Tuệ giác và sự phục hồi sau
tai biến mạch máu não*
(My
stroke of insight)
CHƯƠNG 1
ĐỜI SỐNG CỦA TÁC GIẢ TRUỚC KHI TAI BIẾN NÃO
Tôi là nhà nghiên cứu tế bào não bộ, đã được huấn luyện, thực tập và
đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu. Tôi sinh trưởng ở thành phố
Terre Haute thuộc tiểu bang Indiana. Một người anh của tôi, chỉ lớn
hơn tôi 18 tháng tuổi, mắc bệnh tâm thần phân liệt. Anh được chính
thức chẩn đoán là mắc bệnh này ở tuổi 31, nhưng thực ra anh đã có
triệu chứng của bệnh từ nhiều năm trước. Từ thời thơ ấu, anh đã tỏ
ra khác hơn tôi về cách nhìn thực tại và cách đối xử với mọi người.
Do vậy, tôi rất có hứng thú tìm hiểu về bộ óc con người từ lúc còn
bé. Tôi đã thường tự hỏi, vì sao mà hai anh em cùng quan sát một sự
việc vừa mới xảy ra, lại có thể đi đến hai lời giải thích khác nhau.
Sự khác biệt về nhận thức, về cách tiếp thu và phân tích dữ kiện
giữa hai anh em tôi, đã thúc đẩy tôi trở thành một nhà khoa học về
não bộ.
Tôi bắt đầu 4 năm đại học từ cuối thập niên 1970 ở đại học Indiana,
thành phố Bloomington. Do sự giao tiếp với người anh của tôi mà tôi
rất muốn biết thế nào là một con người “bình thường” trên bình diện
trí óc. Lúc bấy giờ, khoa tế bào não bộ học hãy còn phôn thai và
chưa được giảng dạy ở đại học như một phân khoa riêng biệt. Nhưng
nhờ môn cơ thể học và sinh học mà tôi được biết ít nhiều về bộ óc
con người. Công việc đầu tiên tôi nhận được sau 4 năm tốt nghiệp
không ngờ là một ân đức lớn trong đời học hỏi. Tôi được tuyển làm
cán sự ở phòng thí nghiệm của viện đại học, mà thời gian được phân
chia làm hai phần: một là nghiên cứu về giải phẫu nhân thể học và
hai là giải phẫu tế bào thần kinh. Trong suốt hai năm, tôi say mê
trong lãnh vực y học này dưới sự hướng dẫn của giáo sư tiến sĩ
Robert C. Murphi, và tôi thích mổ xẻ cơ thể con người để tìm hiểu và
học hỏi.
Bỏ qua việc lấy bằng thạc sĩ, sáu năm kế tiếp tôi đã ghi danh học
chương trình tiến sĩ trong phân khoa sinh học. Năm đầu tôi học phần
lớn các lớp của y khoa, và công trình nghiên cứu của tôi lại chuyên
về giải phẫu tế bào thần kinh não dưới sự hướng dẫn của giáo sư tiến
sĩ William J. Anderson. Tôi tốt nghiệp tiến sĩ năm 1991, và cảm thấy
đủ tự tin để giảng dạy các môn giải phẫu nhân thể, giải phẫu tế bào
não và sinh học cho sinh viên ở đại học y khoa.
Trở lại thời điểm 1988, khi tôi đang làm công việc cán sự ở phòng
thí nghiệm nghiên cứu về não bộ, thì anh tôi chính thức được giới y
học xác định mắc phải chứng bệnh tâm thần phân liệt. Về phương diện
sinh học thì anh em tôi là hai hiện hữu gần giống nhau nhất trên thế
gian này. Nên tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi đã có thể đem ước mơ gắn
liền với thực tế và biến chúng thành hiện thực, còn bộ óc của anh
tôi thay vì làm việc đó thì lại chỉ phát sinh ra hoang tưởng? Vì
vậy, tôi rất hăm hở theo đuổi việc nghiên cứu bệnh tâm thần phân
liệt này.
Tiếp theo lễ tốt nghiệp tiến sĩ ở đại học Indiana, tôi được mời làm
việc trong chương trình nghiên cứu hậu đại học của trường đại học y
khoa Harvard, phân khoa thần kinh. Tôi đã nghiên cứu trong 2 năm,
dưới sự hướng dẫn của giáo sư tiến sĩ Roger Tootell, trên bộ phận vỏ
não liên quan đến thị giác. Tôi rất hứng thú trong công cuộc nghiên
cứu này vì đa số những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thường cho
thấy họ có cái nhìn rất bất thường khi quan sát những vật chuyển
động. Sau đó, tôi đã xin chuyển qua nghiên cứu ở phân khoa tâm thần.
Mục đích của tôi là được nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của giáo sư tiến
sĩ Francine M. Benes trong bệnh viện McLean. Tiến sĩ Benes là chuyên
gia nổi tiếng về việc giải phẫu não bộ những người bệnh tâm thần
phân liệt sau khi chết, để tìm hiểu và giải thích tại sao họ đã bệnh
như vậy. Tôi tin tưởng công trình nghiên cứu này sẽ giúp tôi chữa
trị được những người đã mắc chứng bệnh rối loạn não bộ như ông anh
của tôi.
