30.04,
nhắc lại chuyện cũ:
Đức chính hay Đức trị?
Mới đây, Dương Thu Hương xuất bản một cuốn sách nói về Hồ Chí Minh
(HCM), nhan đề là “Đỉnh Cao Chói Lọi”. Nói chuyện này với vài người
bạn được coi là “tích cực chống Cộng”, có người nói đùa: “Chói lọi cái
gì, chói mắt thì có.” Có người bạn lại đùa thêm: “Không những chói mắt
mà còn chói tai. Nói nghe không được.”
Tôi nghĩ khác một chút, diễn đạt theo một cách khác. Ấy là, Hồ Chí
Minh là người thông minh, có thể cực kỳ thông minh. Cái thông minh của
một người thiếu đức, thiếu lòng nhân nên trở thành cái đại ác.
Khen chê HCM, người ta bàn bạc quá nhiều, sau khi biết những “thâm
cung bí sử đời nhà hậu Hồ.”
Chuyện Nông Thị Xuân chẳng hạn, người ta trách: “Sao mà ác thế! Giết,
mà giết một cách tàn ác, - người từng chung chăn chung gối với mình.
Tán tận tận lương tâm lắm mới làm được một việc như thế.”
Trước hết, nên xem thử HCM có thật yêu Nông Thị Xuân hay không?
Nếu yêu, ông ta phải bảo vệ người ông ta yêu chứ! Đó là tâm lý thường
tình.
Trong “Đêm Giữa Ban Ngày”, Vũ Thư Hiên cho biết rằng ông Hồ Chí Minh
phải tự tay giữ chìa khóa phòng giam ông Ngô Đình Diệm. Tới giờ ăn,
ông Vũ Đình Huỳnh lên văn phòng ông Hồ để lấy chìa khóa mở phòng giam
đem cơm vào. Ông HCM tự thân giữ chìa khóa vì sợ “các chú” làm bậy,
manh động.
Đây là câu chuyện ông Vũ Đình Huỳnh (cha) kể lại cho ông Vũ Thư Hiên
(con) nghe. Vì vậy, tôi không nghĩ đây là chuyện khoa trương, nói bậy.
Sai lạc? Có thể phần nào đó, nhưng có lẽ câu chuyện ấy là thực.
Như vậy, ông HCM sợ em út làm bậy nên đề phòng. Thế tại sao ông Hồ lại
không nghi ngờ em út ông có thể làm bậy với Nông Thị Xuân. Nếu ông ta
yêu Nông Thị Xuân thực sự, nhất là khi bà Xuân đã có hai con với ông
Hồ nữa, thì sự đề phòng ấy phải nhiều hơn, chặt chẽ hơn, cẩn thận hơn
mới phải chứ. Hay đây là một sự “sơ hở” có dụng ý? Nếu có dụng ý thì
cái dụng ý này ác lắm!
Thật ra, ông HCM ăn nằm với Nông thị Xuân đâu phải ông ta yêu Nông Thị
Xuân hay muốn lấy Nông Thị Xuân làm vợ. Nếu muốn làm vợ thì ít nhiều
ông phải bảo vệ người đàn bà này.
Ăn nằm với một người đàn bà, không nghĩ tới việc lấy người đàn bà ấy
làm vợ, không nghĩ tới chuyện ăn ở lâu dài với nhau thì việc đó có ý
nghĩa gì?
Ấy là chơi bời! Thay vì vào nhà thổ chơi bời, sợ mang tiếng thì bộ
chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam kiếm một cô sexy đem vào cái gọi là
“Phủ chủ tịch” cho “bác giải quyết sinh lý”. Rõ ràng đó là chuyện
chơi bời. Cách đây hơn mười năm, khi tìm hiểu việc quan hệ giữa Nông
Thị Xuân và HCM, tôi đã gọi là “Bác Hồ chơi bời.” Bài tôi viết nhan đề
là “Bác Hồ chơi bời.”
Bây giờ đem chuyện chơi bời của “bác” đổ lên đầu Lê Duẫn, Lê Đức Thọ.
