Di
sản Văn hóa dân tộc bị ngoại nhân tàn phá,
và chiếm đoạt
Lịch sử và
Công lý của
Chùa Báo Thiên,
Nhà Thờ Lớn Hà Nội,
và
Tòa Khâm Sứ
Linh mục Thiện Cẩm (Vietcatholic):
"Nếu như lịch sử chứng minh được rằng đất Nhà Chung Hà Nội, bao gồm
cả Nhà Thờ Lớn, Tòa Tổng giám mục hiện nay và Tòa Khâm sứ đang tranh
chấp, là đất Chùa Báo Thiên và đã bị Tây chiếm đoạt đem cho các cố
Tây, và từ đó thuộc quyền sở hữu của Nhà Chung Hà Nội, thì tôi tin
rằng Giáo hội Công Giáo chúng ta sẽ chẳng ngần ngại gì mà không trả
lại cho Phật giáo, cũng như Đức Tổng giám mục Duval đã trả lại ngôi
nhà thờ Chánh Tòa Alger cho Hồi giáo, sau khi Algérie được độc lập,
vì lý do ngôi nhà đó vốn là một đền thờ Hồi giáo".
Tiến sĩ
Lý Khôi Việt:
"Những
người Việt nào chối bỏ công lý lịch sử của dân tộc Việt Nam thì chưa
đủ tư cách công dân để bàn luận về tự do dân chủ của nhân dân Việt
Nam, và lại càng không xứng đáng để lãnh đạo đất nước Việt Nam".
Bệ đá
cắm nến là miệng giếng Báo Thiên. (Bấm vào hình tham khảo chứng liệu.) |
LỊCH SỬ CỦA CHÙA BÁO THIÊN, NHÀ THỜ LỚN HÀ NỘI VÀ TÒA KHÂM SỨ.
Trung Hoa là một nước lớn, với rất nhiều công trình vĩ đại, như Vạn
Lý Trường Thành, dài 5.000 cây số, như Tử Cấm Thành có 9.999 phòng,
nên người Hoa thấy nước Việt ta chỉ là một nước nhỏ và không có cái
gì vĩ đại để ca ngợi. Thế nhưng từ ngàn năm trước Trung Hoa đã nói
đến An Nam Tứ Đại Khí, đó là bốn công trình Phật giáo tại Việt Nam,
mà công trình lớn nhất, vĩ đại nhất là tháp Báo Thiên, được xây năm
1057 dưới đời Lý Thánh Tông, trên bờ hồ Lục Thủy ở về phía Đông Nam
kinh thành Thăng Long, mà hiện nay là nhà thờ lớn Hà Nội và tòa Khâm
Sứ.
Tháp này vốn là tháp "Đại Thắng Tử Thiên Bảo Tháp" của chùa Sùng
Khánh Báo Thiên, sau nhân gian quen gọi tắt là tháp Báo Thiên. Cả
chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên đều vào loại cực lớn, riêng tháp
Báo Thiên là một công trình nghệ thuật kỳ vĩ. Tháp cao vài chục
trượng (80 mét) gồm 12 tầng, trong tháp trang trí nhiều tượng bằng
đá rất tinh xảo. Tháp đã cao lại xây trên một gò đất nên càng thêm
cao. Từ xa mấy chục cây số, người ta đã thấy đỉnh tháp Báo Thiên cao
vút mây trời. Tháp hùng tráng, vĩ đại như vậy nên chùa Báo Thiên
đương nhiên cũng nguy nga, tráng lệ. Có thể nói tháp và chùa Báo
Thiên là di sản văn hóa tối thượng của quốc gia Đại Việt ta. Nhân
gian có một câu hát ca ngợi tháp Báo Thiên: "Mênh mong biển lúa
xanh rờn. Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau. Một vùng phong cảnh
trước sau. Bức tranh thiên cổ, đựơm màu giang sơn". Nhà thơ Pham
Sư Mạnh đời Trần cũng ca ngợi tháp Báo Thiên: "Trấn áp đông tây
cũng đế kỳ. Khung nhiên nhất tháp độc nguy nguy". Sơn hà bất động
kinh thiên bút. Kim cổ nam ma lập địa chùy. Phong bãi chung linh
thời ứng đáp. Tinh di đăng chúc dạ quang huy. Ngã lai dục tủy đề thi
bút. Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì. (Trấn áp đông tây, giữ đế
kỳ. Một mình cao ngất tháp uy nghi. Chống trời cột trụ non sông
vững. Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy. Chuông khánh gió đưa vang
đối đáp. Đèn sao đêm đến rực quang huy. Đến đây những muốn lưu danh
tính. Mài mực sông xuân viết ngẫu thi, (dịch bởi Vô Ngã Phạm
Khắc Hoài, trong Thơ Văn Lý Trần, trích từ Nguyễn An Tiêm, Hà Nội:
Từ Chùa Báo Thiên Tới Nhà Thờ Lớn, tạp chí Khởi Hành, số 122, tháng
12.2006, thuvienhoasen.org). Tháp và chùa Báo Thiên quả thật là một
quốc bảo linh thiêng và tuyệt đẹp của nước Đại Việt ta.
Thế nhưng năm 1883, thực dân Pháp và giám mục Pháp Puginier, qua
những quan chức Việt Nam tay sai, mà đứng đầu là một giáo dân Thiên
chúa giáo, là tổng đốc Nguyễn Hữu Độ, đã cưỡng chiếm và phá huỷ chùa
Báo Thiên để xây nhà thờ Joseph mà nay gọi là nhà thờ Lớn Hà Nội.
Trong khuôn viên của chùa Báo Thiên cũng có xây thêm tòa Khâm sứ,
tức trụ sở của vị khâm sứ đại diên cho quốc gia Vatican (Riêng tháp
Báo Thiên nguyên thủy thì đã bị giặc Tàu phá hủy khi chúng sang xâm
chiếm nước ta vào năm 1426). Sách Từ Điển Đường Phố Hà Nội của Đại
Học Hà Nội xuất bản viết rõ: "Nền nhà thờ hiện nay nguyên là nền
đất chùa Báo Thiên rất nổi tiếng, ở đây còn có một tháp gọi là tháp
Báo Thiên".
Công sứ Pháp thời đó là Bonnal đã tường thuật sự cướp đoạt chùa Báo
Thiên, một đệ nhất quốc tự đời Lý Trần, một đệ nhất danh lam của
Hà Nội, như sau: "San bằng cái chùa và tịch thu miếng đất thật
không có gì dễ bằng trong thời chiếm đóng..., tuy nhiên công bình mà
nói, tôi cảm thấy ít nhiều ái ngại khi phạm một sự lạm quyền kiểu
đó, nên thấy nên nhờ ông tổng đốc Nguyễn Hữu Độ. Ông rất tâm đầu ý
hợp với giám mục (Puginier) và muốn làm vừa lòng ngài cũng như tôi
vậy". (André Masson, The Transformation of Hanoi 1873-1888,
Madison, 1983, trích từ Vụ "tòa khâm": Lương Tâm Cầu Nguyện? trong
phattuvietnam.net và giaodiemonline.com). France Mangin, trong bài
viết về Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp với các di tích lịch sử Thăng
Long viết rằng : "nhờ sự giúp đỡ của tổng đốc Nguyễn Hữu Độ mà
những trở ngại trong việc phá dỡ ngôi chùa Báo Thiên đã được giải
quyết nhanh chóng... Tiếp đó lô đất (chùa Báo Thiên) đã được cho
không Đoàn Truyền Giáo, và (công sứ) Bonnal đã hài lòng giao cho vị
giám mục (Puginier) giấy tờ chính thức xác nhận quyền sở hữu lô đất"
(chùa Báo Thiên). Giám mục Puginier mở cuộc xổ số lấy tiền xây ngôi
nhà thờ trên nền chùa Báo Thiên và hoàn thành ngôi nhà thờ năm 1886:
đó là Nhà Thờ Lớn hiện nay tại Hà Nội. Nhà Thờ Lớn Hà Nội được khánh
thành ngày 24.12.1886 (Nguyễn An Tiêm, đã trích dẫn ở trên).
Vâng lịnh quan thầy Pháp, Việt gian Nguyễn Hữu Độ đã dùng phù phép
ma giáo sau đây để ăn cướp lô đất rộng lớn, ở vị trị tuyệt đẹp, mà
giám mục Puginier đang thèn muốn : "Thoạt tiên, ông cho điều
nghiên xem có ai là hậu duệ của người sáng lập ra chùa, đã chết từ
hai thế kỷ trước, và lẽ dĩ nhiên, không tìm ra ai. Thứ đến, ông chỉ
thị cho các công dân lãnh đạo trong phường, được chọn lựa có vẻ như
là do sự may rủi giữa các người Công giáo, đến thẩm lượng mức kiên
cố của ngôi chùa, họ không ngần xác quyết rằng ngôi chùa đã mục nát
có thể sập gây nguy hiểm cho người qua lại. Bây giờ mọi chuyện đã
đâu vào đấy, san bằng ngôi chùa và tịch thu miếng đất (André
Masson, The Transformation of Hà Nội, 1873-1888, Madison,WI: Center
for Southeast Asian Studies, University of Wisconsin-Madison, 1983,
t 51, NQT, trích từ Trương Công Khanh, Những Bài Học Ứng Xử Cần
Thiết, Talawas).
