1.
Tổng quan
Trong khoa học về tài
nguyên, người ta thường phân loại tài nguyên tái
tạo được (renewable resources) và tài nguyên không tái
tạo (non-renewable resources). Tài nguyên tái tạo như
nước, đất, rừng, nông nghiệp, ngư
nghiệp, lâm nghiệp nghĩa là có thể tồn tại
mãi với thời gian, nếu được quản lý
tốt. Tài nguyên không tái tạo như hầm mỏ (mỏ
dầu, mỏ vôi, mỏ than..), một khi cạn kiệt
thì sẽ cạn luôn.
Bài tham luận này chỉ
giới hạn trong phạm vi các tài nguyên tái tạo
được tỉnh Thừa Thiên, do đó sẽ trình bày
về đất đai, nước, rừng, nói khác đi
đến các hệ sinh thái chính và đồng thời vai
trò các tài nguyên này trong sự chi phối đến sự
sử dụng đất đai của con người và
làm thế nào để có phát triển bền vững
(sustainable development).
Thừa Thiên, theo thống
kê 1997, có 1.1 triệu người với 30% ở thành
phố Huế. Có chừng 43 000 người sống
"dưới nước". Số dân còn lại sống
tại nông thôn, chủ yếu sống về trồng
trọt, chăn nuôi; ngoài ra có một số dân sống quanh
phá Tam Giang thì vừa sống về nông lẫn ngư
nghiệp (tôm, cá...)
Tỉnh có diện tích 500
000 ha, gồm: một thành phố tức Huế, 8 huyện,
124 xã và 935 làng.
Trong 8 huyện:
|
2
huyện thuộc đồng bằng: Quảng
Điền (157km2), Phú Vang (263.2 km2)
|
|
4
huyện vừa đồng bằng, vừa đồi
núi nhưng đồi nhiều hơn đồng
bằng: Phong Điền (1 071 km2), Hương Trà (403 km2),
Hương Thủy (497 km2), Phú Lộc (693 km2)
|
|
2
huyện miền núi là A Lưới (1 159 km2), Nam Đông
(699 km2)
|
Tổng số xã là 124 xã,
nhưng chỉ có 54 xã có điện. Chỉ 2.5% nhà là có
nước máy và 72% nhờ nước giếng. Dân số
1.1 triệu người (1997).
2. Địa hình
Thừa Thiên có hai loại
địa hình rõ ràng: miền núi và miền đồng
bằng. Nếu làm một phẫu diện từ
Trường Sơn đến biển Đông, ta có thể
phân biệt nhiều loại địa hình sau đây:
a/ Miền núi
Giáp giới với Ai Lao,
địa hình dốc nhiều. Dãy núi Trường Sơn
ở Thừa Thiên có nhiều đỉnh với nhiều
cao độ khác nhau, nhiều địa danh quen thuộc
như A Sao, A Lưới. Từ các vùng này, núi dốc
đổ xuống rất nhanh: các sườn núi vừa
dài, vừa dốc nên xói mòn dễ xẩy ra, sự chảy
tràn rất mạnh, nhất là trong các điều kiện
triền dốc lớn và khi không có rừng cây che chở.
Do đó, dễ có lụt lội ở miền hạ
lưu.Sườn Đông dãy Trường Sơn rất
dốc, sườn Tây thoải nên các sông ngòi như sông
Hương có đầu nguồn ở độ cao 500m,
chỉ qua vài km đã hạ thấp xuống gần
mực cơ sở nên vách thung lũng dựng đứng
xâm thực rất mạnh.
Trên dãy núi Trường
Sơn ở Thừa Thiên, có thể kể các loại đá
sau đây:
đá hoa cương
(granite) trên các rặng núi cao phân chia Ai Lao và Việt Nam.
các loại đá acid khác như diệp thạch, phiến
thạch, sa thạch
Hình 1. Sơ đồ các địa
mạo chính của Thừa Thiên
b/ Miền gò đồi chân
núi
Miền gò đồi là vùng giáp giữa núi non và đồng
bằng duyên hải., có nhiều thung lũng ngang (vallées
latérales)... được cải biến thành ruộng luá.
Các đồi thấp thường có đỉnh bằng,
sườn thoải và vì không xa vùng đồng bằng nên
"thượng gia hạ điền", đây là
nơi được khai phá tích cực nhưng cũng là
nơi dễ bị xói mòn nhiều nên lắm khi đồi
trọc trơ sỏi đá với nhiều khe rảnh...
c/ Miền thềm phù sa
cổ
Ngày xửa, ngày xưa, đồng bằng Thừa Thiên còn
nằm dưới biển ! Bằng chứng địa
chất hùng hồn nhất là các giãy đá vôi Vân Xá, Long
Thọ hiện vẫn "trơ gan cùng tuế
nguyệt". Đá vôi do các rạn san hô tạo thành.
Hiện nay trong đồng bằng còn vài đồi còn sót
lại như Núi Ngự, "trước tròn, sau méo",
các đồi Thiên An, Vọng Cảnh. Mà các núi Thiên An, Núi
Ngự này trước kia cũng chỉ là những hải
đảo, ngày nay sát nhập vào bờ.
Với thời gian
địa chất trôi qua, biển rút từ từ,
cọng thêm phù sa trầm tích từ các rặng núi trên cao
lấp dần các vịnh biển, tạo thành nhiều thềm
biển (terrasses marines) ở các cao độ khác nhau 40mét,
25 mét, 20mét..; càng ra gần biển thì các thềm biển
cứ thấp dần và tuổi địa chất cũng
trẻ dần.
Trong các thềm phù sa
cổ, ở dưới lớp đất mặt luôn luôn
có những cuội sỏi. Thềm phù sa cổ lâu ngày
đã bị tác động xâm thực gọt rũa,
nhiều nơi có dạng lượn sóng và có nhiều
sỏi laterit kết thành đá ong. Chính các tảng đá
laterit này khi mới đào lên còn rất mềm có thể
gọt rủa được để làm các công trình còn
để lại của người Chàm ( tháp) ; nhưng
khi khô thì trở nên cứng lại vì bị oxythoá.
d/ Miền đồng
bằng
Bồi tích sông biển có cồn cát củ (như Phú Bài) và
đầm củ. Các đồng bằng đều là
những châu thổ rộng hay hẹp của các dòng sông
như sông Hüong, sông Bô...; vì các dòng sông thường ngắn
nên trầm tích phù sa đệ tứ kỷ khá mỏng,
không giống như đồng bằng sông Cửu Long có
bồi tích rất dày vì sông này dài cả hàng ngàn cây số
chảy qua 5 nước như nam Trung Hoa, Miến
Điện, Lào, Kampuchia và Việt Nam. Các trầm tích
bồi lấp các vũng biển; các vũng biển này
được tạo nên trong các giai đoạn biển
tiến do băng hà thế giới tan hoặc do các dao
động của các thời kỳ băng hà (période glaciaire)
và tan băng (période interglaciaire) của thời kỳ
đệ tứ nguyên đại Pleistoxen.
Vậy nền địa
chất chủ yếu là bồi tích phù sa, vừa nguồn
gốc sông, vừa nguồn gốc biển: nguồn
gốc biển vì có những vật liệu thô của các
dải cồn cát lẫn lộn với các vỏ sò ốc
biển trong các lớp đãt, nguồn gốc sông vì sông bào
mòn các rặng núi Trường sơn gồm nhiều
loại đá khác nhau (đá granit, đá bazan, đá vôi).
