Thiền và sức khỏe
Sức khỏe đựơc định nghĩa “là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái
(well-being, bien-être) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không
phải chỉ là không có bệnh hay tật” (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới,
1946). Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng
khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ
không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế
giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe”
của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có
bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà
chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…! Cái khó ở đây là làm
cách nào đánh giá được “tình trạng sảng khóai” về cả ba mặt, thể
chất, tâm thần và xã hội như định nghĩa đã nêu?
Đánh giá sự sảng khoái, sự hài lòng trong cuộc sống -cũng chính là
hạnh phúc- là chuyện không đơn giản chút nào! Chính vì thế mà mãi
nửa thế kỷ sau, WHO mới đưa ra đựơc một bảng “Đánh giá chất lượng
cuộc sống” (Quality of Life Assessement) để cụ thể hóa định nghĩa
sức khỏe đã nêu trên.
WHO định nghĩa Chất Lượng Cuốc Sống (CLCS) là những cảm nhận của các
cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống
giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng,
tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ. Điều dễ thấy ở đây là cách đo
đạc CLCS đặt trọng tâm lên cảm nhận cá nhân của từng người, cho thấy
có cái nhìn khác xưa đối với bệnh tật và sức khỏe lâu nay chủ yếu
dựa vào “cảm nhận” của thầy thuốc và sự “mách bảo” của máy móc xét
nghiệm!
Trên thực tế, người thầy thuốc chỉ có thể chữa đựơc cái đau mà không
chữa đựơc cái khổ, chỉ có thể chữa đựơc cái bệnh mà không chữa được
cái hoạn. Do vậy mà dù khoa học y học ngày càng phát triển với những
thành tựu đáng kinh ngạc nhưng cũng chỉ là manh mún và thiếu sót,
tình trạng tâm thần, tự tử, bạo lực, bất an và các bệnh do hành vi
lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường, béo phì… cứ ngày càng phát
triển! Thiền, phải chăng là một lối thoát?
Cho đến nay, các nhà y học chính thống và bảo thủ nhất cũng đã phải
công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả
trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vi và lối sống, đem
lại những hiệu quả tích cực cho sức khỏe của cá nhân và cộngg đồng.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu về lâm sàng và về sinh lý học trong
thiền nhằm soi sáng nhiều điều trước đây chỉ đựơc biết qua kinh
nghiệm. Nhưng thực ra thiền không dừng ở đó. Thiền Phật giáo lại còn
có những sắc thái riêng biệt, đáng đựơc nghiên cứu và thể nghiệm.
Phật phát hiện ra con đường dẫn đến an
vui, hạnh phúc, chính Ngài cũng ngại ngùng không muốn tiết lộ, không
muốn bày tỏ, vì con đường đó lạ lùng quá, ngược đời quá, khó có ai
tin, có khi còn gây phản ứng ngược. Mãi sau Ngài mới chịu nói ra, và
dĩ nhiên rất đắn đo, nói từng phần, với mỗi người một cách khác
nhau, tùy đối tượng. Bây giờ các thiền sư chứng ngộ cũng chỉ chọn
một vài học trò có căn cơ để truyền đạt, vì truyền không dễ, nhiều
điều “nói không được”. Học trò phải quan sát trực tiếp ở thầy và
phải thực hành miên mật. Có những học trò uyên thâm mà không đi tới
đâu, loay hoay không thoát; có học trò giã gạo, nấu cơm, không biết
chữ mà đại ngộ. . Cho nên tin không dễ! Phật đã chẳng luôn nhắc nhở
đừng vội tin, phải thực hành, phải thể nghiệm, phải trực tiếp lấy
thân tâm mình để mà quan sát chiêm nghiệm cho thật thấu đáo đó ư?
Phật đã chẳng luôn nhắc nhở phải tinh cần, tinh tấn, miên mật, không
được lơ là, chểnh mảng việc thực hành đó ư?
Trong đời sống thường ngày, những người bình thường như chúng ta
cũng có thể có những phút “ngộ”: đời là vô thường, là bóng câu qua
cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng, Nhưng ta chỉ “ngộ” một chút rồi
quên, rồi “trôi lăn” theo những tham sân si, những quấn quít chằng
chịt không sao thoát nổi! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý
nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với
bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Hẳn phải có một con đường khác.