Ở đây, tác giả André Masson có sự lầm lẫn nhỏ là người sáng lập ra
ngôi chùa vào năm 1057 là vua Lý Thánh Tông, đã chết từ tám thế kỷ
trước, chứ không phải từ hai thế kỷ trước. Tất cả tài sản của nhà
Phật, từ chùa, tháp, chuông trống, tượng vv... đều được gọi là tài
sản tam bảo, không ai có thể đem cho, mua bán, trao đổi, đặc biệt là
những ngôi chùa do vua lập ra đều là những quốc tự, tức là những
ngôi chùa các quốc gia, hay nói theo danh từ ngày nay, là những di
sản tâm linh và văn hóa của quốc gia, không thể nào bị cướp đoạt,
đập phá và đem giao cho một tôn giáo khác. Còn những ngôi chùa khác,
do tăng, ni hay Phật tử lập ra thì đó không phải là tài sản riêng
của các cá nhân đó, mà là tài sản chung vừa là của Phật giáo, vừa là
của cộng đồng dân cư tại nơi tọa lạc của ngôi chùa, như một ngôi
chùa tọa lạc trong một làng thì đó là công sản của ngôi làng đó,
không ai có thể mua bán, hay cướp đoạt. Nên nhân gian có câu: "Đất
vua, chùa làng, phong cảnh Bụt". Trong lịch sử gần 2.000 năm
của Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ có trường hợp một ngôi chùa bị
tuyên bố vô chủ, rồi bị phá hủy và đem giao cho một tôn giáo khác.
Việc này chỉ xẩy ra trong thời đất nước bị xâm lăng, chiến đóng bởi
thực dân Pháp.
Nhưng ngôi chùa Báo Thiên vào năm 1883 có thật sự là vô chủ và mục
nát như đánh giá của những người muốn ăn cướp lô đất của chùa hay
không? "Sách Đại Nam Thông Nhất Chí thời Nguyễn cho biết trong
Thăng Long Bát Cảnh còn ghi tám bài thơ vịnh cảnh Thăng Long, trong
dó có một bài thơ của một người Thanh sang nước ta, cảm tác khi nghe
tiếng chuông của chùa Báo Thiên "Báo Thiên hiểu chung (Chuông sớm
chùa Báo Thiên). Và vào lúc đó còn có tên gọi phố Báo Thiên, bán vải
thâm và dù xanh. Hơn nữa vào thời vua Tự Đức, Tổng đốc Tôn Thất Bật
cũng đã có sửa sang lại chùa. Theo tác giả Nguyễn Đại Đồng, vào
triều Thiệu Trị thứ 7 (1847) Hòa thượng Phúc Điền (1784-1863) về trụ
trì chùa Báo Thiên. Trong Kế đăng lục in năm Tự Đức thứ 12 (1857)
viết: "Lúc đó tại chùa Báo Thiên đang khắc ván bộ Phật Tổ thống kỷ
của Trung Quốc. Sau khi Hòa thượng Phúc Điền qua đời, chùa Báo Thiên
vẫn còn lại cho đến ngày thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội lần 2 năm
1882” (theo tạp chí Văn Hóa Phật giáo, Trương Công Khanh, bài đã
dẫn).
Chùa Báo Thiên được trùng tu bởi vị Tổng đốc của Hà Nội và là nơi
khắc những bản kinh, sách Phật giáo thì đó là những bằng chứng cho
thấy tầm vóc quy mô của ngôi chùa, không những về kích thước, mà còn
về các Phật sự, trước khi bị thực dân và cố đạo Tây Puginier cướp
đoạt. Những tội ác xúc phạm nặng nề những gì linh thiêng nhất của
người Việt Nam, mà thực dân Pháp cũng chùng tay không dám làm, thì
các cố đạo thực dân và những kẻ Việt gian tay sai, với tình thần tôn
giáo cuồng tín, đã thực hiện, không phải với lòng hổ thẹn, mà với sự
hãnh diện. Trong một lá thư viết trước khi chết gởi toàn quyền và
khâm sứ Pháp, Việt gian Nguyễn Hữu Độ, kẻ đã trực tiếp giúp giám mục
Puginier ăn cướp và phá hủy chùa Báo Thiên, đã trân tráo tri ân
thực dân Pháp: "Chính phủ Pháp vĩ đại đã không lìa bỏ chúng
tôi... và tôi đã được ân trạch giao tiếp với những viên chức cao cấp
để giải quyết các vấn đề quốc gia. Nếu nước tôi có được như ngày nay
đó là nhờ lòng nhân đức của chính phủ Pháp... Than ôi, tôi không thể
nào bày tỏ tất cả lòng tri ân nồng nhiệt và chân thành của tôi đối
với chính phủ Pháp" (Thế Kỷ 21, số 172, tháng 8-2003, trích từ
Vụ "tòa khâm" như trên, phattuvietnam.net).
Như vậy, một sự thật lịch sử được khẳng định là Phật Giáo Việt Nam
là chủ nhân liên tục của chùa Báo Thiên, và tháp Báo Thiên suốt
826 năm, tính từ khi được xây dựng năm 1057 đến khi bị thực dân Pháp
và Vatican cưỡng chiếm và phá hủy năm 1883. Với lịch sử hiện diện,
như là một ngôi chùa lớn nhất, trong lòng kinh thành Thăng Long suốt
826 năm, chùa Báo Thiên đương nhiên là di sản văn hóa hàng đầu của
quốc gia Việt Nam.
Tang vật của vụ phá chùa, cướp đât quy mô.
Tất cả các tài liệu chứng minh chùa Báo Thiên là tài sản của Phật
giáo, có lịch sự gần 900 năm, và bị phá hủy, cướp đoạt để xây nhà
thờ Lớn Hà Nội đều là những tài liệu xuất phá từ ngoài Phật giáo,
như các chính sử do các nhà nho viết ra, như là các cuốn sách do các
nhà truyền giáo và các nhà nghiên cứu ngoại quốc viết ra, như là các
cuốn sách về sử Việt Nam cận đại do những nhà nghiên cứu ở Hà Nội
viết ra, cho nên những bằng chứng lịch sử này là khách quan, trung
thực. Nếu có ai còn hồ nghi thì xin hãy đến để thấy một tang vật của
vụ ăn cướp quy mô này tại ngay tòa Giám mục, hay là nhà thờ Lớn Hà
Nội, số 40 phố Nhà Chung, nằm trong khuôn viên của chùa Báo Thiên,
đó là chiếc giếng đá cổ chạm hình hoa sen có niên đại 951 năm. Sau
khi bộ trưởng ngoại giao Vatican ra lịnh cho Giám mục Ngô Quang Kiệt
chấm dứt tranh đấu đòi lại tòa Khâm sứ, cũng nằm trong khuôn viên
chùa Báo Thiên của Phật giáo, thì ông đã tuân lịnh và giáo dân đã
đem cây thánh giá bằng sắt tây cao khoảng bốn mét mà họ đã dựng lên
trước tòa Khâm sứ cũ về lại trong khuôn viên của tòa giám mục và đem
dựng lên đằng sau miệng giếng đá cỗ, rồi họ đốt lên khoảng 50 cây
nến có nhiều màu sắc khác nhau, ánh nến sáng rực làm nổi bật hình
các hoa sen được khắc chạm vào giếng đó, và hình ảnh này được truyền
đi khắp nơi. Nhờ đó mà các nhà nghiên cứu Phật giáo mới khám phá đó
là giếng đá của chùa Báo Thiên, có niên đại cổ nhất của Việt Nam,
gần 1.000 năm. Tạp chí Văn Hóa Phật giáo cho biết: "Đây là một
giếng cổ khá to bằng đá nguyên khối. Nó hiện lên trước mắt tròn trịa
như một cái đỉnh, quanh chân chạm khắc hoa văn hình hai lớp cánh sen
lồng vào nhau tuyệt đẹp. Chiếc giếng đá này có ba đặc điểm: thứ
nhất, nó nằm trong khuôn viên của đệ nhất danh lam thắng cảnh đời Lý
là chùa Báo Thiên. Theo sử liệu, có thể đoán rằng cách giếng đá
không xa là bảo tháp 12 tầng, với chóp bằng đồng, vốn là một trong
bốn "Đại Nam tứ khí" thời xưa. Thứ hai, về mặt tạo hình mỹ thuật và
chất liệu, đó là một giếng đá độc đáo của Thăng Long còn sót lại tới
nay... Giếng đá cổ có bệ hình vuông với mỗi cạnh đo bằng 1,5 mét. Từ
bệ lên tới miệng cao 0,60 mét vòng bụng chỗ giếng phình ra rộng tới
1 mét. Thứ ba, ngoài nội dung di tích, giếng đó còn là một chứng
tích của những giai đọan lịch sử sóng gió. Vì như đã nói, cổ tự Báo
Thiên là đệ nhất danh lam của kinh thành, song tời thế kỷ 15, bị
quân Minh chiếm phá và đập tháp để lấy vật liệu chống đỡ sức tiến
công của đại quân Bình Định Vương Lê Lợi. Đến đời Lê, chùa được
trùng tu. Cuối thế kỷ 18, chùa trở nên đổ nát vì chiến sự, rồi được
phục hồi lại dưới triều Nguyễn. Thời Pháp lại bị phá lần nữa, mà
theo nhà sử học Trần Huy Liệu, đó là "sự phá hoại đáng kể đầu tiên
của thực dân Pháp ở Hà Nội"... Cổ giếng là một khối đá tròn, tạo
dáng thắt cổ bồng như lư hương, miệng giếng hơi bóp vào, phần thân
dưới phình ra, chạm hoa hình cánh sen hai lớp. Cổ giếng đặt khít
khao trên một bệ đá tám cạnh nguyên khối... có chạm hoa văn rồng,
mây, hoa lá… Giếng đá cổ độc đáo của chùa Báo Thiên ai cũng phải
thừa nhận nó đạt đến trình độ kỹ thuật lẫn nghệ thuật rất cao, chưa
có cái nào khác sánh bằng. Sở dĩ như thế vì đây là giếng đá của ngôi
quốc tự danh tiếng bậc nhất kinh đô. Chùa, tháp Báo Thiên là đỉnh
cao của mỹ thuật kiến trúc Phật giáo. Theo sử sách ghi chép, ngôi
chùa này đặc biệt có rất nhiều tự khí, tượng thờ bằng đá to lớn,
tuyệt đẹp. Cổ giếng là một khối đá tròn, tạo dáng thắt cổ bồng như
lư hương. Miệng giếng hơi bóp vào, phần thân dưới phình ra, chạm hoa
hình cánh sen hai lớp. Cổ giếng đặt khít khao trên một bệ đá tám
cạnh nguyên khối... có chạm hoa văn rồng, mây, hoa lá..... Trở lại
vấn đề, năm 1883, thành Hà nội bị thực dân Pháp đánh chiếm, sau đó
giám mục Puginier cấu kết với công sứ Bonnal và gian thần Nguyễn Hữu
Độ chiếm đoạt chùa Báo thiên để kiến tạo nhà thờ chính tòa Hà Nội.
