Của Ananda và Perter:
Khi thân xác chối từ
-
22.12.2008 |
Nguyễn Hữu Liêm
Trong
dịp hai lễ Thích Ca Thành Đạo và Jesus Giáng Sinh vào cuối năm,
chúng ta hãy tìm đọc kinh Phật và Chúa để chiêm nghiệm lại một
vài ý nghĩa của cơ sự làm người. Có những mẫu chuyện mà có lẽ
nhiều người trong chúng ta đã nghe và đọc qua rồi, nhưng ý nghĩa
ẩn dụ vẫn còn dấu kín. Sau đây là hai câu chuyện của Ananda và
Peter - đôi cột trụ lớn của hai truyền thống đạo lý trọng yếu
của nhân loại. Ananda là của Đông phương; Peter Tây Phương. Mỗi
nhân vật là một hiện thân từ chữ Đạo, tuỳ duyên mà ứng hiện
trong sự lớn lao vô cùng huyền diệu về hiện tượng con người.
Trong Surangama Sutra, tức kinh Lăng Nghiêm, có thuật lại câu chuyện
của Ananda, một trong những đại đệ tử hàng đầu của Phật Thích Ca Mâu
Ni. Hôm ấy là ngày giỗ tổ, Ananda đi khất thực một mình. Ông gặp một
nàng thiếu phụ xinh đẹp và khiêu gợi tên là Matanga. Nàng ta dùng thần
chú Ấn giáo để khích dụ ông vào phòng ngủ của mình. Dù là một đệ tử
cao cấp của Phật, nhưng công phu tu tập chưa đến hạng siêu thừa, vốn
thêm là một bậc trí giả thiên về lý luận, phiên giải, Ananda suýt nữa
là bị vấp ngã. May nhờ lúc đó, Phật đã phải dùng thần chú Lăng Nghiêm,
để thức tỉnh Ananda, kêu gọi ông và nàng Matanga trở về diện kiến
Phật. Gặp Phật, Ananda cảm thấy xấu hổ, khóc lóc. Ông quỳ xuống đảnh
lễ đức Phật, tự giận mình là người học rộng, nghe nhiều mà đạo lực vẫn
chưa toàn. Trước mặt nhiều môn đồ và đệ tử khác, Phật an ủi Ananda,
xong rồi truy hỏi ông về "dâm ái," "vọng tưởng" và "chân tâm." Kinh
Lăng Nghiêm là bộ kinh ghi chép những gì mà Ananda nhớ lại từ những
câu tra vấn và thuyết giảng của Phật cho Ananda và thánh chúng nhân
dịp pháp thoại này.
Lăng Nghiêm là một đại phẩm tước cơ bản về siêu hình học Phật giáo. Nó
đứng song song với kinh Kim Cương, một tác phẩm tri thức luận. Hai tập
kinh này được biên tập là nhờ công của Ananda. Với một trí nhớ phi
thường, Ananda đã nhớ rõ hầu hết các bài giảng của Phật. Hai trăm năm
sau khi Phật lìa trần, trí nhớ và sự kể lại của Ananda đã được ghi
chép thành kinh văn trong những đại hội "kiết tập." Vì thế, nếu như
không có Ananda thì gia tài kinh điển của Phật giáo sẽ không được dồi
dào, phong phú như vậy. Tuy nhiên, trên cơ sở tu học thì Ananda là
người đắc đạo chậm nhất. Có hai thứ làm cản trở con đường chứng đạo
cho Ananda. Thứ nhất, khả năng trí thức siêu việt của ông; và thứ hai,
năng lực dục tình vốn chưa hoàn toàn được chuyển hóa. Andanda được
coi như là đứa em út trong hàng đệ tử của Phật hồi ấy. Ngài đã tỏ ra
thân ái và thương yêu Ananda rất nhiều cũng chỉ vì ông là người kém
chậm nhất trên đường tu chứng. Nhưng Phật cũng biết rằng chính Ananda
sẽ là nhân vật phát huy chánh Pháp hiệu năng hàng đầu. Và như lịch sử
đã chứng minh, Ananda đã là "viên đá trọng yếu" và là "chìa khóa" cho
sinh lực đạo Phật - mà nếu không có, Á Đông không thể như đã là.