Ngoài hai nguồn gốc
trên, các đồng bằng duyên hải miền Trung nói chung
và đồng bằng Thừa Thiên nói riêng lại vừa
chịu ảnh hưởng các vật liệu feralit từ
các vùng đồi di chuyển xuống; vì nhiều nguồn
gốc nên trắc diện đất phức tạp.
Đó là các đồng bằng do các sông ngòi phù sa bồi
đắp như:
|
đồng
bằng sông Ô Lâu ngăn cách hai tỉnh Quảng Trị và
Thừa Thiên, có sông Ô Lâu chảy qua đổ vào phá Tam
Giang.
|
|
đồng
bằng sông Bồ do sông Bồ bồi đắp; trong
đồng bằng này, có nhiều kinh rạch, gọi là
hói; một hói lớn có tên là hói Sịa.
|
|
đồng
bằng sông Hương là đồng bằng lớn
nhất, chảy qua thành phố Huế và cũng có
rất nhiều sông đào như sông đào chảy
từ Sông Hương xuống Bao Vinh ngang qua phố Nhà
Bè-Gia Hội, sông An Cựu v.v
|
e/ miền các giải
đồi cát duyên hải, có nhan nhãn từ Phong Điền
đến Quảng Điền. Các động cát rất
cao vì bờ biển nằm thẳng góc vơi gió đông
bắc và gió tây nam ngược chiều nhau. Các giải
đồi cát trắng này với nạn cát bay vào mùa hạ
tạo nên sa mạc hoá, nếu không cố định
bằng các thảo mộc như dứa dại (Pandanus) hay
filao (Casuarina) sẽ gây tai hại đến môi sinh.
f/ miền đầm,
hồ, đất sình lầy nằm kẹp giữa các
giải đồi cát duyên hải và đồng bằng phù
sa. Dạng địa hình này không nối dài liên tục, do
sự di động của các cồn cát cắt ngang. Còn
gọi là cát nội đồng.
g/ ven bờ biển có bãi triều
lầy (tidal marsh), có rừng ngập mặn gồm
những loại cây sú, vẹt, đước, vùng cửa
sông (estuary), đầm phá (lagoon) ăn thông với biển
phía ngoài qua một hay nhiều cửa như Cửa
Thuận, cửa Tư Hiền là các cửa trước
trận lụt lịch sử cuối 1999.
Trong dạng địa
mạo này, Thừa Thiên có phá Tam Giang. Phá Tam Giang rất dài
vì chiều dài là 30 km và rộng từ 1 đến 6 km, có 3
sông chảy vào: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương. Ở
phía Nam, phá ăn thông với các đầm: Thanh Lam, Hà Trung,
Thủy Tú, Cầu Hai. Đầm Cầu Hai, toả
rộng dưới chân núi Bạch Mã (1444m) ngắn và
rộng thông thương với đầm ("phá")
Tam Giang và đổ ra biển ở cửa Tư Hiền.
Nhìn vào bản đồ, phá Tam Giang tương tự
như một dòng sông, còn đầm Cầu Hai giống
như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu
Hai, Tam Giang này, qua các trận lũ lụt cuối năm
1999, đã có thêm nhiều cửa biển nữa. Riêng phá Tam
Giang-Cầu Hai này đã chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh
Thừa Thiên và 30% dân số Thừa Thiên sống quanh vùng
phá-đầm này. Phá Tam Giang đã trở thành bất
hủ với câu ca dao:
Nhớ em anh cũng
muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
3.
Khí hậu
Như trên cho thấy, có 2
dạng địa hình chính là vùng núi và vùng đồng
bằng.
Vùng núi có nhiều vi khí
hậu (microclimate) khác nhau do sự khác biệt vi
địa hình (microrelief): có sườn núi hướng
về phía Bắc, có sườn hướng về phía Nam,
sườn đón gió Đông v.v... Bạch Mã có cao
độ lớn nên rất mát mẻ. Tuy nhiên miền núi
Thừa Thiên mưa rất nhiều.
Riêng trên dãy núi Trường
Sơn tại Thừa Thiên, khí hậu cũng khác nhau: mùa hè,
phía tây giải Trường Sơn (phía Ai Lao), mùa mưa
đã khởi sự từ tháng 5 trong khi phần phía
đông giải núi này (phía Viet Nam) còn khô nóng.
Vùng đồng bằng
mưa nhiều và mưa muộn: thay vì mưa khởi
sự từ tháng 7 như ở Hanoi thì ở đây
phải chờ đến tháng 9, tháng 10 mới mưa. Mưa
nhiều nhất từ tháng 9 d.l. đến tháng 11 d.l.
(430-740 mm/tháng). Trung bình vũ lượng hàng năm 3 000 mm,
nói khác đi, lớn hơn mọi vùng ở đồng
bằng đất nước (Đồng Hới : 2111mm,
Quảng Trị : 2535 mm, Huế : 2890 mm, Phan Rang: 650 mm,
Saigon: 1900mm, Hanoi: 1678mm)
Mùa nắng từ tháng 3 d.l.
đến nửa đầu tháng 8 d.l
Miền đồng
bằng, từ tháng giêng đến tháng 3 có gió mưa
nhẹ lất phất, có sương muối, sau đó là
nắng. Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình ban ngày 28
độ (những ngày nóng nhất, nhiệt độ lên
đến 38-39 độ), vào mùa đông, nhiệt
độ trung bình ban ngày 20 độ (hạ xuống còn
13-14 độ vào ngày lạnh nhất)
4. Tài nguyên
đất
Ở đây, ta cũng phân
biệt đất đai theo các địa hình nói ở
phần 2.
Miền núi:
Đất feralit vàng đỏ trên đá axit (sa thạch,
hoa cương, phiến thạch..) là đất
thường gặp tại các vùng núi thấp, dưới
1000 mét, trên các thượng nguồn sông ngòi và trong
điều kiện khí hậu mưa nhiều....
Đất feralít có mùn ở núi cao chiếm các vùng núi cao
như ở Bạch Mã cũng như suốt vùng biên
giới Lào-Việt thuộc Thừa Thiên và là nơi có
người Thượng với cuộc sống du canh.
Địa hình bị chia cắt mạnh, nhiều dốc
vì đốn rừng bừa bãi nên sự xói mòn trên các
triền dốc đất này khá mạnh và hiện nay có
nhiều lớp laterit gần mặt đất.
Miền gò đồi:
Đất phù sa cổ sinh, nằm trên các phù sa cổ sinh có
độ cao biến thiên 10-20 mét; đặc biệt, trong
trắc diện đất có nhiều cuội sỏi.
Thềm phù sa cổ thường bị xoi mòn gọt
rũa nên nhiều nơi có dạng lượn sóng.