Từ đó một biểu tượng văn hóa của kinh đô Thăng Long, niềm hãnh diện
chung của dân tộc Việt dần dần bị quên lãng. Trải qua gần 1.000
năm, biết bao biến động lịch sử, ngoại xâm nội chiến, cuồng tín hận
thù mà giếng đá Báo Thiên vẫn tồn tại, thật là điều kỳ diệu. Nó xứng
đáng được vinh danh là cái giếng đá cổ xưa nhất, đẹp nhất và hoàn
chỉnh nhất để làm biểu tượng văn hóa, lịch sử của vùng đất thiêng
Thăng Long - Hà Nội. Đó chính là "của tin" còn lại của cả dân tộc,
chẳng của riêng ai" (Vụ Đòi Tòa Khâm: câu chuyện về chiếc giếng
cổ, phattuvietnam.net).
Diện mạo chùa, tháp Báo Thiên khi bị cố đạo Puginier phá hủy và cướp
đoạt.
Ngày 20 tháng 11 năm 1873, Francis Garnier đem quân tấn công thành
Hà Nội lần thứ nhất, thành thất thủ, tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri
Phương bị bắt và đã tuyệt thực để chết trong danh dự, khi đó giám
mục Puginier, với tư cách là thông dịch viên và cố vấn cho Francis
Garnier, đã đến đóng bản doanh ở chùa Báo Thiên, nghĩa là ngay từ
thửa đó, khu đất chùa Báo Thiên đã ở trong tầm nhắm của vị cố đạo
thực dân này. Gần 10 năm sau, ngày 25 tháng 4 năm 1882, Henri
Rivière đem quân đánh Hà Nội lần thứ nhì, thành thất thủ, tổng đốc
Hà Nội là Hoàng Diệu tử trận. Khi đó giám mục Puginier tiếp tục đóng
vai trò thông dịch viên và cố vấn cho quân xâm lăng. Năm sau ông phá
hủy chùa Báo Thiên và cướp đất của ngôi chùa này. Năm 1884, vua Tự
Đức công nhân sự đô hộ của thực dân Pháp, cùng năm đó, Puginier cho
xây một nhà thờ St Joseph trên lô đất chùa Báo Thiên, mà ngày nay
la nhà thớ Lớn Hà Nội. Trong cảnh binh lửa, dường như không ai có
cơ hội để chụp hình ảnh của ngôi chùa này trước khi bị đập phá. Tuy
nhiên, vài năm sau đó, hình ảnh cổng tam quan của một ngôi chùa sát
bên cạnh chùa Báo Thiên, là chùa Báo Ân, hay còn gọi là chùa Liên
Trì, đã được chụp lại bởi bác sĩ Ch.E.Hocquard vào khoảng năm
1884-1885 (có thể xem ở thuvienhoasen). Ngôi chùa này cũng bị thực
dân Pháp phá hủy vài năm sau đó để xây bưu diện Hà nội, dù rằng hình
ảnh chụp được trước khi bị phá hủy là một cảnh chùa uy nghi, rộng
lớn và tuyệt đẹp. Dựa vào hình của chùa Báo Ân, ta có thể khẳng định
chùa Báo Thiên trước khi bi Puginier phá hủy cũng là một ngôi chùa
uy nghi, rộng lớn và tuyệt đẹp, nếu không hơn thì cũng không thua gì
chùa Báo Ân.
Cho tạm dễ hiểu, ta tạm so sánh chùa Báo Ân bị Tây phá hủy để xây
nhà bưu điện Hà Nội chỉ lớn cỡ chùa Xá Lợi trong khi đó chùa Báo
Thiên bị giám mục Puginier phá huy để xây nhà thờ lớn Hà Nội tương
đương cỡ chùa Vĩnh Nghiêm, ở Sài Gòn, rộng lớn hơn, nguy nga tráng
lệ hơn. Tội phá và cướp đất của một ngôi chùa nhỏ hay trung bình
đương nhiên nhẹ hơn tội phá và cướp đất của một ngôi chùa lớn, được
coi như di sản văn hóa hàng đầu của quốc gia Việt Nam.
Sau đây tôi chứng minh không những chùa Báo Thiên lớn hơn chùa Báo
Ân, mà đó còn là ngôi chùa lớn nhất Hà Nội, và lớn nhất nước Việt
Nam trong thời Lý Trần. Nếu Đế Thiêng Đế Thích của Cao Miên là công
trình Phật giáo lớn nhất và là biểu tượng văn hóa, tâm linh của xứ
này, thì chùa Báo Thiên cũng có một vai trò tương tự. Nếu Đế Thiêng
Đế Thích bị phá hủy và cướp đoạt để xây một nhà thờ Thiên Chúa giáo
La Mã thì không biết người dân Cao Miên nghĩ thế nào?
- Theo chính sử, thì chùa và tháp Báo Thiên được vua Lý Thánh Tông
cho xây năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057). Được xây bởi đương
kim hoàng đế nên đương nhiên đây là một ngôi quốc tự rất lớn.
- Chùa và tháp thường đi đôi với nhau, nên tháp Báo Thiên cao 80
mẻt, một công trình kiến trúc cao nhất nước Việt Nam, và là một công
trình kiến trúc đứng đầu "An Nam Tứ Đại Khí" như sự ca ngợi của
Trung Hoa, thì chùa Báo Thiên nếu không phải là ngôi chùa lớn nhất,
thì cũng là một trong vài ba ngôi chùa lớn nhất nước Việt Nam. Chùa
Báo Ân không hề được nhắc đến với sự trân trọng và ca ngợi như thế,
nên đương nhiên là nhỏ hơn.
- Vua Lý Thánh Tông phát ra 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa Báo
Thiên. Đây là đại hồng chung lớn nhất nước Việt Nam. Chuông chùa và
tầm cỡ của ngôi chùa thường tương ứng với nhau nên chùa Báo Thiên có
thể được xem là ngôi chùa vĩ đại nhất của Việt Nam, có giá trị như
một quốc bảo văn hóa và tâm linh của Việt Nam, ít nhất là trong thời
đại Phật giáo Lý Trần. Chùa Báo Ân, tuy có cổng tam quốc rất đẹp, có
thể là một trong những cổng tam quan đẹp nhất nước Việt Nam, nhưng
đó chỉ là một ngôi chùa lớn bình thường, không thể so sánh của chùa
Báo Thiên.
- Lễ Hội chùa Báo Thiên, trong tháng giêng là một trong những lễ hội
lớn nhất của Thăng Long - Hà Nội. Người Phật tử đầu năm, ngày tết
đều đi chùa, và họ thường chọn những ngôi đại già lam để cầu nguyện
trong dịp năm mới. Chùa Báo Thiên chắc hẳn là một đại già lam lớn
nhất Hà Nội, có khuôn viên rộng lớn nên thu hút nhiều nhất sự thăm
viếng của nhiều người, từ đó hình thành lễ hội chùa Báo Thiên truyền
thống, kéo dài từ vua Lý Thánh Tông đến khi chùa Báo Thiên bị phá
hủy năm 1883. Chùa Báo Ân không có một vị trí văn hóa nổi bật qua
suốt gần chín thế kỷ như thế.
Tất cả những tội ác bị phơi bày, phát hiện trước lịch sử và công
luận thường chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm. Những cái gì chưa
được biết đến còn ghê gớm, khủng khiếp hơn rất nhiều. Vì chủ thể
phạm tội đã phá hủy, thủ tiêu tang chứng, hay vì thời gian làm cho
phai mờ, hay vì những nạn nhân đã bị giết hại không cơ hội lên
tiếng, hay vì một số ít người là chứng nhân vì sợ hãi đã im lặng.
Nhất là đối với Vatican, một tôn giáo có lịch sử truyền đạo bằng
chiến tranh và bạo lực suốt gần 20 thế kỷ vừa qua. Và luôn che dấu
những tội ác của mình dưới những chiêu bài cao cả, thánh thiện.
Những tội ác của Vatican đối với nhân loại tuy đã có hàng ngàn cuốn
sách được xuất bản, nhất là bằng Anh ngữ, nhưng vẫn chưa nói lên hết
tầm cỡ rộng lớn toàn câu, suốt gần hai ngàn năm và đối với hàng trăm
triệu nạn nhân, và hàng ngàn cơ sở, thờ phụng của các tôn giáo
khác.
Đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam là nạn nhân của âm mưu xâm
lăng chiếm đóng bằng quân sự và bằng Công giáo, cấu kết chặt chẽ
giữa thực dân Pháp và các nhà truyền giáo Pháp. Mà giám mục
Puginier* là khuôn mặt tiêu biểu và nổi bậc nhất. Và vụ chùa Báo
Thiên, nhà thờ lớn Hà Nội và tòa khâm sứ là một trường hợp điển hình
nhất.