Đấy, HCM làm mà Duẫn - Thọ gánh tội. Điều đó chứng tỏ cái “cực kỳ
thông minh” của HCM. Cái chói lọi của Hồ Chí Minh là do tự tay ông ta
làm ra mà người khác chịu tôi. Dù có đưa ra tòa xét xem tội về ai thì
Duẫn và Thọ đang bị cùm dưới âm phủ, phản ứng thế nào được, chạy tội
thế nào được, mặc cho ai múa bút như thế nào thì múa.
Nhưng việc này của HCM chỉ giết một người, chỉ một mình Nông Thị Xuân,
- chưa kể cô Vàng, bà con chị em với cô Xuân.
HCM làm những điều ác hơn, giết hàng vạn người mà không gánh tội gì
cả. Ấy là cái ác cực kỳ thông minh của Hồ, là “đỉnh cao chói lọi” của
Hồ.
Câu chuyện như thế này:
Ngay sau khi Việt Minh cướp chính quyền, với danh nghĩa chống Pháp
giành độc lập, ngoại trừ một số đảng phái và chính trị gia biết rõ bản
chất của Cộng Sản, phần đông người Việt Nam theo Việt Minh.
Khi công cuộc toàn dân kháng chiến nổ ra, dân chúng ở thôn quê cũng
như thành thị đều ủng hộ kháng chiến: Người đi bộ đội, người làm du
kích. Với tinh thần đó, nhiều đơn vị bộ đội được thành lập, với nhiều
thành phần tham gia. Những ai có học, có khả năng thì giữ nhiệm vụ chỉ
huy, các thành phần khác, trình độ kém thua thì làm lính, gọi chung là
chiến sĩ.
Trong viễn tượng đó, nhiều đơn vị quân đội hình thành một cách nhanh
chóng. Ở Hà Nội, ai cũng biết danh tiếng của Trung Đoàn Thủ Đô gồm
những thanh niên Hà Nội tham gia bộ đội đánh Pháp ngay trong lòng thủ
đô, ở miền Nam có những đơn vị nổi tiếng như Đệ Tam Sư Đoàn của ông
Nguyễn Hòa Hiệp, Bình Xuyên của Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), bộ đội Năm
Lửa, Ba Cụt của Hòa Hảo, v.v… Các bộ phận tôn giáo khác, như Cao Đài,
Thiên Chúa Giáo cũng có những đơn vị bộ đội chống Pháp. Theo lời ông
Mỹ Tín - trước 1975 là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ
Sài Gòn kể lại, thời kỳ Nam Bộ Kháng Chiến, ông tham gia một đơn vị bộ
đội kháng chiến của Thiên Chúa Giáo. Ông bị thương ở Bình Chánh khi
đơn vị ông bị đánh tập hậu vì bị bán đứng cho thực dân Pháp (Có xác
thực không? PS).
Các tỉnh đều có đơn vị bộ đội ở tỉnh, chẳng hạn ở Quảng Ngãi có trung
đoàn Lê Trung Đình, ở Huế - Thừa Thiên có trung đoàn 101, ở Quảng Trị
có trung đoàn 95. Hai trung đoàn vừa nói này, nổi tiếng thắng Pháp
nhiều trận lớn dọc theo Quốc Lộ 1 hay trên quốc lộ số 9, đường sang
Lào.
Phần đông, chỉ huy các đơn vị bộ đội Việt Minh này là thành phần tư
sản, tiểu tư sản, địa chủ, trung nông, các sĩ quan, hạ sĩ quan trong
quân đội Pháp cũ như Khố Xanh, Khố Đỏ, v.v… Họ là những người có học
và có khả năng chỉ huy.
Cuộc kháng chiến nổ ra từ đêm 19 tháng 12 năm 1946 kéo dài đến năm
1949, năm Mao Trạch Đông “giải phóng” lục địa Trung Hoa.
Trước khi Mao chiếm Hoa Nam của Tưởng Giới Thạch, một vài đơn vị bộ
đội Việt Minh đã vượt biên giới Hoa Việt, chiếm Thập Vạn Đại Sơn ở
Hoa Nam, chận con đường rút lui của quân Tàu Tưởng, không cho tràn
xuống vùng thượng du Bắc Việt. Do đó, một số quân Tàu Tưởng thất trận
phải rút về Vân
Nam,
sau qua vùng ba biên giới Lào - Hoa - Miến (sau này gọi là khu Tam
Giác Vàng), không rút vào vùng Bắc Việt
Nam
được (1).