Ananda là biểu tượng của thân xác và tri thức trên con đường giác ngộ
chân Tâm. Trong tinh yếu của tu học, Phật pháp không thể hiển dương
nếu không phải khởi đi, và đối đầu với, để vượt qua hai năng lực lớn
lao của cá thể. Đó là hai vế trí thức và ái dục giới tính. Cả hai đều
là hiện thân của tự-ngã. Một bên là ý chí thâu gọm thế gian qua "cái
biết" của mình; đằng kia là bản năng tồn hữu qua cơ năng thân xác. Khi
Ananda sắp bị nàng Matanga dụ dỗ, chàng suýt nữa là rơi vào năng lực
xác thân. Đây là một khổ nạn mà truyền thống tu học nhà Phật gọi là
"nạn Ma Đăng Già." Sự "ngã ngựa" của Ananda là một thời quán thiết yếu
trên con đường đi đến giác ngộ. Bởi vì chính từ bản thể của sinh hiện,
mỗi cá nhân tự mình là một sự chối từ, một vọng tưởng trong chân Tâm,
để mang trong tim một gánh nặng chủ quan lạc giòng.
Bây giờ, chúng ta hãy đi sang Kinh Tân Ước. Trong chương Matthew
26-27, đoạn kể về Peter, một môn đệ hàng đầu (Apostle) của Chúa Jesus.
Trước đêm bị bắt và đóng đinh trên thâp tự giá, Chúa Jesus đã cùng
dùng cơm tối với 12 môn đồ. Ngài làm phép thánh bằng bánh mì và rượu
xong rồi đưa cho các đệ tử mà nói, "Hãy lấy bánh này mà ăn vì nó là
thân xác của ta; hãy uống từ cốc này vì đây là máu của ta." Và Chúa
tuyên bố rằng đêm hôm ấy, các đệ tử có mặt sẽ mất đức tin trước mặt
Ngài. Peter trả lời rằng ông không phải là người như thế. Chúa nhìn
Peter mà nói, "Ta nói cho ngươi nghe, trước khi gà gáy sáng mai, nhà
ngươi sẽ từ chối ta ba lần." Và y đúng như vậy. Đêm hôm ấy sau khi
Chúa đã nhắn nhủ Peter rằng, "Tinh thần thì cao, nhưng thân xác vốn là
yếu," Peter đã từ chối Chúa Jesus đúng ba lần với những kẻ đang truy
bức Ngài. Lần cuối cùng khi Peter từ chối Chúa vừa xong thì tiếng gà
gáy sáng vang lên. Peter nhận thức ra lỗi lầm của mình và - như Ananda
đã - bật khóc nức nở.
Và cũng như Ananda, sau khi Chúa Jesus đã qua đời, Peter là người đã
nắm "chìa khóa của giọt máu" từ Chúa (máu là tinh thần). Peter, một
thiên tài về tổ chức, là "viên đá linh hiển" để cùng với môn đồ Paul,
một lý thuyết gia, xây dựng lên giáo hội Thiên Chúa. Không có Peter
thì không có giáo hội La Mã như gần hai ngàn năm qua. Từ một kẻ đã phủ
nhận Chúa, Peter đã trở nên một nhân vật hàng đầu cho sự thành hình và
phát huy đạo Chúa. Kẻ chối từ nay đã trở nên kẻ minh định. Nói như
Hegel, "Đánh mất chính mình để tìm ra chính mình là con đường của Tinh
thần."
Cả hai Peter và Ananda là hiện thân từ thể xác; trong khi Chúa Jesus
và Phật Thích Ca là Tinh thần. Cả hai đệ tử hàng đầu này là những
người đã ngã ngựa trước Phật và Chúa - nhưng lại đứng lên được. Và đây
là bài học trong câu chuyện: Trong cơ sự làm người, ý chí vực dậy sau
khi ngã xuống chính là chìa khóa cho sự chuyển hóa từ thân xác sang
Tinh thần. Không ai đã làm người ai mà không có lúc bị té ngã. Điều
quyết định là ở chỗ hắn ta có ý chí đứng dậy làm lại cuộc đời hay
không. "What does not kill me only makes me stronger." Cái gì không
giết chết ta thì chỉ làm cho ta mạnh thêm mà thôi.