Tháp Báo Thiên nguyên thủy cao 80 mét, một di sản văn hóa vĩ đại của
Việt Nam, một quốc bảo tối thượng của nước Đại Việt trong thời Lý
Trần đã bị giặc Tàu phá hủy năm 1426. Có người muốn chứng minh là
giám mục Puginier, và rộng hơn là Vatican và Công giáo Việt Nam,
không có phá hủy tháp Báo Thiên, vì nó đã không còn tồn tại trong
năm 1883. Tuy nhiên, nếu có tác giả nào viết tháp Báo Thiên bị phá
năm 1883 bởi giám mục Puginier thì cũng không có gì sai, vì sau khi
tháp nguyên thủy bị phá hủy, người đã xây lại tháp khác, nhỏ hơn
rất nhiều. Cảnh chùa, tháp bị hư hỏng, đổ nát và được trùng ta vô số
lần trong lịch sử rất lâu đời của Phật giáo Việt Nam là chuyện phổ
biến. Cho nên chùa và tháp Báo Thiên đã được tổng đốc Tôn Thất Dật
trùng tu vào thời vua Tự Dức thì đương nhiên vào năm 1883, tháp tại
chùa Báo Thiên vẫn còn và cũng bị phá hủy như chùa Báo Thiên. Trên
khu đất của chùa Báo Thiên đã hiện diện tháp Báo Thiên (nguyên thủy)
suốt gần 400 năm thời đại Lý Trần, cũng như trên khu đất này của
Phật giáo, về sau, đã có xây thêm một tòa nhà mà người ta gọi là tòa
khâm sứ. Có người đã dùng một số tài liệu lịch sử để chứng minh tháp
Báo Thiên đã bị phá hủy từ lâu, để biện minh rằng Thiên Chúa giáo La
Mã đã không phá hủy tháp Báo Thiên. Đây là sự biện minh không cần
thiết, vì bản cáo trạng không cáo buộc Vatican, Hội Thừa Sai Pháp và
chủ thể kế thừa là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã phá hủy tháp Báo
Thiên. Nêu vấn đề tháp Báo Thiên để làm lạc hướng của cuộc tranh
luận về CHÙA BÁO THIÊN VÀ KHU ĐẤT CỦA CHÙA BÁO THIÊN, mà hiện nay là
nhà thờ lớn Hà Nội và tòa khâm sứ.
Tháp Báo Thiên còn hay mất vào năm 1883, thì vẫn không thay đổi sự
thật lịch sử là giám mục Puginier, hay nói rộng hơn là thực dân
Pháp, Vatican và chính quyền tay sai của thực dân, đã cướp đoạt, phá
hủy chùa Báo Thiên, một trong những ngôi chùa lớn nhất cùa Việt Nam,
và là một trong những di sản văn hóa hàng đầu của quốc gia Việt Nam
để cướp đất của chùa Báo Thiên, tức là đất của Phật giáo Việt Nam,
để xây trên đó nhà thờ lớn Hà Nội.
Vấn đề đặt ra ở đây là - sự chiếm đoạt chùa Báo Thiên của giám mục
Puginier vào năm 1883, với sự hổ trợ của thực dân Pháp, trong thời
gian Việt Nam bị thực dân Pháp độ hộ, có giá trị pháp lý gì không? -
Và công lý và luật pháp của một nước Việt Nam độc lập, văn minh,
phải xét xử và quyết định như thế nào đối với sự cưỡng chiếm phi
pháp và bất công chùa Báo Thiên của Phật Giáo, đồng thời cũng là
cưỡng chiếm một di sản văn hóa vĩ đại, hùng tráng cấp quốc gia của
dân tộc Việt Nam?
CÔNG LÝ VÀ LUẬT PHÁP ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP CHÙA BÁO THIÊN, NHÀ THỜ LỚN
HÀ NỘI VÀ TÒA KHÂM SỨ
Việt Nam không phải là nước vô chủ. Từ hàng ngàn năm nay, người Việt
đã là chủ nhân trên lãnh thổ Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng vào đầu thế kỷ thứ nhất và tuyên ngôn độc lập "Nam quốc sơn
hà Nam đế cư" trong thế kỷ 11 cùng nhiều cuộc đấu tranh kiên
cường để bảo vệ độc lập và giành lại độc lập của Việt Nam trong
suốt hơn 2.000 năm qua đã khẳng định chân lý này. Sự xâm lăng và
chiếm đóng Việt Nam của thực dân Pháp, kể từ đầu thập niên 1860, đến
năm 1954, cùng mọi sự thủ đắc bất cứ bất động sản có chủ nào, do sự
đe dọa, hay xử dụng võ lực, hay dùng mưu mô, thủ đọan, dựa trên sự
cấu kết với thực dân Pháp, đều là bất hợp pháp.
Công lý tối thiểu, một khi nước nhà đã giành lại được độc lập, là
ban hành một đạo luật tuyên bố những sự chiếm hữu như thế là bất hợp
pháp, và tịch thu và hoàn trả lại những bất động sản này cho người
chủ nhân thật sự trước khi bị thực dân Pháp và tay sai cướp đoạt
một cách bất công và phi pháp.
Chùa Báo Thiên là một tài sản của Phật giáo Việt Nam, không những
thế còn là một di sản văn hóa và tâm linh linh thiêng, vào hàng bật
nhất, của quốc gia Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã làm chủ bất động
sản này một cách liên tục trong suốt 826 năm. Việc hoàn trả lại cho
Phật giáo chùa Báo Thiên là thực thi công lý tối thiểu cho Phật giáo
của một quốc gia Việt Nam có chủ quyền, có công lý và có luật pháp
nghiêm minh.
Không những Giáo hội Công giáo Việt Nam và chính quyền Việt Nam,
phải hoàn trả lại khu bất động sản, trong đó hiện nay là nhà thờ Lớn
Hà Nội và tòa Khâm sứ, mà Giáo hội Công giáo Việt Nam còn phải bồi
thừơng cho Phật giáo về những thiệt hại phát sinh từ sự chiếm đoạt
và đập phá chùa Báo Thiên vào năm 1883, và những thiệt hại khác do
Phật giáo bị tướt đoạt một cách bất công và phi pháp quyền làm chủ
và quyền xử dụng chùa Báo Thiên trong suốt 125 năm qua.
Việc này, từ khi nước nhà độc lập từ năm 1945 đến nay, chưa hề có.
Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay là người thừa kế của Hội Thừa
Sai Pháp, cả hai đều là một tổ chức tôn giáo phụ thuộc vào Vatican
và thay nhau đại diện cho Thiên Chúa giáo La Mã trên lãnh thổ Việt
Nam. Nguyên tắc căn bản của luật thừa kế, áp dụng cho cá nhân, đoàn
thể và quốc gia, đồng thời cũng áp dụng trong luật quốc tế và trong
luật của các nước, là chủ thể thừa kế được hưởng những quyền lợi, là
thừa hưởng những tài sản, và đồng thời phải có trách nhiệm là phải
gánh chịu những nợ nần của chủ thể đã qua đời hay không còn tồn tại.
Trong luật gọi là những tích sản và những tiêu sản.
Chủ thể thừa kể không thể chỉ nhận lãnh những tích sản, và chối bỏ
không nhận lãnh những tiêu sản. Giáo hội Công giáo Việt Nam đã và
đang thừa hưởng hầu như trọn vẹn tất cả tài sản, nhất là những bất
động sản, của Hội Thừa Sai Pháp, cụ thể nhất là hiện nay Giáo hội
này đang thừa hưởng một nhà thờ, gọi là nhà thờ Lớn, và cũng đang
đòi hỏi một cơ sở khác, gọi là tòa Khâm Sứ, trên lô đất mà suốt 826
năm thuộc về chùa Báo Thiên của Phật giáo Việt Nam. Nên giáo hội này
cũng phải chịu trách nhiệm đối với sự cướp đoạt bất công và phi pháp
chùa Báo Thiên năm 1883 của giám mục Puginier thuộc Hội Thừa Sai
Pháp, với sự cấu kết của thực dân xâm lăng và những kẻ Việt gian tay
sai. Kẻ cướp đất chùa Báo Thiên năm 1883 là giám mục Puginier, ông
này mấy năm sau đó, đế đáp lại món quà mà thực dân Pháp đã ban
thưởng cho ông là lô đất của chủa Báo Thiên, nơi có vị trí đẹp vào
bậc nhất Hà Nội, nên đã huy động, qua một linh mục Việt gian tay
sai là Trần Lục, đem 5.000 giáo dân Việt Nam, cùng với quân Pháp tấn
công chiến lũy Ba Đình của anh hùng dân tộc Đinh Công Tráng. Ba Đình
thất thủ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam
sụp đổ. Trước đó, tổng đốc thành Hà Nội, và cũng là anh hùng dân tộc
Nguyễn Tri Phương, sau khi thành Hà Nội thất thủ và bị giặc Pháp bắt
giữ, đã nhịn ăn để chết vì nước, trước khi mất, ông đã mắng vào mặt
tên giám mục Puginier đến giở trò đạo đức giả để dụ hàng ông :
"Hẳn rằng ông đã hài lòng lắm, vì nhờ sự tiếp tay của ông, và những
mưu kế của ông mà lũ ăn cướp người Pháp đã cướp mất xứ Nam Kỳ của
chúng tôi, và rồi chúng sẽ còn cướp nốt xứ Bắc kỳ nữa" (Le
Tonkin, Paris, 1888).
