Bệnh
trầm cảm
Trước đây, Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) đã dự đoán rằng năm 2020 sẽ có khoảng 121 triệu người
mắc bệnh trầm cảm, bệnh này cướp đi mỗi năm trung bình 850 000 mạng
người và bệnh này là căn bệnh xếp hạng 2 trong số những căn bệnh phổ
biến toàn cầu.
Thế nhưng, ngày 10/ 10/ 2012 (Ngày Sức khỏe Tâm thần
Thế giới) vừa qua, WHO cho biết hiện nay trên thế giới đã có hơn 350
triệu người đang mắc bệnh trầm cảm và mỗi năm có khoảng 1 triệu
người tự tử (trung bình mỗi ngày có 2900 người tự tử). Điều này cho
thấy số người mắc bệnh trầm cảm trên thế giới đã tăng quá nhanh
trong những năm tháng gần đây.
Bệnh trầm cảm xảy ra ở mọi
lứa tuổi từ trẻ em đến vị thành niên, người trưởng thành, phụ nữ sau
khi sanh đẻ và ngay cả người có tuổi. Nó không chỉ xảy ra ở những
nước giàu có mà còn xảy ra ở những nước nghèo, do điều kiện vật chất
và các yếu tố xã hội như tôn giáo, danh dự, ý nghĩa cuộc sống….
Theo The Huffington Post,
ngày 27/7/2011 thì: Trung bình tỷ lệ dân số mắc bệnh trầm cảm ở 10
nước giàu là 15% và ở các nước nghèo là 11%. Nước Pháp có tỷ lệ cao
nhất là 21%, trong 5 người Pháp thì có 1 người bị mắc bệnh trầm cảm
trong cuộc đời của họ. Kế đến là nước Mỹ: 19,2%, Brazil: 18,4%, Hà
Lan: 17,9%, New Zealand: 17.8%, Ukraine: 14.6%, Bỉ: 14.1%, Colombia:
13.3%, Lebanon: 10.9%, Spain: 10.6%, Israel: 10.2%, Germany: 9.9%,
Italy: 9.9%, South Africa: 9.8%, Ấn Độ: 9%, Mexico: 8%, Nhật: 6.6%,
Trung Quốc: 6,5%,
Tại Mỹ, hiện nay có khoảng
27 triệu người mắc bệnh trầm cảm (tăng gấp 3 lần trong 20 năm qua),
mỗi năm có trên 300,000 người tự tử, trong đó 60% là những người mắc
bệnh trầm cảm.
Tại Châu Âu, số người mắc
bệnh trầm cảm và tự tử tăng đột biến vì khủng hoảng. 1/4 dân số châu
Âu (tương đương 215 triệu người) sẽ bị rối loạn tâm lý bởi cuộc sống
quá khó khăn. Số lượng các ca yêu cầu điều trị chống trầm cảm ở Anh
đã tăng tới 28%, từ 34 triệu người trong năm 2007 lên 43,4 triệu
người trong năm 2011.
Tại Trung Quốc, hàng năm
có khoảng 300 000 người tự tử (thực tế có thể cao hơn?), khác với
các quốc gia khác là nữ tự sát nhiều hơn nam giới theo tỷ lệ 3:1,
nông thôn tự tử nhiều hơn đô thị theo tỷ lệ 3:1 .
Còn ở Việt Nam mình thì
sao?
Theo tài liệu của chính
phủ thì năm 2000, tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm là 2,47% dân số, nhưng
hiện nay con số này đã tăng trên 15%.
Theo báo cáo của buổi hội
thảo quốc tế về “Vấn đề toàn cầu hóa, thành thị hóa và sức khỏe tâm
thần” được tổ chức tại Huế vào ngày 25 ~ 27/11/2010 thì hiện nay 20%
dân số, tức khoảng 18 triệu người Việt Nam đang mắc các chứng bệnh
“tâm thần hiện đại”.
Theo ông La Đức Cương –
Giám đốc Bệnh viện Tâm thần T.Ư 1, có khoảng 12 triệu người (15% dân
số) đang có vấn đề về rối loạn tâm thần, trong đó phần lớn là bệnh
trầm cảm, sau đó là bệnh nặng hơn như tâm thần phân liệt, nghiện/lạm
dụng rượu, ma túy và chậm phát triển trí tuệ.
Theo TS Tô Thanh Phương
(Bệnh viện Tâm thần Trung ương) thì có khoảng 15% dân số nước ta có
vấn đề về sức khoẻ tâm thần. Phần lớn bệnh nhân trầm cảm nặng thuộc
lứa tuổi từ 16-35.
Theo Trung tâm Phòng chống
khủng hoảng tâm lý (PCP), có tới 25,4% người dân có ý định tự tử;
15,6% có kế hoạch tự tử và thực hiện hành vi tự tử là 4,2%. Thật lấy
làm ngạc nhiên khi biết có khoảng 3,78 triệu ngườiVN (4,2%) đã thực
hiện hành vi tự tử.