Những người theo kháng chiến những hy vọng rằng sau khi “giải phóng”
Hoa Nam, chiếm toàn bộ lục địa Trung Hoa, Mao Trạch Đông sẽ viện trợ
Việt Minh chống Pháp, đẩy cuộc kháng chiến mau tới thắng lợi hoàn
toàn.
Trong thực tế, sau khi chiếm đóng toàn bộ Trung Hoa lục địa, Mao Trạch
Đông đã tái trang bị và huấn luyện cho một vài đơn vị Việt Minh vượt
biên giới sang Hoa Nam. Chính nhờ sự giúp đỡ này, Việt Minh, năm1950,
đã thắng một trận lớn, gọi là trận Cao Bắc Lạng, hay còn gọi là trận
đường số 4. Hai đại tá Pháp chỉ huy trận đánh này là Le Page và
Charton bị bắt làm tù binh. Đặng Văn Việt, người chỉ huy bộ đội Việt
Minh đường số 4, được báo chí Pháp gọi là Con Hùm Xám.
Sau chiến thắng vang dội đó, những người theo Việt Minh, những người ở
vùng Việt Minh, những người từ các thành phố bị Pháp chiếm đóng tản cư
ra, hết sức mừng rỡ, hy vọng, với sự viện trợ của “đàn anh Trung Quốc”
bộ đội Việt Minh sẽ chiến thắng Pháp mau lẹ. Lúc ấy, chính Hồ Chí Minh
cũng ra lệnh “Chuẩn bị Tổng Phản Công.”
Nghe lệnh ấy, ai ai cũng nô nức hoan nghênh. Nhưng rồi không có gi
hết. Tại sao?
Tại vì Mao Trạch Đông chỉ giúp cho Việt Minh chừng đó, bởi vì khi ấy,
Nga Hoa bắt đầu có sự rạn nứt, bởi vì Mao không hoàn toàn tin tưởng Hồ
Chí Minh, v.v… với nhiều lý do khác không kém quan trọng. Tuy nhiên,
lý do quan trọng nhứt vẫn là Hồ Chí Minh được đào tạo ở Liên Xô, là
tay sai của Liên Xô, nằm trong Đệ Tam Quốc Tế.
Bấy giờ dân chúng trong vùng Việt Minh, trong các đơn vị quân đội hành
chánh thắc mắc, tại sao chưa tổng phản công. Phản ứng mạnh đến nỗi Hồ
Chí Minh phải triệu tập đại biểu các nơi về Việt Bắc, phân tích, giải
thích, trấn an. “Bác nói chuẩn bị tổng phản công chứ bác không nói
tổng phản công. Chuẩn bị chỉ mới là sự chuyển vận lúc ban đầu để tổng
phản công.” Có người cho là Hồ Chí Minh giải thích đúng, tự cho mình
là “lạc quan tếu” (danh từ dùng hồi ấy) và cũng không ít người cho
rằng Hồ Chí Minh ngụy biện.
Hậu quả của sự “lạc quan tếu” ấy rất trầm trọng. Không ít người chán
nản, tuyệt vọng. Kháng chiến đã 5 năm rồi mà chưa “tổng phản công” thì
đến bao giờ mới đuổi được giặc Pháp, mới về lại nhà cũ, mới ổn định
lại cuộc sống, nhứt là đời sống nơi vùng tản cư quá nhiều gian khổ,
thiếu ăn, ốm đói và rách nát…
Thế là ùn ùn, người ta bỏ kháng chiến về thành. Trong khoảng các năm
1951, 52, 53… số người tản cư kéo nhau về lại Hà Nội, Sài Gòn, Huế và
các thành phố… rất đông. Những người nổi tiếng như nhạc sĩ Phạm Duy và
gia đình, Đoàn Chuẩn, Hoàng Trọng ở Bắc, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Nguyên,
Nguyễn Hữu Thiết - Ngọc Cẩm ở Trung v.v… rời chiến khu trong thời kỳ
này. Văn Cao đã tính về. Ông cùng vợ mở một quán cà phê gần trên con
đường về Hà Nội, nhưng vì ông là tác giả bản Tiến Quân Ca, nếu ông ta
về thì Việt Minh sẽ kẹt lớn, nên ông được lệnh phải quay ngược lên
chiến khu Việt Bắc. Việt Minh đoán biết ý đồ của ông và kềm chân ông
ta lại.