Giám mục thực dân Puginier đã ca ngợi giáo dân Việt Nam tiếp tay đắc
lực cho sự xâm lăng, chiếm đóng suốt gần 100 năm của thực dân Pháp
trên quê hương chúng ta như sau: "Không có giáo dân Việt Nam hổ
trợ thì Pháp như con cua bị bẻ gãy càng, không có cách nào có thể
xâm chiếm nổi Việt Nam" (André Masson, sách đã dẫn). Puginier
đang ca ngợi các tín đồ phản quốc của ông, và đồng thời cũng đang ca
ngợi chính mình, vì ông là người lãnh đạo họ trong suốt thời gian
lịch sử ăn cướp ô nhục này, vừa tàn phá, cướp nước Việt Nam, và vừa
phá hủy, cướp đất chùa Báo Thiên. Nhưng lời tự ca ngợi này, trước
công lý lịch sử, lại chính là lợi nhận tội chân thành nhất, đầy đủ
nhất, chính xác nhất của Vatican, của các đoàn truyền đạo Thiên Chúa
giáo La Mã và của Công giáo Việt Nam đối với đất nước và nhân dân
Việt Nam.
Tuy chùa Báo Thiên đã bị cướp đoạt một cách bất công, phi pháp trong
suốt 125 năm qua bởi giám muc thực dân Puginier thuộc Hội Thừa Sai
Pháp, và tiếp tục bị chiếm đoạt một cách bất công, phi pháp, bởi kẻ
thửa kế của Hội Thừa Sai Pháp là Giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng
điều này không có nghĩa là công lý sẽ không có ngày được thực thi
trên quê hương Việt Nam.
Giáo Hoàng John Paul II đã thú nhận bảy núi tội lỗi của đạo Thiên
Chúa giáo La Mã trong 2.000 năm qua đối với nhân lọai, trong đó có
tội đi truyền đạo bằng bạo lực. Trên con đường truyền đạo bằng máu
và nước mắt này Vatican, Hội Thừa Sai Pháp và những chủ thể thừa kế
tại các quốc gia địa phương đã cướp dựt, chiếm đoạt bất công, phi
pháp rất nhiều bất động sản của các tôn giáo khác, đây cũng là những
di sản văn hóa của các dân tộc mà Vatican muốn hủy diệt để xóa bỏ
bản sắc văn hóa đặc thù của các dân tộc hầu dễ dàng nô lệ hóa nhân
dân các nước, nhất là ở châu Mỹ La tinh, châu Phi và châu Á. Việt
Nam là một bằng chứng điển hình, nổi bật nhất. Và chùa Báo Thiên,
nhà thờ Lớn Hà Nội, và tòa Khâm sứ là một lời tố cáo những núi tội
lỗi đối với Phật giáo và dân tộc Việt Nam của Vatican, của Hội Thừa
Sai Pháp và của Giáo Hội Công giáo Việt Nam một cách sống động, hùng
hồn nhất.
Hôm nay công lý lịch sử đang lên tiếng. Sẽ có một ngày công lý pháp
luật sẽ được thi hành. Chùa Báo Thiên, bị giặc Tây phá hủy từ năm
1883, và tháp Báo Thiên, bị giặc Tàu phá hủy từ năm 1426, sẽ vươn
cao trên bầu trời Thăng Long như trong thời đại Lý Trần vinh quang.
Lễ hội chùa Báo Thiên, một trong những lễ hội lớn nhất tại kinh
thành Thăng Long, sẽ trở về như đã trở về mỗi năm trong tháng giêng,
ngày Tết, suốt 826 năm từ thời vua Lý Thánh Tông năm 1057 đến năm
1883, năm giáo sĩ thực dân Puginier phá hủy chùa Báo Thiên cổ kinh,
linh thiêng và khi đó vẫn còn nguy nga, bề thế, như là ngôi chùa lớn
nhất kinh thành Thăng Long.
Sẽ có một ngày, tiếng đại hồng chung 12.000 cân của chùa Báo Thiên
sẽ vang dội cả kinh thành Thăng Long. Và ngày đó mới xứng đáng là
ngày kỷ niệm Một Ngàn Năm Thăng Long, Một Ngàn Năm Rồng Bay.
Chính sử ghi rằng năm 1057 vua Lý Thánh Tông đã phát 12.000 cân đồng
để đúc chuông chùa Báo Thiên. Kích thước của chuông chùa thường
tương ứng với kích thước của ngôi chùa. Chùa Thiên Mụ tại Huế có
đại hồng chung nặng hơn 3.000 cân, và đây là một ngôi chùa lớn nhất,
tráng lệ nhất miền Trung khi được trùng tu trong thời chúa Nguyễn
Phúc Chu. Chuông chùa Báo Thiên nặng và lớn gấp bốn lần chuông chùa
Linh Mụ thì ta có thể ước đoán là chùa Báo Thiên nguyên khởi, khi
được xây dưới thời vua Lý Thánh Tông, lớn lao, hùng tráng gấp vài ba
lần chùa Linh Mụ, nghĩa là đây là ngôi chùa lớn nhất của Việt Nam
trong thời hưng thịnh nhất của Việt Nam, thời Lý Trần từ đầu thế kỷ
11 đến cuối thế kỷ 14.
Sau khi đánh đuổi quân Minh, vua Lê Lợi đã đến hồ Lục Thủy trả lại
gươm thần cho rùa thần, từ đó nhân dân gọi hồ Lục Thủy là hồ Hoàn
Kiếm. Khi đó tháp Báo Thiên đã không còn, giặc Minh vừa phá tháp để
làm công sự, trước khi chúng đầu hàng rút chạy về Tàu. Khi đó chuông
chùa Báo Thiên cũng không còn, vì giặc Minh đã nấu chuông lấy đồng
làm binh khí. Cũng từ đó thời đại quân chủ Phật giáo Lý Trần vẻ vang
suốt bốn thế kỷ đã không còn, và đất nước bắt đầu thời đại quân chủ
Nho giáo. Và Việt Nam bắt đầu chu kỳ suy tàn, tan rã, yếu hèn, sa
đọa và tủi nhục.
Chủ đạo văn hóa, chính trị truyền thống, trên nền tảng từ bi, bao
dung, khai phóng cúa đạo Phật cần phải được phục hưng đế Việt Nam có
được một kỷ nguyên dựng nước mới, một cuộc cách mạng phát triển mới,
và bắt đầu 1.000 năm Rồng Việt chuyển mình tung bay.
Lý Khôi Việt
(Câu Lạc Bộ Phật Giáo Thăng Long)
----------------------------------------------
Chú thích :
*
Từ việc chiếm chùa Báo Thiên xây nhà thờ Lớn tìm hiểu bộ mặt thật
của 'giám mục' Puginier
[26.02.2008 06:35]
http://www.phattuvietnam.net/index.php?nv=News&at=article&sid=3096
Công sư Bonnal phát biểu trong hồi ký : “Phá
hủy ngôi chùa và chiếm lấy miếng đất, việc đó xem ra chẳng có gì dễ
dàng hơn trong thời điểm chinh phục mà chúng ta đang tiến hành,
nhưng bản thân tôi, đúng theo lẽ, e ngại phạm sự lạm quyền khi làm
như vậy, và tôi chọn giải pháp thỉnh ý ông Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ.
Ông nầy rất có thiện cảm với vị giám mục, cũng như tôi, ông muốn làm
cho ngài hài lòng; sau đây là cách thức ông gỡ mối khó khăn. Trước
hết ông cho truy tìm xem còn có kẻ hậu duệ nào của người tạo dựng
ngôi chùa đã qua đời trước đó hai thế kỷ không, và dĩ nhiên chẳng
tìm được ai.
Tiếp theo, ông chỉ thị cho các thân hào trong khu
vực, được chọn, như thể tình cờ, trong các giáo dân bản xứ, để xét
xem mức độ chắc chắn của ngôi chùa thế nào, và các ông nầy chẳng
ngần ngại gì mà tuyên bố rằng: do hư nát, ngôi chùa khi sụp đổ có
thể gây nguy hại cho những ai đi ngang qua. Vậy là, bây giờ mọi việc
đều đã đúng luật lệ. Cho phá hủy ngôi chùa, sung công thửa đất vô
chủ... theo tập quán Việt Nam, là những biện pháp chính đáng, không
thể gây nên một sự phản đối nào. Ông Tổng đốc đã xử lý theo cách đó.
Ông còn nhận trách nhiệm nhượng lại miễn phí cho nhà chung công giáo
thửa đất đã sung công, và tôi đã vui lòng trao cho vị giám mục văn
bản chính thức chuyển giao cho ngài quyền sở hữu trọn vẹn” (Hanoi pendant la période
héroique. 1873-1888 ” trang 125, của tác giả André Masson. Librairie
Orientaliste Paul Genthner. 13 rue Jacob (VIe), 1929).
Những người đến thẩm định ngôi chùa “hư nát” là các “giáo
dân”, và họ cho rằng ngôi chùa có thể “sụp đổ” gây nguy hiểm cho
người qua lại. Điều này rất hợp với tham vọng chiếm chùa của “Giám
mục” Puginier. Nhưng điều “phá hủy ngôi chùa và chiếm lấy miếng đất”
lại là nỗi e ngại vì “lạm quyền” của viên Công sứ.
Chính sách của thực dân và những mưu toan chính trị của các
giáo sĩ không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhau, nên nhiều khi
những “nhiệt tình” xâm chiếm, cướp phá chùa chiền của các giáo sĩ
còn gây đau đầu cho giới chức Pháp (xin lưu ý, có một số ý kiến cho
rằng Chính quyền Pháp phần nào cho khôi phục những sinh hoạt Phật
giáo, nhưng điều này không ăn nhập gì với “chính sách riêng” của các
giáo sĩ, thậm chí nó còn bị chính các giáo sĩ phản đối kịch liệt)
Nếu những ai đã từng đọc luận án tiến sĩ “Đạo
Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam” được bảo
vệ tại Pháp của Cao Huy Thuần thì không cần phải thắc mắc nhiều về
những vụ cướp phá chùa chiền một cách có hệ thống của các giáo sĩ
thừa sai qua những tư liệu mật được tìm thấy trong thư khố của Bộ
Ngoại giao và Bộ Hải quân của Pháp, và cũng không cần phải bình luận
gì nhiều.