Phật khẳng định có con đường khác đó: “Đây là con đường độc nhất đưa
đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí…”. Đó chính là con đường hạnh phúc mà Phật đã trải nghiệm với nụ
cười tự tại trên môi, con đường nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tụy
sẻ chia cho mọi người từ ngày Thành Đạo. Đó là con đường thực
nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận, được kiểm chứng và có
tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật cùng các đệ tử cũng
đã không quên nhắc lại “con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho
chúng sinh…” này, bởi sợ rằng ngày sau người ta lại có thể say mê
với những tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, thể nghiệm. Con
đường đó chính là thiền định, từ đó dẫn đến tụê giác, giải thoát rốt
ráo.
Thiền đã có từ rất lâu đời. Có lẽ từ ngày xa xưa con người tình cờ
phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái an lạc, sảng khoái,
siêu thoát nào đó, một trạng thái nói không được, mà chỉ có thể cảm
nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm,
truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách. Chính đức Phật, trong khi
tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình
đã có lần rơi vào trạng thái sơ thiền này mà nhanh chóng phát hiện
ra con đường riêng của mình, con đường không những “diệt trừ khổ ưu”
mà còn dẫn đến “thành tựu chánh trí”. Trước đó ngài đã từng rời bỏ
những con đường thiền khác. Rõ ràng thiền đã có từ xa xưa nhưng
thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng.
Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về thiền, ta càng bị tẩu hỏa nhập
ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó “bất khả thuyết” và đặc biệt “bất khả
đắc” khi ta nóng lòng muốn “chộp” lấy nó! Nó như thách thức những
học giả, những trí thức mà lại mỉm cười với anh hàng thịt, người
gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự tinh tấn thực hành, sự nhẫn nhục thể
nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương khảo luận.
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng
thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm
( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là
thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài
thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó
là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào
hơi thở. Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà nói không được! Bản dịch Vịệt nào
cũng viết: “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra…” có
thể gây nhầm lẫn ở đây chăng? Thở thì ai mà chả biết thở kia chứ!
Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, biết cách thở mà là nhận
thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận đựơc (perceive)
cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra kia kìa, đó mới là
điều cốt lõi!
Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)… thì
cũng đều có nguồn gốc từ Dhyana (Sankrist) hay Jhanas (Pali). Theo
ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát, là theo dõi và Ana là thở,
hơi thở, là khí. Vậy, jhanas hay dhyana chính là quán sát hơi thở,
nhận thức hơi thở. Đơn giản vậy mà thực ra không giản đơn chút nào!
Nó như là một chìa khóa căn bản. Phải mở cái cửa này đã rồi các cửa
khác mới mở tiếp được.Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một
việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ
giác, một sự chuyển hóa từ “khí” mà thành “trí”?
Câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở? Quán sát hơi thở thì có
gì hay? Sao lại không các đối tượng khác để quán sát? Thật ra thì
quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết
pháp giai thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để
thấy “ngũ uẩn giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây
không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái.
Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở chẳng
hạn, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Tim đập cũng lúc
nhanh lúc chậm, nhưng khó theo dõi, hoàn toàn ngòai ý muốn, khó can
thiệp. Dạ dày thì làm vịệc âm thầm, khó quan sát. Các bộ phận khác
cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước
mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải
thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta
biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc
chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy
với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn
hển. Lúc sảng khóai ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều
kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường.
Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt
động cơ bắp, khi mệt, ta “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi
khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái
thân ta. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào
thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở
còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta.
Như không có ta. Quan sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức.
Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn
thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ
thấy đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc
thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi để rồi khi
lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những
gì mình đã vay mượn! Giữa hai lần thở vào thở ra đó là những đợt
thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ lăn
tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong cõi “Ta bà”!
Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ
thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và
hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Quán sát hơi thở do đó
ta thấy đựơc sự sinh diệt. Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta,
chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ
lại, quán sát sự thở của mình thấy nó phập phều kỳ cục, tức cười,
bèn quên giận mà hơi thở được điều hoà trở lại lúc nào không hay:
điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói khác đi, ta có thể
dùng quán sát hơi thở để kiểm sóat cảm xúc và hành vi. Quán sát hơi
thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại tức khắc- không còn đắm mình
trong dĩ vãng hay tương lai. Mà hiện tại thì không có thời gian!