Trong lịch sử của hai tôn giáo Chúa và Phật, còn có hai nhân vật khác,
Nagarjuna (Long Thọ) và Augustine. Tuổi trẻ của hai nhân vật này cũng
có mang đầy dục vọng. Sau khi đã trải nghiệm tuổi trẻ qua đời sống
thân xác, từ biến cố tử sinh, hai người đã ý thức về Đạo để chuyển hóa
chính mình thành bậc thánh. Ý nghĩa? Không ai có thể đến với cõi Tinh
thần nếu mà thân xác, tức là năng lực dục vọng, đã không một lần từ
chối Tinh thần. Nhưng cuối cùng năng lực thân xác sẽ phải "chết" đi,
tức là được chuyển hóa, để cho Tinh thần được sống lại. Đó là tinh hoa
trong câu chuyện Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, chết đi,
rồi phục sinh trong sự sống vĩnh hằng.
Thân xác sẽ chối từ ý chí cứu cánh mỗi cá nhân. Và không như Peter,
thân xác sẽ phủ nhận Tinh thần, không những chỉ có ba lần trong suốt
cuộc đời, mà là ba lần trong một ngày. Cho đến khi "gà gáy" báo hiệu
bình minh đến, thì thân xác mới tỉnh thức mà đứng dậy - như Peter đã.
Cũng như thế, Ananda đã vùng dậy chạy thoát ra khỏi bàn tay vuốt ve
của nàng Matanga nhờ linh lực thần chú Lăng Nghiêm, tức "cứu cánh kiên
tâm," của Phật.
Sau này trên con đường truyền giáo, trong hai lá thư gởi cho các tín
hữu, Peter đã nhắn nhủ, "Hãy đi tới để mà chính mình được dựng nên.
Hãy là những viên đá sinh hữu nhằm xây nên ngôi đền Tinh thần linh
thiêng," Peter nhấn mạnh, "Hãy bổ sung đức tin bằng tiết hạnh, tiết
hạnh với kiến thức, kiến thức bằng tự chế, tự chế với quyết tâm, quyết
tâm với lòng thành, lòng thành trong tương ái, và tương ái với tình
yêu."
Và đức Phật, trong phần giảng pháp gần giữa kinh Lăng Nghiêm, đã cảnh
cáo Ananda rằng, "Ananda, nếu ông không nỗ lực tu hành - vốn trải
nhiều kiếp - thì Bồ Đề, Niết Bàn đối với ông hãy còn xa vời lắm. Dầu
ông có học nhiều, nhớ kỹ nghĩa lý nhiệm mầu suốt mười hai bộ kinh, thì
cũng chỉ giúp ông phương diện hý luận, chứ không giúp gì cho sự giải
thoát của mình."
Từ Ananda và Peter là một bài học biểu dụ bằng hai cuộc đời. Thân xác
và tri thức cả hai vốn là cần thiết, nhưng chưa đủ. Hãy suy rộng ra.
Khi ở vào thời điểm mà con người chỉ còn biết vào thân xác và tri
thức, để rồi bỏ quên năng lực Tinh thần, thì đó là một nền văn minh bị
lạc lõng và không định hướng. Dựa ý theo một mệnh đề của Kant thì,
"Tinh thần mà không có thân xác và tri thức là mù quáng; thân xác và
tri thức mà thiếu vắng Tinh thần đều là trống rỗng."
Nếu ai có mắt biết nhìn, tai biết nghe, đều phải nhận ra rằng khối
nhân loại ngày nay đang bỏ quên giá trị Tinh thần để mà tôn vinh thân
xác và tri thức. Trên bàn thờ cao nhất trong ngôi nhà sinh hữu của hắn
đang có hai vị thần đế đang ngồi chễm chệ. Bên trái là thân xác, vốn
chỉ biết phủ nhận; bên phải là tri thức, vốn chỉ mang kiêu hãnh. Ít ai
biết đến rằng Tinh thần đang bị áp đặt trong chiếc hòm đậy kín nằm sau
lưng bức liễn chói lọi. Và sẽ có một ngày, rất gần, chủ nhà sẽ nhớ
lại, qua tiếng gà gáy báo hiệu bình minh, hay là bằng thần chú Lăng
Nghiêm huyền diệu, để mà lên tiếng kêu cho Tinh thần đội hòm sống dậy.
Đó cũng là khi mà hai thể loại con người Đông và Tây, của Ananda và
Peter, sẽ hóa nhập thành thân để uống chia cùng một giọt máu mới của
Tinh thần. Đây chính là lúc mà nhân loại được trùng tu.
Bài
đăng trong mục này là quan điểm riêng của tác giả, Phù Sa hoàn toàn không có trách nhiệm. |
|