Chúng tôi nghĩ, một số người Công giáo đang tranh luận trên
các trang web gần như vẫn chưa đọc tài liệu này, nên họ không hiểu
gì nhiều về những “cha”, “cố” của họ đã gây ra những tang thương gì
cho dân tộc và Phật giáo.
Qua vụ “Tòa Khâm”, chúng tôi mong cùng với quý vị đọc lại
những thành quả nghiên cứu của Giáo sư Cao Huy Thuần (*) để thấy rõ
hơn bộ mặt thật của một số giáo sĩ khét tiếng trong đó có “Giám mục”
Puginier.
Các tín đồ Thiên Chúa giáo cảm thấy mình mạnh bèn tấn công
vào những làng phi Thiên Chúa. Sự trả đũa của họ thật quá sức dã
man, như các báo cáo của các sĩ quan Pháp đã cho thấy. Sau đây là
một vài vụ theo lời thuật của Harmand:
“…Trong chuyến công tác, người ta cho họ đi đầu
toàn thể dân Công giáo rồi chiếm và đốt một số làng của các kẻ ăn
cướp hay của các nho sĩ võ trang (các sĩ quan gọi bất cứ ai chống họ
là “kẻ cướp”). Họ giết 10 người, trong đó có một viên chỉ huy; các
người bị thương đều bị tra tấn, bị trấn nước hay bị thiêu sống, chùa
chiền bị phá hủy. Những người đó tỏ ra rất can đảm, nhưng tôi tự hứa
không để bắn một phát nào nữa nếu không có tôi (bất kể những lời
người ta khuyên) mục đích là để tôi đích thân chống lại các cảnh dã
man đó, mà chỉ tấn công các làng chắc chắn có tội và để tránh cho
các con chiên cuồng tín đó khỏi bị trả đũa khủng khiếp trong trường
hợp Pháp thua trận hay thay đổi chính sách” (Harmand gửi Testard, 16-1-1874, Thư khố Bộ
Pháp quốc Hải ngoại A00 (10) hộp 1).
“… Chúng tôi lần lượt
chiếm 4 làng, bắt 5 người chỉ huy, nhưng không phải là những người
nổi tiếng, họ sẽ bị xử tử hôm nay, và giết ít nhất 50 người trang bị
bằng dáo hay bằng gậy… Viên hạ sĩ và hai người mà tôi phái đến Giám
mục Cézon đã trở về ngày hôm kia. Phái bộ truyền giáo đã phái họ đến
một ngôi làng người lương ít nhiều theo trộm cướp, họ giết 10 người,
họ kể với tôi rằng, người An Nam tra tấn rất tàn nhẫn các người bị
thương, phá sập ngôi chùa trong làng, tất cả việc này, Giám mục Tây
Ban Nha hết sức hài lòng…” (Harmand gửi Ganier ngày
22-12-1873, do J.Marquet và J.Norel dẫn, “L’occupation francaise au
Tonkin”, tr.112)
Các sĩ quan Pháp đều công nhận trách nhiệm nặng nề của các
Giám mục và các kẻ truyền đạo trong các vụ trả thù man rợ này:
“Không chối cãi được, một
số Giám mục Pháp đã hùa với các nỗi ghen ghét, hận thù sục sôi ở nơi
họ sống; họ làm hại các con chiên một cách nghiêm trọng khi đẩy
những người này vào một cuộc nổi dậy chống lại chính phủ An Nam.
Việc chinh phạt của Pháp chỉ là cái cớ bề ngoài,
còn lý do căn bản là sự tranh chấp phe phái. Nên để ý là một số vụ
nổi loạn do những kẻ tự xưng là con cháu nhà Lê đều có các viên chỉ
huy là Thiên Chúa giáo… Cầm đầu các đám tín đồ Thiên Chúa đi cướp
bóc, đốt phá các làng phi Thiên Chúa và triệt hạ chùa chiền thường
là các linh mục hay các kẻ truyền đạo: họ bổ nhiệm các viên đội, tụ
tập binh lính mà đa số, theo lời thú nhận đều là đầu trộm đuôi cướp” (Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư khố Trung ương Đông
Dương, Đô đốc 13506 số 4).
“Hình như đôi khi, tôi
dám nói như thế này, lòng nhiệt thành tôn giáo đã hủy hoại các tư
tưởng công bình, chân lý, nhân đạo, bác ái ở các nhà truyền đạo, và
họ dễ dàng để mình bị lôi cuốn vào chính các lỗi lầm mà họ đã thấy
rõ ở các đối phương của mình (Rheinart gửi Garnier,
14-14-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).
“… Chúng tôi thấy một số
lớn làng bị thiêu rụi. Khổ thay, cứ mỗi lúc, các tín đồ Thiên Chúa
giáo thấy kẻ thù của họ biến mất, hoặc họ tự thấy mình mạnh hơn thì
họ lại đi hành quân, trả thù không gớm tay, rồi đến phiên họ lại đốt
và giết. Hầu hết họ đều có võ trang, và tôi tin rằng, chính các nhà
truyền giáo cũng không ngăn cản nổi. Đó là điều đáng tiếc, vì các
quan mới từ Huế ra đều nhân cớ đó mà xác nhận rằng, chính các tín đồ
Thiên Chúa gây sự, chính những người này là nguyên nhân đầu tiên của
mọi đau khổ. Hơn nữa, vì những con chiên có nhiều khí giới, nên họ
sẵn sàng xem những con chiên là những kẻ làm loạn” (Báo
cáo của Harmand ngày 24-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô
đốc 11689/54).
“Ngay khi thấy mình được
ủng hộ, các tín đồ Thiên Chúa giáo đã không ngần ngại đốt nhà, giết
người, và cũng như những người này, nếu cần, họ vu cáo để biện minh
cho việc tàn bạo của mình. Đó là điều họ đã làm năm vừa rồi, và
chính điều này đã gây ra những vụ trả đũa mà người ta gọi một cách
saimlầm là các vụ đàn áp. Nếu khi che chở họ, chúng ta nhắm mắt để
họ lôi kéo, chúng ta sẽ gây ra một phản ứng dữ dội chống lại những
nhà nho một cách không kém dã man, không kém tàn bạo như những vụ
đàn áp bây giờ” (Rheinart gửi Dupré, Thư khố Trung ương
Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).
Sự bảo hộ của chính quyền thực dân với tín đồ Công giáo có
nguy cơ bị lung lay trước chínhsách của Philastre. Nên Giám mục
Puginier đã phản đối mạnh mẽ chính sách này bằng một bức thư gửi
Dupré:
“…Nếu Pháp rút lui hay
không hành động theo tình thế đòi hỏi thì điều đó sẽ đưa đến tai họa
cho tất cả con chiên và tạo nên hỗn loạn to lớn cho xứ này. Tất cả
những ai hân hoan khi sứ giả Ngài đến sẽ mất lòng kính trọng nước
Pháp, cảm tình của họ sẽ dễ dàng biến thành hận thù, nếu lòng tin
cậy của họ đối với Pháp kết thúc đau đớn bằng nỗi thất vọng ê chề…
Trong tình cảnh xáo trộn và đầy đe dọa hiện nay của xứ này, muốn bảo
vệ hữu hiệu cần phải có một đạo quân khá hơn độ 8,000 binh sĩ và hai
tàu chiến mới. Mục đích của đạo quân đó không phải là gây chiến mà
là trừng trị những kẻ phá hoại hòa bình”.
Giám mục Puginier đã uổng công khi đích thân vào Sài Gòn để
bàn trực tiếp với Dpuré:
“Những lần nói chuyện của
tôi với Giám mục đó trước khi ông rời Sài Gòn không thay đổi lòng
tin của tôi, vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình
bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến cáo hãy bỏ đi
chính nghĩa đã tạo được nước Pháp nhiều tình cảm dân chúng khi theo
đuổi một đường lối mà những người khen Garnier là anh hùng phải bị
kết án, những người này không biết được những khó khăn của tình thế
mà viên sĩ quan khốn nạn đó đã để lại cho chúng ta”
(Dupré gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, 30-12-1874, Thư khố Pháp
quốc Hải ngoại A30 (25) hộp 13).
Có hai thuyết chống đối nhau về vấn đề này: Một mặt Philastre
không bao giờ nghi ngờ thiện chí của triều đình Huế và thuộc hạ của
họ; mặt khác các kẻ truyền đạo và một vài người Pháp nhiễm đầy ý
kiến của Giám mục Puginier đã không ngừng tố cái vai trò nước đôi
khéo léo của các quan, những người đồng lõa với nhà nho. Puginier
từng phản ứng:
“Chỉ cần bắt hai tên đó
cùng 3, 4 tên khác xử tử vì các vụ mưu sát năm 1868 là đủ để lập lại
thanh bình, nhưng các quan không chịu làm, sự đồng lõa của họ thật
rõ rệt. Còn các lời đãi bôi, các tuyên cáo v.v… của họ chỉ là một
trò hề”.
Giám mục Puginier là người có thế lực nhất và hiếu chiến nhất
tại Bắc Kỳ, là cố vấn có quyền uy nhiều nhất trong chiến dịch
Garnier và nhất là sau khi tên này qua đời. Các linh mục Pháp hưởng
ứng sự mong ước của Dupré đã tự nguyện giúp đỡ cho đồng bào họ.