Ta biết sự hô hấp thật sự không phải xảy ra ở phổi mà ở trong từng
tế bào. Đây cũng có thể gọi là “thâm hô hấp”. Ở các sinh vật đơn
bào, khí trao đổi trực tiếp qua da, tức qua màng tế bào, một cách
đơn giản. Ở con cá đa bào, sống dưới nước, thì khí trao đổi qua
mang. Con người do kết hợp đa bào, phức tạp hơn nhiều nên phải thở
qua phổi nhưng vẫn trao đổi khí trực tiếp ở từng tế bào nhờ hệ thống
mao mạch. Do vậy mà khi ta có cách nào đó điều chỉnh được lượng khí
ra vào, hiệu ứng sẽ tác động đến từng tế bào riêng lẻ. Hô hấp diễn
ra trong từng tế bào, nhằm tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động và
tồn tại. Người lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người
bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm hết gần một nửa.
Riêng não bộ, với trọng lựơng rất nhỏ bé, chỉ khoảng 2% thể trọng mà
đã tiêu dùng đến 30% khối lượng oxy đưa vào cơ thể. Giận dữ , lo âu,
sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm
thấy kiệt sức, rã rời là vậy! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng
lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ
thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc!.Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ
năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể
giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn
thân cảm thấy thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng
khóai đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng
dễ chịu toàn thân của hành giả, phải chăng đó chính là trạng thái hỷ
lạc (thiền duyệt?).
Phổi ta như một cái máy bơm, “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có
áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí
bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang,
cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp
suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng
nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không, “zéro”, thì khí bên
trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân
biệt. Đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra –
trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng,
yên tịnh, vì không hề tốn năng lượng. Như cánh chim lượn bay, không
phải vỗ cánh, như xe ngon trớn ở số không, không tốn nhiên liệu! Đó
chính là giai đoạn “prana”. Pra có nghĩa là trước và ana là thở vào
( cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa
xưa. Yoga của Ấn Độ, khí công của Trung quốc, cũng như y học Đông
phương nói chung đã nói đến từ cổ đại. Trong yoga có pranayama, kiểm
soát hơi thở. Trong thiền định, không còn phải là vấn đề kiểm soát
hơi thở nữa mà hơi thở tự kiểm sóat! Đến một lúc nào đó hành giả
không cảm nhận mình thở nữa. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói
đến một phương pháp, một “kỹ thuật” pranasati ở đây chăng? Những
hành giả giàu kinh nghiệm (thiện xảo) cho biết họ có thể vào định
ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà khoảng lặng của họ ngày
càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào
hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó họ đã không còn ý niệm về
không gian, thời gian, về ta, về người… Tiến trình hô hấp vẫn diễn
ra sâu trong các tế bào (thâm hô hấp), nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ
nhàng nhất, tiêu thụ năng lượng tối thiểu và do vậy nhu cằu sản xuất
năng lượng không còn đòi hỏi cao nữa!
Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700
triệu năm – tức là khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái
đất- thì cũng chẳng khác biệt! Với người anh em đơn bào đó thì ta
cũng đang cùng hút chung một bầu khí, cùng bú chung một “núm vú” vũ
trụ, cùng với muôn loài khác nữa! Các sinh vật cùng chia sẻ một
cách…bình đẳng, không phân biệt và theo nhu cầu như vậy. Ta hút lấy
oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút
carbonic lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương…
cũng phình ra xẹp vào như ta vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi,
không thêm bớt. Nhưng chính con người có thể làm hại môi trường sống
của mình mà không hay nếu cứ theo đà hủy diệt sự sống của thiên
nhiên và muôn loài trên hành tinh xanh này!