Đất phù sa cổ thường dễ thoát
nước, nghèo hơn phù sa mới và thường là
nơi có làng mạc, trồng hoa màu phụ hoặc chỉ
bỏ hoang vì sỏi laterit ngay mặt đất và ở
trên các gò đồi với nhiều dạng khác nhau:
|
có gò
đồi đất có độ dốc cao, tầng
đất dày, phát triển trên granit, chân đồi thì
đất nhiều chất hữu cơ, càng lên cao cây
phát triển chậm, do đó chỉ nên trồng bạch
đàn dưới 1/3 từ chân đồi
|
|
có gò
đồi bát úp bỏ hoang sau sản xuất nông
nghiệp, đất bị bạc màu nhưng đất
còn dày
|
|
có gò
đồi trơ sỏi đá, đất phát triển
trên đá phiến (schist), đá cát (sandstone): bạch
đàn mọc xấu, tàn lụi dần...
|
Vì lớp laterit gần lớp đất mặt nên các
loại đất này nghèo nàn và thảo mộc thiên nhiên
phần lớn chỉ là những lùm bụi thấp
với các loại sim, mua, móc, chủi rành, cỏ tranh...Những
đồi hoa sim rất nhiều không những ở
Thừa Thiên mà ở khắp các đất nghèo nàn miền
duyên hải Trung Việt :
Những đồi hoa sim,
Những đồi hoa sim,
Màu tím hoa sim,
Tím cả chiều hoang biền biệt
(thơ Hữu Loan)
Miền đồng
bằng bồi tích:
Đất phù sa cận đại là những loại
đất được nước chuyên chở và
dần dà lắng tụ xuống. Vì từ nhiều
nguồn gốc nên sắc thái cũng rất đa
dạng: có đất phù sa chảy qua các rặng núi đá
vôi nên pH của các đất này khá cao; có đất phù sa
do các rặng núi đá hoa cương phong hoá nên gồm
nhiều vật liệu thô vì cứng. Đó là những
đất bồi, men theo các dòng sông để trồng lúa
là nông sản chính mà đã trồng luá thì yếu tố
nước là chính.
Miền duyên hải:
Đất mặn tuy không nhiều, nhưng cũng
chiếm trên 14 000 hecta và ven các vùng cửa biển. (Phú Vang,
Lăng Cô). Trên các giải đất mặn, cần nghiên
cứu các mô hình sử dụng đất khác nhau: có nơi
ngư lâm kết hợp, có nơi chỉ nuôi tôm sú, có
nơi mô hình rừng sú vẹt vừa giữ đất,
vừa nuôi trồng các loại thủy sản, có nơi vuông
tôm chuyên canh trên đát trũng bùn mềm..
Đất cát trên cồn
cát duyên hải thì vừa khô hạn, vừa nghèo nàn. Trong
nhóm này, có thể kể:
|
đất
cồn cát trắng vàng, thường có nơi cồn cát
khá cao (Quảng Điền), có nơi còn tình trạng di
động, có nơi chảy theo suối cát vào
đồng lấp đất trồng hoa màu (Phong
Điền). Những cồn cát này thường có hai
sườn dốc: sườn dốc đứng quay
về phía đất liền, sườn dốc thoai
thoải về phía biển. Gió biển thổi cuốn
các hạt từ sườn thoai thoải, rơi
xuống sườn dốc đứng và lấp dần
vào bên trong nội đồng. Vì gió mạnh nên nhiều
đồi cát ở Thừa Thiên từ Phong Điền
đến Quảng Điền lấn vào đất, vào
ruộng, vào đuờng, gây nên hiện tượng sa
mạc hoá. Mức phì nhiêu các loại đất này kém vì
khả năng giữ nước yếu
|
|
đất
cát biển ở địa hình bằng, do sự bồi
lắng phù sa và tham gia của quá trình lấn biển,
tạo thành các dải rộng hẹp khác nhau, có màu
trắng xám, pha vỏ sò, vỏ ốc..Một phần
loại cát biển này đã được sử
dụng trong nông nghiệp như trồng rau, khoai lang
biển...
|
|
đất
cát nội đồng (groundwater podzols) còn gọi là
đất cát glây. Trên các loại đất này, mức
thủy cấp gần mặt đất, chỉ ở
độ sâu cách lớp mặt 40-60 cm có lớp than bùn,
nhiều chất hữu cơ màu đen dày 30-40cm, tạo
ra môi trường không thích hợp nên bạch đàn
trồng sau vài năm cây ngừng phát triển, đọt
chính bị thui chột, vàng rồi chết. Riêng keo lá tràm
(Acacia auriculiformis) trồng trên cát nội đồng có
sức chịu đựng chua phèn cao hơn so với phi
lao hoặc bạch đàn, nhưng có nhược
điểm là sức chịu gió kém, gặp bão hàng năm
bị gảy đổ.
|
Như vậy, so với
diện tích đất (không kể mặt nước
như đầm, phá..) của tỉnh Thừa Thiên là 466
400 ha, các đất vùng núi đã chiếm 66% tức 2/3
diện tích, các đất vùng đồi thấp, bực
thềm..13%, các đất vùng đồng bằng chỉ
chiếm 21% diện tích mà trong đất đồng
bằng này, ta đã rộng lượng gom luôn các giải
đồi cát trắng dọc duyên hải, vốn không
sử dụng được trong nông nghiệp.
Sau đây diện tích các
loại đất chính ở Thừa Thiên (theo bản
đồ đất đai trước 1975, do Bộ Canh
Nông xuất bản):
Đất
phù sa
|
53 850 ha
|
Đất
mặn
|
14 350 ha
|
Đất
đồi cát trắng ven biển
|
28 950 ha
|
Đất
podzolic vàng đỏ trên đá acid
|
57 200 ha
|
Đất
podzolic vàng đỏ trên phù sa cổ sinh
|
6 950 ha
|
Đất
núi
|
305 100
ha
|
Tổng cộng là
466 400 ha. Nếu thêm diện tích đầm Cầu Hai, phá
Tam Giang và diện tích s5. Tài nguyên
nước (water resources)
Lưu vực: Vì đồng
bằng Thừa Thiên vừa nhỏ, lại gần núi non
nên các dòng sông như sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương
không dài lắm, so sánh với các dòng sông khác của miền
Trung như sông Mã ở Thanh Hoá hay sông Thu Bồn ở
Quảng Nam có lưu vực rộng hơn nhiều: Sông Mã,
dài 410 km, lưu vực rộng 28.400 km2; Sông Ba ở Phú Yên
dài 388 km, lưu vực 13.800 km2, ngay cả sông Thu Bồn
chảy qua đồng bằng Quảng Nam dài 205 km và
lưu vực rộng 10.496 km2.
Lưu lượng: lưu
lượng của các dòng sông miền đồng bằng
Thừa Thiên thay đổi theo mùa: muà nắng, lưu
lượng nước rất nhỏ, nên có thể
lội bộ qua sông ở nhiều chổ, nhiều
cồn bãi hiện ra giữa dòng. Các dòng sông Thừa Thiên
chuyên chở phù sa ít hơn các dòng sông lớn khác. Ví dụ
Sông Hồng cuồn cuộn chuyên chở lượng phù sa
là 940 g/m3. và màu đỏ đúng như tên gọi. Mùa
mưa, lưu lượng rất lớn dễ gây nạn
lụt. Vì các dòng sông trên không dài nên nước mưa, vốn
tập trung vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt, nhất
là khi không có kinh rạch để xả bớt
nước lủ.