Một tuần trước khi sang nhận công việc nghiên cứu mới ở bệnh viện
McLean, tôi được mời dự buổi điều trần hằng năm - năm ấy là 1993 -
của “Hội bạn người bệnh tâm thần toàn quốc” ở Miami, Florida. Lúc
đó, Hội có khoảng 40 ngàn hội viên có người nhà mắc bệnh tâm thần.
Hiện nay, 2009, con số đó đã tăng lên đến khoảng 220 ngàn. Chuyến đi
này làm thay đổi hẳn đời tôi. Ở cuộc điều trần, tôi đã hiểu được nỗi
đau của 40 ngàn gia đinh có thân nhân bị bệnh, cũng như gia đình
tôi, mà chưa tìm ra được nguyên nhân và cách cứu chữa. Hội họp ở đây
là để báo động cho chính quyền và những người có trách nhiệm trong
giới y học phải quan tâm giải quyết, vì đó là sự đòi hỏi của người
dân về công bằng xã hội. Khi trở về lại bệnh viện McLean để bắt tay
vào việc nghiên cứu bệnh, tôi rất hăm hở và đầy nhiệt tình. Không
những tôi muốn cứu anh tôi, mà tôi còn muốn cứu cả mấy mươi ngàn
người qua cuộc điều trần ở Miami. Với nhiệt tình tuổi trẻ, với sự
thông cảm nỗi đau của gia đình có người bệnh và với kiến thức của
một nhà khoa học về bệnh tâm thần, năm sau - 1994 - tôi được đề cử
vào ủy ban điều hành của Hội. Thật là một vinh dự và cũng là trách
nhiệm rất lớn lao với một người trẻ tuổi như tôi - mới có 35 tuổi,
trong khi tuổi trung bình trong ủy ban là 67. Hằng năm tôi đều tham
dự các cuộc họp tổ chức khắp toàn quốc để tường trình những tiến bộ
trong việc nghiên cứu của chúng tôi. Bấy giờ tôi lại được cho biết
rằng phòng thí nghiệm ở bệnh viện McLean thật sự cần thêm não bộ của
người bệnh đã chết để nghiên cứu. Một năm phòng thí nghiệm chỉ nhận
được có vài ba bộ não của người chết gửi tặng thì không đủ vào đâu.
Khi tôi đi tham dự các phiên họp, tôi đã kêu gọi sự đóng góp, thì số
não bộ hiến tặng đã tăng lên được 35. Nhưng hằng năm ngân hàng não
phải có trên 100 bộ não thì mới đủ cho công cuộc nghiên cứu. Qua sự
nghiên cứu, chúng tôi đã tìm thấy có ba hệ thống hóa chất khác nhau
làm công việc tiếp nối sự “truyền tin” trong mỗi bộ óc. Nhờ những
hóa chất này, như dopamine là một, mà các tế bào thần kinh có thể
chuyển tin tức cho nhau. Nếu chúng tôi nhận biết được các hóa chất
này, sự vận hành vi tế giữa các mạch tế bào não, biết được liều
lượng hóa chất cần thiết của não bộ từng người bệnh, chúng tôi có
thể điều trị những chứng bệnh này bằng những loại thuốc với liều
lượng hiệu quả hơn.
Công trình nghiên cứu của tôi đã được đăng trên báo y học “Bio
Techniques Journal” đầu Xuân 1995; và đến năm 1996, tôi được giải
thưỏng của đại học y khoa Harvard, phân khoa tâm thần về kết quả
nghiên cứu này. Tôi thật lạc quan và yêu đời. Nhưng rồi một sự kiện
không thể ngờ xảy ra. Tôi đang ở giữa độ tuổi ba mươi. Con đường sự
nghiệp đang đi lên. Thì bỗng nhiên trong chớp mắt, màu hồng tươi
thắm của cuộc đời và những viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai đã tan
thành mây khói. Tôi thức dậy buổi sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996 để
khám phá ra rằng não bộ của chính tôi cũng đã mang bệnh. Tôi đang bị
xuất huyết não!
Trong vòng 4 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, tôi theo dõi và thấy tâm trí
tôi từ từ hủy hoại trong khả năng phân tích sự vật xung quanh qua
các giác quan của tôi. Một hình thức xuất huyết não hiếm hoi xảy ra
đã làm cho cơ thể tôi hoàn toàn tê liệt, từ khả năng đi đứng, nói
năng, đọc viết, hoặc hồi tưởng lại mọi việc trong đời. Tới đây, tôi
nghĩ rằng độc giả muốn biết ngay những gì đã xảy ra cho tôi trong
buổi sáng xuất huyết não ấy. Nhưng hãy khoan. Để quý vị có thể hiểu
được những gì đã xảy ra trong não bộ khi nó bị xuất huyết, tôi xin
trình bày trong chương 2 và 3 sau đây vài điều cơ bản về khoa não bộ
học.
Xem tiếp...
|