chủ nghĩa của Trung
Quốc: lòng tự hào, sinh hoạt chính trị và ngoại giao),
University of California Press, 2004.
* Kellee S. Tsai, Back-Alley Banking: Private
Entrepreneurs in China (Giao dịch ngân hàng cửa hậu: các
doanh gia tư nhân ở Trung Quốc), Cornell University Press,
2002.
* Rachel DeWoskin, Foreign Babes in Bejing: Behind the
Scenes of the New China (Những người ngoại quốc thơ dại ở
Bắc Kinh: hậu trường của Trung Quốc mới), W.W. Norton and
Co., 2005.
Ted C. Fishman xuất thân là một doanh nhân. Ông là tác giả
nhiều cuốn sách viết về Trung Quốc, trong đó có sách bán rất
chạy, nhan đề China, Inc.: How the Rise of the Next
Superpower Challenges America and the World (Liên hiệp công
ty Trung Quốc: Sự trỗi dậy của một siêu cường sắp tới thách
thức Mỹ và thế giới như thế nào) 2005. Các bài viết của ông
xuất hiện trên The New York Times Magazine, The Times of
London, USA Today, và nhiều sách báo khác.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|