Mùa nắng thì nhiều đoạn trên sông có thể lội
qua được. Nói khác đi, lượng nước
mưa mùa lụt và lượng nước mưa mùa
nắng (lưu lượng kiệt) chênh lệch nhau
rất lớn. Nếu có các công trình giữ nước trên
núi hay vùng gò đồi thì vào mùa kiệt mới có thêm
nước sông để tưới ruộng và vào mùa
mưa, bớt được lũ lụt ở hạ
lưu. Ngoài ra, vì trên núi hiện nay còn lại rất ít
rừng, nên nước mưa xâm thực trong phạm vi
lưu vực các dòng sông trên đã đem theo cả sỏi
đá lẫn cát bùn nên vào mùa lụt, các dòng sông trên rất
đục. Như vậy, các cửa gần sông cũng
như các hồ chứa nước, cũng dễ bị
bít và cạn, phải nạo vét định kỳ.
Nguồn gốc: ta phải phân
biệt hai loại nước: đó là nước mặt
(surface water) và nước ngầm (underground water)
Nước mặt do các dòng sông cung cấp:
Sông Hương do hai nhánh Hữu và
Tả Trạch, bắt nguồn ở vùng giáp giới
giữa hai tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên, trong
huyện Nam Đông và gặp nhau ỏ ngã ba Tuần- Bãng
Lãng. Sông chảy qua các vườn cây trái Nguyệt Biều,
Long Thọ; chảy qua Thiên Mụ.
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Rồi xóm đạo Kim
Long:
Thuyền về Đại
Lược, duyên ngược Kim Long
Đến đây là ngã rẻ đôi dòng
sau đó phố Huế
với cầu Trường Tiền ‘sáu vài, mười hai
nhịp’, Cồn Hến, Vĩ Dạ:
Sao anh không về chơi
thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên (Hàn Mặc Tử),
xuôi về Bao Vinh, bồi đắp phù sa cho các Làng Sình
Đò từ Đông Ba, đò qua Vỹ Dạ
Đò từ Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sình
Lờ đờ bóng ngã trăng chênh
Tiếng hò xa vắng nặng tình nước non
Và tiếp tục về
Dương Nổ trước khi ra phá Tam Giang. Ở
đây, tưởng cũng nên mở dấu ngoặc:
Đông Ba, vừa tên một cửa thành, vừa tên chợ
ở Huế trước có tên là Đông Hoa, sau do kị
húy, nên vua Minh Mạng đổi là Đông Ba. Sông Ô Lâu khi
về đến đồng bằng, gặp ngay các
đồi cát cao Quảng Điền, phải chật
vật tìm đường về phiá Bắc để sau
đó trở ngược xuống phá Tam Giang. Sông Bồ
cũng phát xuất từ phía đông giãy Trường
Sơn, từ vùng núi huyện A Lưới, chảy qua
đất Phong Điền rồi đổ vào sông
Hương ở huyện Phú Vang..
Hai con sông Nong và Truồi phát
xuất từ núi Truồi và đổ vào đầm
Cầu Hai.
Nước ngầm không
phải chổ nào cũng có mà phân phối phụ thuộc
vào một số yếu tố. Nước ngầm phong phú
là ở vùng đồng bằng, ven các dòng sông hay các cồn
cát duyên hải.Đặc biệt, tại các đồi cát
này, chỉ có thể khai thác nước ngầm từ
từ, vì nếu bơm nước nhiều quá,
nước mặn sẽ vào nước ngầm và như
vậy, không thể sử dụng cho nông nghiệp hay cho
nước uống..Vùng đất đá vôi như ở
Long Thọ, cũng có nhiều nước ngầm, nhưng
dự trữ nước ở quá sâu vì đá vôi có
nhiều khe nứt nên việc khai thác có phần khó khăn
hơn. Dù sao, để tránh tình trạng mực
nước ngầm (thủy cấp) tụt quá sâu trong lòng
đất khó khai thác tài nguyên này, vẫn phải tránh tình
trạng phá rừng, vì rừng giúp các dòng nước
thấm sâu xuống đất giúp phong phú hoá nước
ngầm.
Nếu nói về chất
lượng của nước, ta có: nước ngọt
(freshwater), nước lơ lớ (brackishwater) và
nước mặn (saline water); cả 3 loại hình này có
thể gặp từ thượng lưu đến hạ
lưu một dòng sông. Nước ngọt là nước
của các khe suối và sông ngòi phía thượng lưu.
Nước lợ là nước pha giữa nước
ngọt và nước mặn và gặp các vùng gần
cửa biển hoặc khi mùa nắng, nước mặn
x^m nhập sâu lên dòng sông thì nuớc sông bị nhiễm
mặn. Nước mặn ở ngoài biển. Nếu
nưóc biển có những đặc điểm nhất
định như độ mặn, thì chất
lượng nước sông lại biến thiên rất
nhiều vì phụ thuộc vào nhiều thông số như
địa chất của lưu vực, thảo mộc
trên lưu vực và vật liệu do con người
đổ vào lưu vực. Vài ví dụ:
Sông Hương chảy qua
một vùng đá vôi (Long Thọ) do đó nưóc sông
Hương rất trong vì vôi (Calcium hoá trị 2) kết
tủa các sét. Nhiều suối chảy qua vùng lam sơn
chướng khí, đầy chất hữu cơ mục
nát của thảo mộc thì nước không uống
được.
Con người với các
hoạt động nông nghiệp và kỷ nghệ cũng
đổ xuống sông suối nhiều chất
độc, gây ô nhiễm cho nước.
Môi trường
nước ngọt
Trong ba thứ nưóc: ngọt, lợ, mặn thì loại
nước ngọt quan trọng nhất vì nước
ngọt sử dụng trong nhiều đối
tượng khác nhau như phục vụ sinh hoạt
(nấu cơm, tắm rửa, giặt ), phục vụ
nông nghiệp (tưới cây, nuôi cá, chăn nuôi), phục
vụ kỷ nghệ (các công nghệ chế biến,
sản xuất giấy, thuộc da, phân bón..)
Trong môi trường
nước ngọt có nhiều loại thủy sản cung
cấp nguồn protein qúy giá; có thể kể nhiều
loại cá: cá lóc, cá rô, cá trê, cá trạch, cá chài, cá chép v.v..
Môi
trường nước lợ
Tại vùng này, ta nhận thấy kiểu địa hình
hỗn hợp sông biển như các cồn cát và các vùng
trũng giữa cồn xưa kia là các đầm phá nay
được biến thành ruộng lúa.
Môi trường nước lơ lớ (nước
lợ) có:
bãi triều lầy (tidal marsh),
rừng ngập mặn gồm
những loại cây sú, vẹt, đước, mắm...
đầm phá (lagoon) là những
vực nước được tạo ra do một
hệ thống những cồn cát ngăn với biển
và ăn thông với biển phía ngoài qua một hay nhiều
cửa dẫn nước. Vùng đầm phá này có nhiều
loại cá trong đó phải kể các loại sau đây: cá
dày, dìa, đối, cơm, bống thệ, cờ chấm..Và
có nhiều loài chim di trú vào mùa đông từ các vùng lạnh
miền Bắc đến như : sâm cầm, vịt
trời, ngỗng trời, cò...tạo nên những sân chim
lớn ở cửa sông Ô Lâu. Hệ thực vật thì ngoài
rong tảo còn có cỏ biển mọc thành thảm lớn
ở vùng cửa biển Thuận An, Tư Hiền, các
lạch sâu ở đầm Thủy Tú và các bãi cỏ nông
dưới mặt nước ở đầm Cầu Hai
Môi trường nưóc
mặn
Thừa Thiên có nhiều loài cá biển, tuy không nhiều
như Bình Thuận vì thềm lục địa nhỏ,
sông ngòi ngắn, ít phù sa. Trong môi trường nước
mặn, có thể kể:
vùng vịnh nhỏ (embayment);
các rạn san hô (coral reefs)
Tuy nhiên, các nơi có độ mặn ít thay đổi có
tiềm năng nuôi tôm sú. Các chân ruộng trũng vùng
đất ven phá Tam Giang tại Quảng Điền, Phú
Vang, Phú Lộc, nếu trồng lúa thì rất dễ bị
ngập khi gặp mưa; nên đắp đê bao nuôi tôm cùng
ống cống rãnh quản trị nước ra vào của
thủy triều.