Có ý kiến cho rằng, thực
tế bệnh trầm cảm ở Việt Nam còn tệ hơn thế nếu có điều tra toàn quốc
theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Trầm cảm là một chứng rối
loạn tâm thần, có những triệu chứng rõ ràng như: Mất ngủ, mỏi mệt,
chán ăn, mất hứng thú trong các sinh hoạt, buồn rầu, khó khăn khi
tập trung, buông xui, vượt xa những cảm xúc buồn bã bình thường mà
mỗi người chúng ta thỉnh thoảng đều trải qua.
Ở phái nam, trầm cảm dễ
xảy ra khi bị
stress do căng thẳng trong công việc hàng ngày, kinh
tế chật vật, ân hận vì lỡ thua cờ bạc, hạnh phúc tan vỡ, người thân
mất, thay đổi chỗ ở, chỗ làm đột ngột, tương lai bấp bênh,…. Tỷ lệ
tự tử của nam giới bị trầm cảm nhiều hơn nữ gấp 4 lần. Mỗi khi đi
khám bệnh, nam giới có xu hướng chối cãi mình có vấn đề về tâm trí,
một phần là do không muốn bị mang tiếng mắc bệnh tinh thần, sợ ảnh
hưởng đến nghề nghiệp, mất uy tín trước bạn bè và gia đình,… Nam
giới vẫn thường phải chịu áp lực về sự thành đạt trong đời nếu không
làm được điều này (bị lép vế trong gia đình hay ở chỗ làm), nhiều
người ôm nỗi buồn đó một cách lặng lẽ, không muốn ngỏ cùng ai, do
đó dễ bị stress, có những cơn giận dữ đột ngột, không kiểm soát bản
thân, không thể quyết định được việc gì.
Ở phái nữ, triệu chứng
thường thấy nhất là buồn, âu sầu, hay khóc, thờ ơ, không thấy thích
thú gì với những công việc hàng ngày, kể cả chuyện tình dục, tuyệt
vọng hoặc thấy mình chẳng có giá trị gì, ngủ quá nhiều hoặc không
ngủ được hoặc ngủ li bì đánh thức cũng không tỉnh; không thèm ăn và
gầy đi hoặc ăn quá nhiều và béo lên; cảm giác mỏi mệt rã rời hoặc uể
oải, không tập trung chú ý được và không quyết định được việc gì,
cảm thấy trên thân thể đau đớn mà điều trị cũng không đỡ.
Đặc tính của bệnh trầm cảm
là cảm giác buồn bã kéo dài trong hai tuần lễ hay lâu hơn. Đây thực
sự là một căn bệnh hơn là một trạng thái cảm xúc.
Nguyên nhân đưa đến là do
từ 1 biến cố trong quá khứ xảy ra lâu dài, đau khổ, bị ức hiếp, lo
sợ một cái gì đó thành ra ám ảnh tác động đến tâm lý rồi dần dần tác
động lên thể lý. Người bệnh thường hay sợ nên dẫn đến đau khổ trong
tâm hồn nhưng không mấy ai hiểu, chia sẻ và giúp đỡ.
Có khoảng 25% số người mắc
bệnh trầm cảm được lành bệnh nhờ được điều trị kịp thời và đúng
phương pháp. Do đó, bệnh nhân trầm cảm cần được điều trị tích cực,
trường hợp nặng cần cho nhập viện để đề phòng tự sát.
Các phương pháp điều trị
trầm cảm bao gồm liệu pháp tâm lý, sử dụng thuốc và các liệu pháp
tái thích ứng xã hội. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành tâm thần với
cộng đồng và các thành viên trong gia đình người bệnh là yếu tố quan
trọng việc điều trị có hiệu quả cao.
Hiện nay, có nhiều loại
thuốc chống trầm cảm nhưng việc lựa chọn loại thuốc, liều lượng và
thời gian dùng phụ thuộc vào mỗi cá thể và phải do bác sĩ chuyên
khoa quyết định. Thời gian điều trị tối thiểu cũng phải là 6 tháng.
Nếu điều trị quá ngắn, bệnh sẽ dễ tái phát và nếu bệnh nhân có
nghiện rượu, ma túy thì cần phải được chẩn đoán phân biệt.
Một trong những nguyên
nhân chính gây ra bệnh trầm cảm là stress. 1 phần phát sinh ra do
xung khắc trong gia đình (do bất đồng ý kiến, hiểu lầm lẫn nhau), do
mặc cảm tội lỗi với gia đình vì 1 việc làm sai trái mà mình lỡ gây
ra.
Việc sớm gặp bác sĩ chuyên
khoa để được điều trị đúng phương pháp và sự giúp đỡ của mọi thành
viên trong gia đình là 2 yếu tố quan trọng để trị bệnh trầm cảm .
Trong cuộc sống hiện nay,
phần lớn cả vợ chồng và cả con cái, đều phải chạy theo thời gian để
theo kịp nhu cầu của cuộc sống mới, để sống còn trong thế giới cạnh
tranh ngày càng gay gắt . Nhiều gia đình đang thiếu sự lắng nghe,
chia xẻ và thông cảm cho nhau.
Do đó, việc quan tâm cho
nhau và dùng tình thương để trị bệnh trầm cảm là liều thuốc tốt
nhất?
Montreal, ngày 11/10/2012
(một ngày lạnh nhẹ có nắng )
Ngô Khôn Trí |