Hàng ngàn tín đồ Thiên Chúa
Việt Nam có các linh mục dẫn đầu, cắm cờ tam tài, gia nhập vào đoàn
quân bé nhỏ của Garnier để chiến đấu bên cạnh người Pháp, cùng để
cướp bóc, đốt nhà, giết người và trả thù:
“Từ ngày thành lập các lũ
người vẫn tin theo lời Giám mục Puginier gieo rắc sự khủng bố, cướp
bóc và chết chóc trong các làng đạo, các tổng đốc các tỉnh không làm
hay gần như không làm gì cả để ngăn chặn hữu hiệu những sự lộn xộn,
nhất là trong tỉnh Nam Định… Giám mục Puginier biết rõ là không phải
và ông cũng biết rõ ai là người mà những lời khuyên bảo tai hại của
họ đã một phần gây ra các đau khổ này, ông cũng biết vai trò thiếu
thận trọng và có lúc dã man của các con chiên… Cảnh rối loạn này,
chính chúng ta và nhất là chính những kẻ hiện phải gánh chịu cảnh đó
đã gây tạo ra” (Thư Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư
khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 11689, số 30)
“Tôi cho rằng các nỗi lo
sợ của Giám mục Puginier đã được phóng đại… Tôi cho rằng chỉ còn
phải sợ các xáo trộn trong dân chúng tôi. Giám mục Puginier tin là
sẽ nổ ra một cuộc cách mạng. Nên biết rằng vị Giám mục này đã can dự
nhiều trong các việc làm của ông Ganier, ông đã có những ý tưởng dứt
khoát và muốn lật triều Nguyễn để lập lại họ Lê” (Thư
Philastre gửi Dupré, 6-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc
11689, số 69 và 76)
“Tôi tin rằng Giám mục
Gauthier và Giám mục Puginier nhất là ông sau này không chịu nổi ý
kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: giải pháp này sẽ phá tan hy
vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này
có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công giáo lại càng
phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người
chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ… Suốt
ngày chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân
chinh phạt các tỉnh đó” (Thư Philastre gửi Dupré,
15-1-1874)
“Suốt ngày tôi tiếp những
người tự xin điều khiển các binh lính mà họ tụ tập thành từng toán
100, 150 người, tất cả đều được các cha xứ gửi gắm, nhưng tôi cố
phản ứng không mích lòng một ai để chống lại những khuynh hướng tràn
ngập của các tín đồ Thiên Chúa” (Thư Harmand gửi Garnier
16-12-1873).
“Tôi vẫn cứ tiếp khách
mãi: Họ nối đuôi nhau trước túp lều tôi từ 7 giờ sáng cho đến tối,
tôi phải tiếp mãi những người đến khiếu nại hay xin xỏ: kẻ thì xin
được giúp đỡ che chở, kẻ thì tụ tập được một số người rồi đến xin
khí giới để trang bị và cấp bằng chỉ huy, sau rốt có kẻ, và đây là
số đông đến xin giúp việc thư ký, công chức đủ hạng, và còn xin được
bổ làm tri phủ, tri huyện. Tất cả hình như hầu hết là tín đồ Thiên
Chúa và một phần ở tỉnh Ninh Bình kế cận, do các linh mục cử sang.
Trong những trường hợp gay cấn này, tín đồ Thiên Chúa đã biểu lộ một
sự tham lam trơ trẽn, vừa thiếu dè dặt vừa đầy ích kỷ… Họ tỏ ra rất
thô thiển. Họ xem việc chúng ta đến đây như là đánh dấu cho giờ phục
thù và trả đũa; về phần những nhà truyền giáo, ngay từ đầu có lẽ họ
đã đưa ra những lệnh nghiêm ngặt; nhưng chắc chắn sau đó họ bị tràn
ngập. Mỗi ngày tôi nhắc đến chục lần: “Thế ra các ông cho rằng chúng
tôi đến đây để gây một cuộc chiến tranh tôn giáo hay sao? Chúng tôi
đến đây với mục đích thuần túy thương mại. Dù các ông có là giáo là
lương, là Trung Quốc cũng không phải là điều quan trọng… Tôi nói
thêm, không phải mọi người Pháp đều theo đạo Thiên Chúa đâu, điều
này khiến họ hết sức ngạc nhiên” (Thư Harmand gửi
Testard du Cosquer, 16-1-1874).
Khi triều đình Huế bị các khiếu nại của các Giám mục đè ép,
muốn bắt các “làng không đạo phạm tội” bồi thường, đòi quyền hưởng
thụ và sở hữu các đất đai vắng chủ, gây nên sự thù ghét của những
người phi Công giáo, Rheinart viết:
“Điều 9 luôn luôn đem lại
cho chúng ta các khó khăn, vì rằng các con chiên đã làm bậy khi lập
nên một chính đảng chính trị muốn ở ngoài pháp luật của xứ này và tự
cho là độc lập. Không có nước nào vô tư cho bằng nước An Nam về vấn
đề tôn giáo, và nếu các phái bộ chỉ lo giảng đạo, họ không có gì
phải lo cả” (Rheinart gửi thống sứ Le Myro de Vilers,
19-8-1879, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 10443/8).
“Giới tăng lữ Thiên Chúa
An Nam thích thú ỷ dựa vào việc chúng ta ủng hộ để gây sức ép lên
dân lương. Họ đã bám vào sự che chở của chúng ta bằng cách đổi đạo,
dù thành thật hay không; sự kiêu hãnh công thêm vào lòng hăng hái
tôn giáo thúc đẩy họ đi cù rũ người theo đạo khắp nơi… chúng ta bảo
đảm tự do tôn giáo, nhưng tuyệt đối chúng ta không ham mê gì các vụ
đổi đạo mau lẹ và đông đảo cả” (Thư Rheinart gửi Dupré,
28-10-1876, số 248).
Suy nghĩ về việc Pháp có thể bất ngờ bị thất bại ở Bắc Kỳ, Le
Myre de Vilers đã tự phê bình:
“Đáng lẽ phải là những
đồng minh tự nhiên của Thiên quốc, khốn thay, chúng ta lại tự xưng
là những tay quán quân của đạo Thiên Chúa cùng việc tuyên truyền tôn
giáo, là việc mà trong nước này, chỉ là tuyên truyền làm loạn, và đã
xảy ra điều bất thường là, dù dưới hình thức chính phủ nào, nước
Pháp dân chủ lại đi dạy các thuyết duy thần cho một dân tộc đã đưa
nền dân chủ đến chỗ xã thôn tự trị… Vì thế chúng ta trở thành kẻ thù
không những của Thiên quốc mà còn của một dân tộc chân thật vốn chỉ
xem chúng ta là những bạn đồng minh…” (Thư Le Myre de
Vilers gửi Bộ trưởng Hải quân, 19-1-1882, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải
ngoại, A30 (54) hộp 16).
Mọi cố gắng của Giám mục Puginier đều ngăn chặn không cho
chính sách Pháp bước vào con đường cai trị là tôn trọng các định chế
của xứ bị trị, tôn trọng luật pháp, phong tục và nhất là tìm cách
liên minh với các tôn giáo bản xứ, khuyến khích sự phát triển và
dùng nó làm trung gian giữa dân bản xứ và giới chức thuộc địa. Xâm
lược, thống trị, đồng hóa là 3 ý tưởng chủ chốt toát lên từ nhiều
văn thư, điều trần của Giám mục Puginier. Và các văn thư này đều
nhằm mục đích chứng minh cho giới chức Pháp thấy rằng, ngoài tín đồ
Thiên Chúa giáo ra, tất cả đều là kẻ thù.
“Trước khi nghĩ đến việc
giảm quân, cần phải tiêu diệt tối đa mầm mống nổi loạn. Chinh phạt
là con đường rất đúng, sẽ còn phải chi tiêu nhiều hơn nữa, nhưng
phải có những hy sinh đó…” (Văn thư về vấn đề Bắc Kỳ,
3-1884, thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A00 (30) hay N.F.541).
Giám mục Puginier chủ trương rằng cuộc xâm lăng phải được
tiến hành mạnh mẽ và mau lẹ. Phải đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt
trước khi nó hồi phục:
“Tôi thấy đồng thời bình
định Bắc Kỳ và Trung Kỳ còn dễ hơn chỉ là bình định Bắc Kỳ. Kẻ thù
không có sẵn lực lượng và phương tiện to lớn lắm, sẽ bị đồng thời
tấn công khắp nơi và sẽ không thể kịp tiếp viện cũng như chỉnh đốn
lại, sẽ phải kiệt lực…” (Văn thư dùng để nghiên cứu một
trong các giai đoạn của vấn đề Bắc Kỳ: Cuộc khởi nghĩa 13-9-1886,
Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 1178)
“Theo tôi, trước hết cần
có một hoạt động toàn diện, một cuộc săn đuổi thực sự. Một cuộc hành
quân phối hợp gồm các toán quân nho nhỏ hỗ trợ cho nhau đồng thời
tiến vào nhiều làng trong một vùng sẽ làm cho bọn cướp rối loạn…
Làng nào đồng lòng với quân phiến loạn và kẻ nào thực sự bước theo
phe kháng chiến, khi đã biết được chúng nhờ vào các tin tức chắc
chắn, nhất định phải nghiêm trị và các tâm gương này sẽ gây nên một
tác dụng tốt trong dân chúng” (Tình hình Bắc Kỳ ngày
25-1-1891, văn thư gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa ngày
5-2-1891, thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại, A00 (30) hộp 2).
Theo Giám mục Puginier, kẻ thù ở khắp nơi còn bạn bè thì
không có ở đâu cả ngoài những người theo Thiên Chúa giáo, y đã lập
nên danh sách các “thủ phạm” gồm:
1. Đầu tiên chính là triều đình Huế. Năm 1884, hai quan Nhiếp
chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là tác giả chính của cuộc
“phiến loạn”.
2. Những quan lớn ở các tỉnh (như: Tổng đốc, Bố chánh, Án
sát, Lãnh binh).