Những dải rừng
ngập mặn là nơi nhiều loài tôm cá có giá trị sinh
sôi nẩy nở: thực vậy khi lá cây rụng xuống
bị vi sinh vật phân hủy sẽ tạo thức ăn
cho sinh vật; ngoài ra dải rừng này có khả năng
chống gió bão. Khi các giải rừng này mất đi,
đất bị khô thiếu nước ngọt thì
đất sẽ bị xì phèn, tạo nên thêm đất
phèn. Do đó nhiều giải đê lấn biển
được tạo ra để có thêm đất khai
khẩn nhưng chỉ vài năm sau, đất lại
bị bỏ hoang vì đất bị phèn. Có những
nơi phá rừng ngập mặn để nuôi tôm nhưng
nhiều nơi đắp bờ bao nên đất không
được ngập nưóc do đó đất bị
oxydhoá và làm độ chua đất giảm xuống, nên
đất phải để hoang không còn nuôi tôm
được nữa.
6. Tài nguyên thực
vật
Tài nguyên thực vật vùng
núi Thừa Thiên, vì là nơi hội tụ của hệ
thực vật Himalaya và hệ thực vật Ấn-Mã nên
rất đa dạng: rừng nguyên thủy có nhiều
tầng đại mộc, trung mộc, tiểu mộc,
chưa kể một số tre rừng và vài dương
sĩ cao; thấp hơn có nhiều loại mây và lan mọc.Như
vậy rừng nguyên thủy vừa dày, vừa rậm
rạp, có nhiều hệ thống rễ đi xuống
nhiều lớp đất khác nhau nên nước mưa
không chảy tràn mà trái lại, dòng chảy bị chậm lại
và có thì giờ ngấm vào đất sâu, làm nước
ngầm trong đất được sung mãn hơn.
Những cây như lim (Erythrophloeum fordìi), kiền kiền
(Hopea pierrei), táu (Vatica tonkinensis) rất thường gặp
trong các rừng nguyên thủỵ. Ngoài ra, có những cây
bản địa khác có giá trị kinh tế như : lát hoa
(Chukrasia), muồng đen (Cassia siamea), trám (Canarium Album),
huỷnh (Tazrietia Javanicakos), vạng trứng (Endospermum chinensis),
bời lời (Litsea sp), giổi (Talauma), lim xanh, quế.
Những loại cây lâm
nghiệp du nhập và trồng có thể kể: bạch
đàn (Eucalyptus camaldulensis và Eucalyptus tereticornis), keo lá tràm
(Acacia auriculiformis), keo tai tượng (Acacia Mangium), thông
nhựa (Pinus Merkusìi ), gần đây hơn là thông Caraibe
(Pinus caribeae) tỏ ra sinh trưởng nhanh ở vùng gò
đồi, phi lao (Casuarina equisetifolia).
Trên các đồi cát thường
gặp các cây phi lao (Casuarina equisetifolia), vừa giữ
được cát, vừa dùng làm nguyên liệu (xây nhà, làm
cột kèo) hoặc các loài dứa dại (Pandanus),
xương rồng (Opuntia)
Trên các loại đất nghèo nàn
trong nội địa là các loại trảng nhiều lùm
bụi thấp như sim (Rhodomyrtus tomentosa), mua (Melastoma ),
móc, chủi rành (Baecka frutescens)..Trước kia là rừng
nhưng vì loài người đốn phá làm củi nên
rừng bị thoái hoá.
7. Sử dụng
đất đai
Thừa Thiên-Huế có
diện tích đất tổng cọng trên 5000km2 ( 500 920 ha)
trong đó chỉ có 49 107 ha là đất nông nghiệp
gồm đất trồng cây hàng năm như lúa, hoa màu là
45 888ha, còn lại là nhà cửa, cây ăn trái. Vì đất
nông nghiẹp rất nhỏ, nên cùng một thửa
đất, nông dân phải trồng nhiều vụ trong
năm như có thể là 2 vụ lúa, hoặc một vụ
lúa và một hoa màu (bắp, đậu phụng, khoai lang..)
v.v.
Tùy theo ruộng cao,
ruộng thấp mà các giống lúa cũng khác nhau.
Lúa tháng 3 (tức lúa Đông Xuân),
gieo sạ vào tháng 11 âm lịch và gặt vào tháng 3 âm
lịch. Năng suất lúa này tùy mức độ phì nhiêu
của đất phù sa. Diện tích ước
lượng 26 000-27 000 ha mỗi năm.
Lúa tháng 8 (tức luá Hè Thu) gieo
sạ vào tháng 4 âm lịch trên các chân ruộng thấp và
gặt vào tháng 8 âm lịch, trước khi muà lụt
đến (thường vào tháng 9 âm lịch), do đó nông
dân phải sử dụng các giống có chu kỳ sinh
trưởng chỉ từ 90 đến 100 ngày. Diện
tích 22 000 ha mỗI năm.
Hiện nay, trong chiều
hướng thâm canh, nông dân sử dụng các giống chu
kỳ sinh trưởng ngắn, năng xuất cao hơn
nên sử dụng phân đạm rất nhiều so với
phân lân và kali.Vì vậy, mất cân bằng nên làm đất
suy thoái nhanh chóng. Thực vậy, phân đạm làm tăng
lượng hút P, K lên.
Ngoài các loại ruộng làm
được hai vụ lúa, cũng có các loại ruộng
chỉ làm được một vụ lúa và một vụ
hoa màu như đậu phụng, bắp, rau cải. Ven
thị xã Huế, nhiều vườn chuyên canh trồng rau
cải và cây gia vị vì có một thị trường tiêu
thụ quanh năm.
Ngoài lúa, Thừa Thiên có
nhiều loại đậu như đậu xanh,
đậu đen, đậu ván (Dolichos lablab), đậu
ngự (Phaseolus lunatus), đậu nành.
Các loại rau cải và gia vị: ớt, tiêu, gừng,
sả, kinh giới, tía tô, rau thơm, rau cúc v.v,
Các loại cây ăn trái: qúit, bưởi, chanh, khế,
sapotier, mít, ổi, vú sữa, chưa kể vài đặc
sản như dâu núi vừa chua, vừa ngọt; bồ quân,
trái tròn như viên bi.
Các loại củ: khoai lang,
sắn, khoai môn, khoai tia, khoai lùng và đặc biệt có
củ nưa.
Vài đặc sản liên hệ đến các địa
danh ở Thừa Thiên:
Qúit giấy Hương
Cần
Cam đường Mỹ Lợi
Vải trạng Cung Diên
Nhãn lồng Phụng Tiên
Đào tiên Thế Miếu
Thanh trà Nguyệt Biều
Dâu da rừng Truồi
Hột sen Hồ Tịnh
8.