Như thế thì lực lượng Việt Minh tan rã hay sao?
Cách đối phó của Hồ Chí Minh chứng tỏ ông là người khôn ngoan và nhiều
kinh nghiệm.
Ngay từ đầu, khi chính quyền chưa vững chắc, HCM đã có những phương
cách lôi kéo, kêu gọi hợp tác với các phần tử không Cộng Sản. Đó là
việc hình thành Chính phủ Liên hiệp, đảng Xã Hội, đảng Dân Chủ và “Mặt
Trận Liên Việt”
Đồng thời, trong 4 năm kháng chiến (1946-1950), HCM đã đào tạo được
một số cán bộ gốc vô sản để lần lượt đưa ra nắm giữ các chức vụ hành
chánh, quân sự, chuẩn bị thay thế các thành phần tư sản, tiểu tư sản,
trung nông, v.v… Dù những người này có “dinh tê về thành theo Tây” hay
không, dù họ có công trạng như thế nào trong 4 năm kháng chiến chống
Pháp, khi HCM đào tạo được một số cán bộ mới gốc vô sản để nắm quyền
thì thành phần này sẽ bị loại trừ, ngồi không, vô thực quyền.
Đừng cho rằng, giai cấp vô sản học hành ít, khả năng thiếu, sẽ không
nắm vai trò lãnh đạo được. Thế những người đóng góp cho Cộng Sản rất
lớn, rất nhiều như Trần Quốc Hoàn, Chu Văn Tấn, Phùng Chí Kiên, Phùng
Thế Tài thuộc thành phần gì? Đọc Vũ Thư Hiên, người ta biết Chu Văn
Tấn gốc là lính Dỏng, Trần Quốc Hoàn gốc là một tên du thủ du thực,
Phùng Thế Tài lưu lạc sang Vân Nam, là một trong những tay du côn nổi
tiếng ở bên đó…
Cũng nhiều người cho rằng – như Phạm Duy chẳng hạn – đã theo kháng
chiến là có công với kháng chiến. Quan điểm đó hết sức sai lầm. Đã
từng theo kháng chiến, rồi bỏ kháng chiến về thành chính là tự mình đã
xóa bỏ công lao kháng chiến của mình, còn mơ hồ rằng mình có công là
điều lố bịch. Đã hiểu kháng chiến, đã theo kháng chiến, rồi quay lưng
lại với kháng chiến, đối với Cộng Sản tội ấy còn to hơn tội những
người không biết, không theo. Những đảng viên phản đảng bao giờ tội
cũng lớn hơn người không vô đảng mà chống Cộng.
HCM hiểu rất rõ bản chất con người là quyền lợi. Trong những năm kháng
chiến chống Pháp, hy sinh nhiều nhất, thương tật, chết chóc và liều
mình cho “cách mạng” nhiều nhất vẫn là giai cấp vô sản.
Sự hy sinh đó của giai cấp vô sản phải được đền bù, khen thưởng, cho
chác. Đó là động cơ chính, là nguyên nhân sâu sắc nhứt của “Cải Cách
Ruộng Đất” của Hồ Chí Minh.
Không phải do áp lực của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh phát động Cải Cái
Ruộng Đất. Đó chỉ là cách đổ tội cho chú Ba. Không phải Mao Trạch Đông
mới tàn ác còn HCM thì nhân đạo hơn. Trong hai tay lãnh tụ Cộng Sản
này, tàn ác và thủ đoạn, chưa hẵn ai đã hơn ai.
Vậy rồi địa chủ bị đấu tố, bị giết, nhà cửa ruộng vườn, tài sản, thậm
chí cả cái nồi, cái ấm, cai chổi cũng bị tịch thu. Bọn vô sản, dưới sự
lãnh đạo của cán bộ Cộng Sản, đấu tố, giết người và chia nhau tài sản
của địa chủ. Đó là một sự đền bù, đãi ngộ của chính quyền Công Sản mà
chính quyền không những không tốn kém gì cả mà còn được lợi.