Những cảm giác bức xúc, căng thẳng thường xuyên trong đời sống hằng
ngày gây nguy hại âm thầm nguy hiểm hơn ta tưởng. Cơ thể ta lúc nào
cũng căng cứng, trong tư thế “chiến đấu” hoặc “bỏ chạy” ( fight or
flight, cũng gọi là stress) nên tiêu hao rất nhiều năng lượng mà
không hay! Tình trạng đó kéo dài gây ra đủ thứ bệnh tật mà bác sĩ và
các máy móc tân kỳ cũng không tìm ra, đành gắn cho cái tên là “mệt
mỏi kinh niên”, “mệt mỏi không rõ nguyên nhân”, “rối lọan chức năng”
này nọ rồi dùng thuốc đè nén cảm xúc đó xuống, do vậy mà ta thấy
tình trạng “trầm cảm” trong dân số cứ ngày càng gia tăng. Cảm xúc mà
bị đè nén mãi, chìm lắng mãi thế nào cũng có lúc bùng lên! Những vụ
nổ súng lọan xạ, nổi cơn điên, tự tử… trở nên dễ hiểu ở nhiều xã hội
thừa mứa vật chất mà tâm thần không an! Những họat động của “tâm”
tiêu hao rất nhiều năng lượng của cơ thể. Cho nên có được một cái
tâm an là điều kiện đầu tiên của hạnh phúc, của sức khỏe. Có được
cái tâm an lành thì ta tiết kiệm được năng lượng một cách đáng kể.
Nói chung là không mất “hơi sức” đâu cho những chuyện lăng xăng! Tâm
dễ lăng xăng lắm. Đảo điên trăm thứ. Cho nên mới gọi “tâm viên ý
mã”. Thời đại ngày nay, tâm ý không chỉ là ngựa là khỉ mà còn là…
ngồn ngộn những thông tin, kích động từ mọi phía, càng làm cho tâm
náo lọan. Xã hội hiện đại đời sống vật chất phủ phê mà bệnh tâm thần
ngày càng phát triển, tình trạng tuyệt vọng, tự tử ngày càng gia
tăng là vậy!
Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về thiền chừng khoảng hơn nửa thế kỷ nay
( Vakil, 1950), nhưng chỉ 30 năm gần đây thì thiền mới được coi là
một phương pháp trị liệu khoa học trong y học (Craven. 1980; Haarmon
& Myers 1999).Cũng đã có những nghiên cứu so sánh các kỹ thuật thiền
(Woolfolk, 1975). Những nghiên cứu về sinh lý học giúp thiền ngày
càng đựơc hiểu rõ hơn… Hành giả có thể giảm đến 40% nhu cầu oxy và
giảm 50% nhịp thở trong lúc thiền. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ
rằng thiền cũng giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng qua
các nghiên cứu cho thấy thiền khác hẳn, thực sự là một trạng thái
tỉnh giác, ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất tùy trình độ hành
giả! Ở những hành giả thực hành thiền dài khỏang 30-40 phút thấy mức
lactate trong động mạch giảm (Wilson, 1987), phenylalanine tăng 20%
(Jevning, 1977), họat động hệ giao cảm giảm trên bề mặt da và nhịp
tim cũng giảm đáng kể( Cuthbert, 1981). Về nội tiết, thấy giảm
cortisol (hormone chủ yếu của stress) và ACTH (Bevan, 1980; Kamei,
2000); TSH, GH cũng giảm, trong khi đó arginine vasopressin, đựơc
coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ lại gia tăng đáng kể
(O’Haslloran, 1985). Hiện ngày càng có nhiều nghiên cứu về
beta-endorphin, corticotropin, ( Harte, 1995) melatonin (Massion,
1995), DHEA (Glaser, 1992) hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của
thiền trên nhiều mặt về y sinh học.… Hoat động điện não đồ EEG cho
thấy thiền có sự khác biệt với nghỉ và ngủ (Herbert, 1977). Nhờ
những tiến bộ về kỹ thuật thăm dò chức năng não bộ như PET (positron
emission tomography) và nhất là fMRI (functional magnetic resonance
imaging) đo lượng tưới máu não, cho thấy ở thiền giả một số vùng não
đựơc tưới nhiều hơn vùng khác, chứng tỏ thiền không phải là giấc
ngủ, trái lại là một trạng thái an tịnh tỉnh giác (state of restful
alertness). Kỹ thuật fMRI có khả năng chụp cắt lớp từng giây, nên
khá chính xác (Lazer, et al., 2000) cho thấy hoat động tưới máu não
gia tăng ở vùng liên quan đến sự chú ý, vùng kiểm soát tự động, vùng
tỉnh thức. Nhưng nói chung, tưới máu não trong thời gian hành thiền
rõ ràng là giảm một cách đáng kể, chỉ tập trung vào một số vùng nhất
định như đã nêu trên. Điều này cho thấy thiền giả không tiêu hao
nhiều năng lựơng cho các họat động của vỏ não. Các nghiên cứu về
sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp diễn. Thế nhưng đã chứng
minh được thiền có khả năng làm giảm stress, cao huyết áp, tạo sự
sảng khoái, yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống.