Các vấn đề của tài nguyên đất.
Tài nguyên đất đai
Thừa Thiên có nhiều vấn đề: nạn sa mạc
hoá, nạn hoang hoá, nạn mặn hoá, nạn bờ
biển bị xâm thực, nạn đất dốc bị
xói mòn, nhưng để hệ thống hoá tư
tưởng, ta cũng nên phân loại theo phần
địa hình nói ở phần 2, nghĩa là phân chia vấn
đề của tài nguyên đất theo miền núi và
miền đồng bằng
8.1 Miền núi
Trước hết là nạn xói mòn (erosion) và rữa trôi
(leaching) trong mùa mưa. Đất dốc vùng núi rất
nhiều. Xói mòn phụ thuộc vào nhiều thông số
như chiều dài của độ dốc, độ
dốc nhẹ hay nặng (trên 25 độ), độ che
phủ thực vật. Xói mòn trên các lưu vực sẽ
làm các hồ chứa nước bị lắng tụ
rất nhanh và làm lòng sông cạn dần, khiến lưu
lưọng nước chảy ít đi.
Nên có nông lâm kết hợp,
cọng thêm các biện pháp công trình (bực thềm, hố
) và biện pháp sinh học (băng cây, trồng cây
đậu phủ đất làm phân xanh..). Nhưng nếu
chỉ bảo vệ đất không thôi thì cũng chỉ
mới là biện pháp sơ khởi vì mới cải
thiện phần hữu cơ do đó vẫn cần bón
thêm phân vô cơ (hoá học) trên các cây đa niên, rễ sâu.
Đất hẹp, người đông mà nếu
đất không được sử dụng hợp lý thì
con ngưòi tự làm hại đến mình: đất thoái
hoá thêm, nghèo thêm. Mùa nắng, độ ẩm đất
sụt xuống nhanh, do đó trong các vườn trồng
cà phê, trà, điều, cây ăn trái vẫn cần các
biện pháp giữ ẩm độ.Sau đó là nạn hoang
hoá. Các gò đồi nay trơ sỏi đá rất nhiều
nhưng trước kia là rừng; phá rừng làm
đất mặt bị trôi chảy hết, chỉ còn
lại lớp đất sâu vớI sỏi laterit trên
đất mặtkhông trồng trọt được,
ngoại trừ vài lùm bụi thưa thớt.
8.2 Miền đồng
bằng cũng nhiều vấn nạn:
nạn sa mạc hoá (desertification).
Nhìn các đồi cát trắng mênh mông ở Phong
Điền, Quảng Điền, tưởng chừng ta
đang ở Mauritanie! Thực vậy, cát bay đã khiến
nhiều ruộng vườn bị cát che lấp ; nếu
không cố định bằng các thảo mộc như
dứa dại (Pandanus) hay filao (Casuarina) sẽ gây tai hại
đến môi trường sinh thái các làng duyên hải. Chính
vì cát bay, nên diện tích đất nông nghiệp bị
giảm đi mỗi ngày và chi phối đến cảnh
nghèo đói các quận như Quảng Điền, Phong
Điền.
nạn mặn hoá (salinisation): Vì
lưu lượng sông Hương mùa nắng không nhiều
và thêm tưới nước ruộng đồng cho hoa màu
nên nước biển xâm nhập sâu lên thượng
nguồn. Đầu tháng 5, nước sông Hương
tại cầu Cồn Hến, cách nhà máy nước Giã Viên
3,8 km là 117, 5mg NaCl/l (trên 100mg NaCl/l nước đã có
vị mặn và ảnh hưởng đến nước
sinh hoạt
nạn bờ biển bị xâm
thực :bờ biển Thừa Thiên bị ít đi từng
ngày: với chỉ một trận lụt cuối 1999 và các
trận lũ trong năm 2000 đã làm hàng chục cột
đèn điện, hàng trăm mét đường dọc
bờ biển Thuận An bị nhận chìm và cuốn trôi
ra biển. Bãi cát trên bờ trước kia rộng 300-400m,
nhưng ngày nay, sau một thời gian bị xâm thực,
bờ biển gần như bị xoá sổ trên bản
đồ; nhiều nhà trước đây xa mép nước
biển hàng trăm mét thì nay nước biển đã
mấp mé chân tường.
Bờ biển thuộc xã
Hải Dương, huyện Hương Trà nằm phía
bắc thị trấn Thuận An : biển xâm thực
với chiều dài hơn 1500m, sâu vào đất liền
cả gần 200m; nhiều đồi cát cao hơn 20m xem
như con đê an toàn bảo vệ cho ngư dân nay
nước biển cũng xâm thực. Cột hải
đăng Thuận An có nguy cơ bị sập đổ
vì chỉ còn cách mép nước khoảng 4m. Sóng biển xâm
thực theo sau trận hồng thủy cuối 1999 cũng
đã mở ra thêm 2 cửa biển mới nên hàng trăm
mẫu ruộng ở Bàu Ô ngập sâu trong nước
mặn. Nhiều nhà phải dời nhà.
nạn sụp lở bờ sông:
nạo vét sạn qúa sức lòng sông với những
phương pháp máy nổ hút cát sạn sẽ làm cho lòng sông
Hương sâu xuống, tạo thành nhiều vực nguy
hiểm và gây cảnh sụp lở nghiêm trọng làm cho
nhiều vườn tược ven sông sẽ đổ
xuống dòng sông. Chân bến bị khoét nên nhiều bến
nước bên bờ sông là chỗ người dân si nh
hoạt sẽ không sử dụng được. Như
vậy nhiều đập chắn cũng có thể bị
vỡ, nguy hiểm tính mạng dân chúng.
nạn lũ lụt: Trời hành
cơn lụt mỗi năm... Các dòng sông chảy qua
đồng bằng Thừa Thiên thường ngắn và có
một lưu vực hẹp. Do đó, nước sông lên
rất nhanh.
Mùa lụt đi sát với
mùa mưa lớn, vào tháng 11, cùng với các trận bão
nhiệt đới thổi từ Thái Bình Dương. Câu
tục ngữ của dân gian cũng nói lên điều
ấy:
‘Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái lụt 23 tháng mười
‘.
Vì lưu vực các dòng sông
thường nhỏ và độ dốc lưu vực
rất lớn nên mưa xuống làm nước mưa dâng
cao rất nhanh. Lũ lụt thường đến
bất thình lình và thay đổi tùy năm.. Có lúc mưa bão
gây ra một lượng mưa rất lớn, có thể
vài trăm mm trong 24 giờ. Ảnh hưởng của giãy
núi cũng gây ảnh hưởng. Một phần thì
rặng núi gần đồng bằng, mặt khác, núi có
triền dốc rất lớn, nên vận tốc của
dòng chảy cũng rất mạnh.
Thừa Thiên năm nào
cũng có lụt, lụt lớn, lụt nhỏ, lụt
sớm, lụt muộn.
lụt đầu mùa (vào tháng 5 )
có thể làm hư hại lúa tháng 3 còn gọi là lúa Đông
Xuân sắp gặt, hư hại hoa màu như đậu
phụng, ớt, bắp;
lụt trễ thì làm hư hại
lúa tháng 3 mới gieo.
lụt nhỏ thì các xã vùng
trũng bị ngập trước.
lụt lớn thì ruộng cao
cũng bị hư, chưa nói đến ao nuôi cá bị
vỡ trôi, đê bao bị vỡ hoặc bị sạt
lở, nhà cửa bị cuốn phăng ra biển, mở
thêm các cửa biển như trận lụt cuối năm
1999 đã chứng tỏ.