3. Phần đông quan lại dù là tại chức.
4. Tất cả các Nho sĩ.
5. Chánh tổng, Lý trưởng.
6. Các làng không Thiên Chúa giáo, bên cạnh các khu giáo dân.
(Báo cáo 27-3-1884, Thư khố Trung ương Đông dương, đô đốc
11624 và bản nghiên cứu về tình hình Bắc Kỳ, 10-6-1890, thư khố Bộ
Pháp quốc Hải ngoại, A00 (30) hộp 2).
“Tôi xin xác định rằng,
khi nào Bắc Kỳ thành Thiên Chúa giáo thì nó cũng sẽ thành một nước
Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo của Philippines đã trở thành
một nước Tây Ban Nha nhỏ… Chắc chắn các nhà truyền đạo là một sức
mạnh tinh thần to lớn nhất trong một thuộc dịa. Chính họ đã làm cho
thuộc địa biết chân tướng nước mẹ để mến yêu… Tôi xin cả quyết rằng:
Nước pháp không có bạn bè nào tốt hơn là các nhà truyền giáo và con
chiên, cũng không có kẻ phụng sự nào trung thành hơn và vô vị lợi
hơn. Vừa hoạt động để tôn vinh Chúa trời cứu rỗi linh hồn, tôi vẫn
từng nói các nhà truyền giáo tự thấy có bổn phận làm cho tổ quốc
mình được hiểu biết và mến yêu, vừa dạy con chiên kính trọng và
trung thành với mẫu quốc… Sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi
xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần, ban đầu bằng tiếng
An Nam, rồi bằng tiếng Pháp, như là phương tiện rất chính rtị, rất
tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ
ở Viễn Đông” (Thư giám mục Puginier gửi Bộ trưởng Hải
quân và Thuộc địa, 6-5-1887, thư khố Pháp quốc Hải ngoại A00 (30)
hay N.F 541).
Trong bài viết “Những bài
học ứng xử cần thiết”, Trương Công Khanh cũng đã trích
dẫn những cứ liệu trong Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo
qua các triều đại nhà Nguyễn 143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại
1945 (Lý Kim Hoa sưu khảo, biên dịch, NXB Văn hóa Thông tin, 2003)
có nêu lên những vụ việc chiếm phá chùa chiền sau:
“Ngày 13 tháng Giêng, Tự
Đức (1848-1883) năm thứ 31, Thương bạc tâu việc dân Nghệ An phải đem
đền thờ, chùa chiền bồi thường cho dân đạo Thiên Chúa: Bọn thần
Thương bạc tâu (châu điểm): 5 giờ chiều hôm qua, bọn thần đến dinh
Thương bạc, một lúc thì tiếp sứ Pháp đến mời vào dinh tòa cùng nhau
hỏi han. Bọn thần bảo rằng lương dân Nghệ An đã đem 18 sở đền chùa
bồi thường cho giáo dân, trong đó có 10 sở đã triệt hạ rồi chỉ còn 8
sở”. (sđd, trang 450)·
Ngày 11 tháng 4, Thành Thái (1889-1907) năm thứ 8, Cơ mật
viện tâu việc quyền khâm sứ đòi giỡ chùa trong thành nội để cất nhà
thờ đạo: Bọn thần Cơ mật viện tâu (châu điểm): “Ngày
4 tháng này tiếp quyền khâm sứ đại thần Mô Li Ê thương nghị (…) Lại
thương nghị nói rằng về khoản nhà thờ đạo phía sau kinh thành, rằng
tuy có sắc bảo nhưng ngại khó tuân hành. Bọn thần xét nghị chỗ đất
này nguyên có chùa Phật vì từ khi sụp đổ đến nay chưa có ngân sách
dồi dào nên chưa tu bổ, nay lại phá chùa Phật để cất nhà thờ đạo là
một điều không thuận. Huống chi trong thành nội từ trước đến nay
chẳng có giáo dân có nhà ở đây vậy mà cất nhà thờ đạo là hai điều
không thuận. Vậy đề nghị nên triệt hạ nhà thờ đạo này và cho tùy ý
chọn cất ngoài sông bên ngoài bốn phía kinh thành… Bọn thần Cơ mật
viện hai ba lần thương nghị giải thích như vậy nhưng quyền khâm sứ
nhất định không nghe…” (sđd, trang 821)·
Ngày 26 tháng 11, Duy Tân (1907-1916) năm thứ nhất, Phụ Chánh
tâu việc Ngô Đình Khả cất nhà thờ đạo Thiên Chúa trên nền chùa Linh
Hựu trong thành nội: "Bọn thần
phủ Phụ chánh tâu (châu điểm): Tháng 11 năm thứ 17 tiếp được thư của
nguyên quyền khâm sứ đại thần Mô Li Ê nói thượng thư Ngô Đình Khả
cất nhà thờ đạo bên trong hoàng thành là rất không hợp, thần phủ nên
lập tức tra xét rõ nghiêm xử, chiếu theo phận sự mà quy trách nhiệm…
Vậy xin chiếu trọng luật về tội không được làm mà làm xử thượng thư
Ngô Đình Khả 80 trượng, giáng 3 cấp rời khỏi chức vụ, được giảm tội
danh và phải triệt hạ giáo đường, việc này đã thương nghị cùng
nguyên quyền khâm sứ đại thần xét biện.
Tháng 7 năm ngoái phụng thương chuẩn triệt hạ
giáo đường trong thành nội và cho tùy ý xây cất ở bốn phía sông bên
ngoài kinh thành. Kế đó căn cứ viên ấy trình xin trả giáo đường này
sửa lại làm chùa để lưu giữ tích cũ, viên ấy xin lãnh tiền quan 300
đồng đem về mua sắm vật liệu và xin cất giáo đường mới ở nền nhà kho
cũ xã Tiên Nộn…”
(sđd, trang 872)
Trương Công Khanh còn nhận xét: “Có thể nói những bản tấu đã được vua phê duyệt đã phần nào nói đến tính
quyết đoán của luật pháp bấy giờ, có nghĩa rằng cái gì anh đã chiếm
phá, xây dựng bằng hành vi làm trái thì phải phá bỏ, bởi cho dù ở đó
là một ngôi chùa mục nát, thì cũng sẽ được tu bổ lại. Chỉ tiếc rằng
chùa Báo Thiên là một ngôi chùa trong những ngôi chùa ở quá xa kinh
thành nên không giữ được vì “nước xa không chữa được lửa gần”.
Và cũng phải kể đến âm mưu của Nguyễn Hữu Độ khi
cùng với Giám mục Puginier chiếm phá chùa Báo Thiên, trong khi nhẽ
ra ông ta phải tâu với triều đình về việc tu bổ, sửa sang lại chùa”.
Những cứ liệu rõ ràng về việc chiếm phá chùa chiền nói chung
và chùa Báo Thiên nói riêng là một “hệ thống ý thức đồng hóa” của
giáo sĩ thừa sai mà “Giám mục” Puginier là một quán quân.
Với chùa Báo Thiên, không cần phải tìm đến nhiều tài liệu dài
dòng, chỉ cần đọc lại hồi ký của Công sứ Bonnal đã quá đủ để minh
chứng nó đã bị chiếm phá để xây nhà thờ Lớn như thế nào, vậy mà
“linh mục” Thiện Cẩm vẫn còn nhì nhằng cãi chày cãi cối: “Nếu
như lịch sử chứng minh được rằng đất nhà Chung Hà Nội, bao gồm cả
nhà thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục hiện nay và Tòa Khâm sứ đang tranh
chấp là đất chùa Báo Thiên và đã bị Tây chiếm đoạt đem cho các cố
Tây… thì tôi tin rằng Giáo hội Công giáo chúng tôi sẽ chẳng ngần
ngại gì mà không trả lại cho Phật giáo, cũng như Đức Tổng Giám mục
Duval đã trả lại ngôi nhà thờ Chánh tòa Alger cho Hồi giáo, sau khi
Angérie được độc lập, vì lý do ngôi nhà thờ đó vốn là một đền thờ
Hồi giáo”.
Những lập luận “đất vô chủ” của một số người càng trở nên
thiếu căn cứ và ngụy biện, vì rằng cái gì đã là di sản thì dù nó có
nằm sâu dưới lòng đất, chúng ta cũng phải đưa nó lên và bảo quản.
Nếu nói về những “di sản vô chủ” thì những văn miếu của Nho giáo,
những ngôi đền thờ thần thành hoàng, thờ danh nhân, những khu di
tích được khai quật… làm gì còn nho sĩ, hậu nhân nào, chẳng lẽ cũng
tùy tiện chiếm phá hay sao?
Chùa chiền, miếu mạo là di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam,
của nhân dân Việt Nam, cho dù chiến tranh có tàn phá nó chỉ còn cái
móng, hay nền đất không thì cũng sẽ được nhân dân không phục lại.
Không có cái lý luận “vô chủ” nào có thể áp đặt lên những di sản văn
hóa của dân tộc. Đất di tích, di sản, hương hỏa không thể bị tiêu
diệt thời hiệu, đó là nguyên tắc pháp lý chung ở mỗi dân tộc. Và đó
là điều mà mỗi người dân Việt Nam luôn ghi nhớ.
(*) Chúng tôi đã trích dẫn những cứ liệu trên từ chương 3 (phần 2)
đến chương 1 (phần 3).
Quý vị có thể tìm đọc lại những cứ liệu này và nhiều hơn nữa những
tư liệu nói về chính sách của đạo Thiên Chúa trong luận án tiến sĩ
của Giáo sư Cao Huy Thuần: “Đạo
Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam”. Hiện nay
luận án này đã được in thành sách “Giáo sĩ thừa sai và chính sách
thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857 - 1914), NXB Tôn Giáo, 2003).
Trần Điều
(Theo Blog Sen Việt)
|