Đại học Y khoa Harvard ước lượng có khoảng 60-90% bệnh nhân đến bác
sĩ là do stress. Stress liên quan đến rất nhiều bệnh lý như nhồi máu
cơ tim, tăng huyết áp, tiểu đường, suyễn, đau nhức kinh niên, mất
ngủ, dị ứng, nhức đầu, đau thắt lưng, một số bệnh ngoài da, ung thư,
tai nạn thương tích, tự tử, trầm cảm, giảm miễn dịch… Stress gây
tăng cholesterol cao hơn thức ăn (Rosenman, 1993). Trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp, người làm việc những ở khu vực
dễ bị sa thải thì chết vi bịnh tim mạch, tai biến mạch máu não cao
gấp đôi các khu vực khác (Chandola, 2006). Stress là nguyên nhân
của 50% các bệnh nhân mất ngủ, dẫn tới những vấn đề sức khỏe tâm
thần. Stress cũng gây 19% vắng mặt nơi làm việc, 40% bỏ việc, 60%
tai nạn xảy ra nơi làm việc. Theo một thống kê của cơ quan bảo hiểm
y tế, thiền giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân và giảm số
lần đi khám bệnh ( Orme-Johnson, 1987).
Nghiên cứu đối chứng về cơn đau kinh niên, lo âu, trầm cảm, thiền
làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung và giảm 70% triệu
chứng lo âu (Roth, 1997).
Hành giả thực hành thiền hơn 5 năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12
năm so với người cùng tuổi, dựa trên 3 yếu tố là huyết áp, khả năng
điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng phân biệt của thính
giác.
Một nghiên cứu trên học sinh cấp 2 có thực tập thiền, cho thấy kết
quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, có thói quen làm việc,
cải thiện hành vi (xung đột, hung hãn), tăng lòng tự tín, khả năng
hợp tác và quan hệ với người khác (Harrison, 2004).
Thiền cũng giúp làm giảm cân, giảm béo phì, nghiện thuốc lá, rượu và
các chất ma túy nói chung (Alexander, 1994). Đặc biệt, một nghiên
cứu đối chứng ở 44 bệnh viện cho thấy thiền đã giúp làm giảm sai sót
chuyên môn y khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu
kiện của bệnh nhân đối với bệnh viện ( Jones, 1988). Ở các công nhân
kỹ thuật có thực tập thiền trong 8 tuần cho thấy họ làm việc phấn
khởi hơn, thích thú hơn, nhiệt tâm hơn, giảm thiểu các bệnh cảm cúm
thường gặp trong khi nhóm chứng không có sự thay đổi. Tóm lại, hiệu
quả của thiền đã được chứng minh trong nhiều lãnh vực đời sống..
Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi: ngồi thiền. Rồi nào
kiết già, nào bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành
riêng cho một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải ngồi,
không nhất thiết phải kiết già bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng
thiền được cả. Người Nhật, người Tây Tạng đều có cách “ngồi” thiền
riêng của mình, người Tây phương còn khác hơn nữa, miễn sao có một
tư thế thoải mái, dễ chịu, buông xả toàn thân là được. Thế nhưng
cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi thế hơn cả. Tại
sao? Tại vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của hai chân
phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía sau
thì duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho các bắp cơ đổi chiều.
Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”. Khi nào đi bộ lâu, mỏi
chân, ta ngồi xuống, xếp bằng và hít thở một lúc sẽ thấy hai chân
bớt mỏi nhanh hơn. Cơ nào đã duỗi lâu thì được co lại, cơ nào đã co
lâu thì được duỗi ra! Thiền hay yoga do vậy khai thác kỹ thuật này
để trị liệu rất có hiệu quả sự mỏi mệt, không kể ngồi theo cách này
cũng giúp làm giảm sự tiêu thụ oxy!
Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong
thiền. Ta dễ có khuynh hướng chìu theo độ cong tự nhiên của cột sống
dưới sức nặng của thân thể do trọng lực- và nhất là tuổi tác- do đó
dễ dẫn đến cong vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Ở
tuổi trung niên nhiều người đã bị những cơn đau dữ dội đến phát
khóc. Đó là những cơn đau cấp tính, nếu nghỉ ngơi và uống thuốc đùng
cách chừng mươi ngày, nửa tháng sẽ khỏi, nhưng không khỏi hẳn, dễ
tái phát do tư thế chưa được điều chỉnh. Nhưng nguồn gốc sâu xa hơn
lại là do cách sống căng thẳng, chịu đựng, dồn nén lâu ngày. Cơn đau
là tiếng chuông báo động để ta “tỉnh ngộ”!. Một người cúi gầm suốt
ngày trước máy vi tính hay TV để chơi games online thì sớm muộn cũng
bị những hội chứng về cột sống. Một người quen đi chùa lạy Phật mà
với tư thế không đúng thì lâu ngày cũng bị đau cột sống như vậy!
Nhất là khi đã có tuổi, cột sống có khuynh hướng cứng lại, mất đàn
hồi, các lớp sụn độn giữa hai đốt sống dễ bị bẹp, có khi “xì” ra một
bên, chèn ép gây đau, nhiều khi phải phẫu thuật để chữa. Giữ lưng
thẳng đứng trong lúc ngồi thiền là điều cần thiết. Kết hợp với tập
thể dụng bụng, có nghĩa là tập cho thắt lưng được dẻo dai, cũng sẽ
làm chậm tiến trình lão hóa.
Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn
thân,“buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng
nước. Thả lỏng toàn thân là cách làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp
xuống, bình bồng, không còn căng cứng nữa! Có thể nói cơ thể ta như
chỉ gồm có hai phần: “thân xác” và “thân hơi”. Thả lòng là “xì” cho
xẹp cái thân hơi đó- mà tiếng Việt ta có một từ rất hay là xả hơi!
Khi quá mệt, quá căng thẳng thì nghỉ xả hơi! Khi đó, không một bộ
phận nào của cơ thể còn phải căng nữa, phải gồng nữa, kể cả vỏ não.
Tiêu hao năng lượng cho trương lực cơ ( tonus musculaire) và hoạt
động của vỏ não sẽ giảm thấp nhất có thể được. Y học chứng minh tiêu
hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức chuyển hóa cơ bản,
thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích lũy tốt hơn.
Cơ thể ta có hơn mười ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một
cái túi, một lọai “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ oxy- kết
hợp với thức ăn qua những phản ứng gọi là oxyt hóa- để tạo ra năng
lượng. Nhưng oxyt hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và
các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, già nua!. Giống như một
thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt hóa thành rỉ
sét. Khi cơ thể có cách nào làm giảm tiêu thụ năng lượng không cần
thiết thì các tế bào cũng sẽ được nghỉ ngơi.
Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng
một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp
các dưỡng chất qua thức ăn như glucid, lipid, protid… vốn là nguồn
tạo năng lượng! Ăn ít đi mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ
thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng
khoái. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các sinh vật bị cho nhịn đói
vừa phải thì sẽ sống lâu hơn và trẻ hơn. Do vậy mà các thiền giả
không có nhiều nhu cầu về các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi thức
ăn! Ta thấy giới, định và tuệ gắn bó chặt chẽ với nhau như một tam
giác cân, tác động hai chiều là vậy!
Danh y Tuệ Tĩnh, thế kỷ XIV ở nước ta đã đúc kết một lời khuyên: “Bế
tinh- Dưỡng khí- Tồn thần / Thanh tâm - Quả dục- Thủ chân- Luyện
hình” . Thử nhìn lại đời sống hiện nay ta thấy: tinh không bế, khí
không dưỡng, thần không tồn, tâm náo lọan… bảo sao các hiện tượng
tâm thần, tự tử, béo phì, tiểu đường, huyết áp… kể cả chiến tranh,
dịch bệnh, thiên tai… chẳng ngày một gia tăng?
Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, chánh niệm, tỉnh giác.. phải
chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khỏe thời đại và
bảo vệ môi trường sống của chúng ta hôm nay?
Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Quả
đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể
“thiền” giùm ai?
HUẾ,
Tháng 3, 2008
BS Đỗ Hồng Ngọc
Nguồn:
ĐHN |