Nhưng trận lụt
lịch sử cuối năm 1999 đã gây tai nạn
khủng khiếp nhất vì cường độ bão
lụt đã tạo thêm cửa biển mới và hiện
nay, nước biển ra vào đầm phá Tam Giang-Cầu
Hai qua 5 cửa, còn trưóc đó chỉ phần lớn qua
cửa Thuận An và Tư Hiền. Các hệ đê bao,
đê biển đều bị phá hủy, làm đảo
lộn môi trường nước. 44 xã quanh vùng
đầm phá thuộc các huyên Phú Vang, Phú Lộc,
Hương Trà với hơn 300 000 dân bị ảnh
hưởng vì đang có biến đổi về môi
trường sinh thái quanh vùng
Tóm tắt:
đất đai Thừa Thiên bị thoái hoá do 4 tác nhân sau
đây:
do nước ( xói mòn, sụp
lở, bờ biển bị xâm thực),
do gió (đồi cát bị gió bay
gây sa mạc hoá),
do hoá học (mặn hoá),
do lý học (đất dốc,
địa hình núi cao, vực thẳm, do bị nén cứng
(soil compaction) vì trâu bò dẫm chân qúa tải).
Tùy địa phương,
tùy vùng, các tác nhân trên gây thiệt hại nhẹ hay nặng.
9.
Thiết lập một hệ thống địa lí
(Geographical Information system)
Ngay từ thời Việt
Nam Cộng Hoà (trước 1975), chúng ta đã có các bản
đồ địa hình tỉnh Thừa Thiên với
nhiều tỷ lệ xích khác nhau: có cái 1/100 000; có cái 1/250
000; có cái khá chi tiết như ở đồng bằng.
Bộ Nông Nghiệp Viet Nam Cọng Hoà cũng có bản
đồ đất đai tỷ lệ xích 1/ 1000 000
(từ sông Bến Hải trở vô Nam). Nên mã số hoá
(digitalize) các bản đồ trên.
Ngày nay, các điều
kiện môi trường như đất, nưóc,
rừng, lưu vực, cần được nghiên cứu
thêm trong chi tiết bằng cách thiết lập các trạm
đo, các trạm nghiên cứu vì các số liệu về
khí hậu, độ dốc, thảm thực vật, phì
nhiêu, sử dụng đất đai như vậy sẽ
rất có ích cho một cơ sở dữ liệu (data
base), từ đó sử dụng hệ thông tin địa
lý (geographical information systems). Với phần mềm
(software) của chương trình, ta có thể truy cập,
lồng ghép, cải biên, biến đổi, tạo bản
đồ mới theo từng chủ đề (carte
thématique), tiết kiệm thời gian tìm tòi và liên kết
các số liệu, nói nôm na, là với ngân hàng dữ
liệu, ta có thể ‘xào nấu’ lại để tìm
những thông tin mới. Một hệ thông tin địa lý
cho Thừa Thiên được luôn luôn cập nhật hoá
sẽ giúp tư vấn về mọi vấn đề
sử dụng đất đai, từ sổ địa
bộ cho đến quy hoạch đô thị, chuyên
chở, hạ tằng cơ sở, trồng rừng,
chống cát bay.
Nói khác đi, phải áp
dụng công nghệ thông tin (information technology) trong vấn
đề chỉnh trang, hoạch định.
Hình 2. Mô hình của một hệ
thống thông tin địa lý
10. Bảo vệ
đất đai, quản trị lưu vực (watershed
management) và tăng cường độ phì nhiêu
đất đai
Đất là cơ sở
của mọi thực vật và động vật:
nếu đất nghèo, xói mòn thì thực vật mọc trên
đó không thể có năng xuất cao; do đó, cần
phải gìn giữ gia tài này, làm đất được
phì nhiêu mãi mãi hầu có sản xuất bền vững.
trên các gò đồi tức trên các
đất feralít vàng đỏ rất nghèo nàn, nên trồng
những cây. Ngoài các loại cây này, có thể trồng các
loại cây rừng sinh trưởng nhanh như soan Ấn
độ (Azadirachta indica) rất kháng hạn và chịu
được đất nghèo nàn, bạch đàn (Eucalyptus
sp), cho củi cũng như cho gổ. Nuôi bò chú trọng vào
phẩm hơn lượng và phải quản lý các
trảng cỏ sao cho số lượng trâu bò không qúa
sức tái sinh của cỏ, làm đất chóng xói mòn thêm.
Phân xanh kháng hạn (Desmodium, Pueraria, Mucuna), có tính cách bao
phủ đất để vừa có được
nhiều chất mùn trong đất, vừa tạo một
sinh khối tươi nuôi bò
trên đất cát ven biển:
điều chỉnh dinh dưõng phải đi song song
với chặn cát bay, tạo băng cây mọc nhanh
để có nguồn tại chỗ, tăng keo hữu
cơ cho đất bằng mọi phương pháp
trước khi dùng phân hoá học.Vùng cát : cát lấp làng,
lấp ruộng, lấp đường giao thông do đó
phải lập rừng, cố định cát, nâng cao
độ che phủ rừng trên vùng cát di động :
trồng dứa dại (Pandanus sp), phi lao (Casuarina), trồng
dừa với những băng cây xanh như đậu
triều (Cajanus cajan), ở giũa các hàng dừa để
chống nạn cát bay
trên các chân đất cao, nhiều
cát ít giữ nước, cần trồng những cây ít
cần nước như đậu phụng, đậu
triều (Cajanus cajan), và nên lập các cơ sở hạ
tằng như nhà máy ép dầu đậu phụng tại
chổ thay vì xuất cảng đậu phụng hột.
trên đất mặn ven phá : nuôi
tôm các vị trí thuận lợi ven phá, nuôi các thủy
sản như cá, cua. Tùy vị trí, làm đê ngăn mặn,
giữ ngọt
trên đất dốc : Loại
đất núi này sau khi khai hoang thì mất chất hữu
cơ nên khả năng giữ dinh dưỡng của
đất sẽ không cao. Chất hữu cơ giảm
sẽ kéo theo một loạt suy thoái: suy thoái về dung tích
hấp thu (cation exchange capacity), về đạm, về
cacbon. Các loại đất dốc thường nghèo dinh
dưỡng, chua, nghèo đạm, lân và kali dễ tiêu.
Cần tạo băng chắn cây xanh bảo vệ
đất dốc, giảm độ dốc để
chống xói mòn và rửa trôi, cải thiện độ phì
nhiêu đất dốc, nông lâm kết hợp, tăng
ẩm độ. Giúp các xã lân cận rừng bảo vệ
rừng bằng cách giao đất cho xã tự lo liệu lấy
việc quản trị bền vững vì ‘cha chung không ai
khóc’. Thông nhựa Pinus merkusii là cây rừng trồng
được trên gò đồi núi thấp trên đất
này, dù đất thoái hoá mạnh, đồi trọc (Thiên
An, Núi Ngự). Nhược điểm của rừng thông
thuần loại là dễ cháy, dễ bị dịch sâu bệnh,
nhát là dịch sâu róm thông và ong cắn lá
trên đất phù sa: Vì đây là
vùng đất có nhiều tiềm năng sản xuất
thực phẩm cao độ, nên cần lập các bản
đồ đất đai trong chi tiết vì nhờ
vậy, mới có thể bón phân hoá học chính xác
được, giúp bớt ô nhiễm đất và
nước. Thực vậy, bón phân thái qúa cũng không phát
huy hiệu qủa tốt mà lại tốn nhiều
tiền.