Giai cấp vô sản nay được thêm quyền lợi do tịch thu tài sản của địa
chủ để chia cho nhau, kẻ được bộ phản gỗ, cái giường, chiếc chiếu,
người thêm cái nồi, cái chổi thì phải nhớ ơn cách mạng và hy sinh cho
cách mạng nhiều hơn.
Xin cứ đọc “Ba Người Khác” của Tô Hoài thì rõ.
Hơn ba trăm ngàn người giết trong Cải Cách Ruộng Đất. Ngày nay, nhắc
tới, người miền Bắc chưa hết kinh sợ.
Tội ác ấy, sự tàn ác ấy của HCM là lớn lắm. Đó là một công việc vừa
giết người, vừa gây chia rẽ dân tộc. Cái ác ấy là một trong những cái
ác lớn nhứt trong cuộc đời làm chính trị, thời gian cầm chính quyền
của HCM mà trong lịch sử nước ta xưa nay chưa từng có.
Con người ta ai cũng có cái tốt và cái xấu. HCM cũng vậy chăng? Khi
đến thăm một hợp tác xã, HCM bảo chủ nhiệm hợp tác xã không nên bắt
phụ nữ lội xuống ruộng sâu khi họ có kinh nguyệt. Như thế, HCM thật
tinh tế và nhân đạo?
Khi đến thăm nhà một thứ trưởng quen vào dịp tết, trên bàn thờ đang
thắp đèn cúng ông bà, thay vì ngồi vào một trong 4 cái ghế đặt quanh
cái bàn chữ nhựt trước bàn thờ, HCM tế nhị kéo ghế qua bên phía vách
mới ngồi xuống đó, tránh ngồi ngay trước bàn thờ ông bà.
Tết, HCM khuyên kích dân chúng nên trồng cây hơn là bẻ cây hái lộc.
Tuy nhiên, với HCM, tốt hay xấu chỉ là thủ đoạn. Tất cả đối với HCM
chỉ là thủ đoạn mà quyền lợi của đảng Cộng Sản là trên hết.
Người trị dân phải để cái đức cho dân. Vua cai trị có đức thì trời cho
mưa thuận gió hòa, bốn phương phẳng lặng, không có giặc cướp, không có
chiến tranh. Người cai trị thất đức thì thiên tai địch họa xảy ra
nhiều, dân chúng lầm than khổ cực.
HCM là người cai trị không có đức, không có lòng nhân đạo, điều mà
người xưa rất coi trọng ở một vị vua. Đó là “Đức Trị” hay còn gọi là
“Đức Chính”.
Cai trị thì thủ đoạn, tốt xấu chỉ là thủ đoạn. Ai không theo thì đàn
áp, giết chóc bỏ tù. Dùng võ lực mà cai trị dân chúng, Cộng Sản gọi là
“Bạo Lực Cách Mạng”, xưa gọi là Nhân Trị, tức lấy người trị người. Đó
là việc người xưa phê phán nặng nề, là điều Cao Bá Quát nói ra nhưng
không ai bắt tội ông ta được: “Trời nắng chang chang người trói
người.”
hoàng long hải
(1) Để đối lại câu: “Nước trong leo lẻo cá đớp cá.”
(Kỳ tới: So sánh cách cai trị của HCM với Bảo Dại, Ngô Đình Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu)
(1) Trong một thiên hồi ký nào đó, tôi không nhớ rõ, một cấp chỉ huy
Cộng Sản trong đơn vị qua Thập Vạn Đại Sơn, kể rằng, giáo sư Phó Bá
Long, năm 1945, bỏ sinh viên trường Dược Hà Nội để tham gia bộ đội
Việt Minh. Giáo sư Phó Bá Long lúc ấy, giữ nhiệm vụ quân y của đơn
vị này. Tôi có hỏi chuyện này với giáo sư Phó Bá Long trong lần đầu
tiên ông về VN sau 1975, ông cũng xác nhận điều đó.