Bón phân hoá học cân
đối nghĩa là không chỉ sử dụng quá
nhiều đạm và lân mà còn chú trọng thêm phân kali và các
vi lượng (oligoelements). Tăng cường phân hữu cơ
và tận dụng các phân mục (compost) từ rác rến
trong thành phố và các thị trấn.
Hình 3. Ảnh hưởng của
người và rừng trên các yếu tố đất,
nước, địa hình và khí hậu
11.
Đa dạng sinh học và bảo vệ đa dạng sinh
học
Nhiều loài cây rất thân
thương quen thuộc nhưng thật ra, trước
kia không có ở Thừa Thiên vì có nguồn gốc từ các
xứ khác: cây khế, cây xoài, cây vú sữa, cây cao su, cà phê,
cây xapochê v.v xuất xứ từ Nam Mỳ, từ Ấn
Độ, từ khu vực Mã lai.
Sau đây là vài loại cây thường gặp ở
Thừa Thiên với nguồn gốc không phải Đông Nam
Á:
Tiếng
Việt
|
Tên khoa
học
|
Nguồn
gốc
|
Đậu
phụng
|
Arachis
hypogaea
|
Nam
Mỹ
|
Đậu
triều
|
Cajanus
cajan
|
Ấn
Độ
|
Ớt
Capsicum
|
annưm
|
Nam
Mỹ
|
Khoai
lang
|
Ipomea
batatas
|
Nam
Mỹ
|
Cà chua
|
Lycopersicum
esculentum
|
Nam
Mỹ
|
Khoai mì
|
Manihot
esculenta
|
Nam
Mỹ
|
Thuốc
lá
|
Nicotiana
tabacum
|
Nam
Mỹ
|
Bắp
|
Zea mays
|
Nam
Mỹ
|
Thơm
|
Ananas
comosus
|
Nam
Mỹ
|
Điều
|
Anacardium
occidentale
|
Nam
Mỹ
|
Mít
|
Artocarpus
heterophyllus
|
Ấn
Độ
|
Khế
|
Averrhoa
carambola
|
Indonesia
|
Đu
Đủ
|
Carica
papaya
|
Trung
Mỹ
|
Dưa
hấu
|
Citrillus
lanatus
|
Phi châu
|
Cà phê
|
Coffea
robusta
|
Phi châu
|
Xapochê
|
Manilkara
zapota
|
Trung
Mỹ
|
Xoài
|
Mangifera
indica
|
Ấn
Độ
|
Tiêu
|
Piper
nigrum
|
Ấn
Độ
|
Ổi
|
Psidium
guava
|
Trung
Mỹ
|
Lựu
|
Punica
granatum
|
Ba Tư
|
Mía
|
Saccharum
officinarum
|
Papua New
Guinea
|
Me
|
Tamarindus
indica
|
Ấn
độ
|
Cây phi
lao
|
Casuarina
equisetifolia
|
Úc châu
|
Cây
phượng vĩ
|
Delonix
regia
|
Madagascar
|
Bạch
đàn
|
Eucalyptus
(camaldulensis, tereticornis,...)
|
Úc Châu
|
Các loài thực vật hiện tại đều có
nguồn gốc hoang dại nhưng lại có quan hệ
họ hàng với các loài đã được con
người thuần dưỡng. Nhiều giống cây,
nhiều giống hoa màu hoang dã nhưng lại chứa
đựng một quỹ gen rất phong phú. Nhờ
quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải
thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống,
ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi
với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp cải
thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học
là điều kiện cần thiết để có một
quỹ gen phong phú. Nhiều giống luá kháng lạnh, kháng
hạn, kháng mặn có rải rác ở mọi nơi.
Nhờ đa dạng sinh
học, nhất là thảo mộc hoang dã trên núi, giúp cải
thiện khí hậu, bảo vệ đất chống xói
mòn, điều hoà dòng chảy; nhiều dược
phẩm mới có khả năng được phát
hiện qua các khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên
trong rừng. Và nhất là Thừa Thiên, các khu rừng có
đặc tính đa dạng sinh học rất cao vì
vừa là nơi các hệ thực vật Nam Hoa và Nam Á giao
thoa lẫn nhau. Nếu ta hủy hoại rừng, vô hình
chung tài sản gen của nhân loại bị phá vỡ luôn.
Tính cách đa dạng các
nông sản đã tạo nên văn hoá ẩm thực đa
dạng. Chỉ nói về chè ở Thừa Thiên, ta có : chè
hột sen, chè đậu ván, đậu ngự, đậu
quyên, chè bắp, chè đậu xanh, đậu đen, chè
môn, chè khoai tía, chè kê..Các gia vị đa dạng cũng
vậy : ớt, tiêu, hành lá, tỏi, kiệu, rau tầng
ơ, thì là, rau răm, rau thơm, rau húng quế, quế,
sung, vả..
12. Dân số, phát
triển và môi sinh.
Sơ đồ sau dây cho
thấy các thành phần của sự thay đổi môi
trường do ảnh hưởng của dân số,
sự gia tăng dân số liên quan đến nông nghiệp,
kỷ nghệ, đô thị hoá :
Hình 4. Mô hình liên quan giữa dân số, nông
nghiệp và kỷ nghệ
13.
Vài
đường hướng phát triển
A/ Theo góc độ tài nguyên
thiên nhiên.
Giãy núi Trường Sơn
liên hệ chặt chẻ với miền đồng
bằng duyên hải vì sự tàn phá môi sinh trên núi ảnh
hưởng tại hạ lưu, do đó muốn có sự
phát triển bền vững, cần trùng tu, bảo vệ
môi sinh của rặng núi này, có thế mới có sự phát
triển lâu bền miền hạ lưu. Cụ thể là:
trồng các cây kỷ nghệ lâu
năm, có hệ thống rễ ăn sâu vào đất
như cà phê, trà, cây ăn trái tại các triền dốc
nhẹ ( dưới 10%).
tại các ven suối, khe có ẩm
độ mát nên trồng chuối plantain như chuối
trồng tại các hệ thống canh tác truyền
thống tiểu nông ở Cuba, Haiti vì giống chuối này
kháng bệnh và có tinh bột nhiều, ăn như cơm..
Chuối giữ được đất, mau cho lợi
tức và chống được xói mòn.
trên các triền dốc trung bình (
từ 10 đến 35% ), có thể vừa trồng cây hàng
năm phối hợp vói cây lâu năm, có rễ sâu, trong
hệ thống nông lâm kết hợp để vừa có
lương thực, vừa duy trì bảo vệ
được môi trường.
tại các triền dốc
mạnh thì tuyệt đối phải trồng rừng
hỗn hợp (bạch đàn Eucalyptus, soan Azadirichta indica
kháng hạn, Acacia..) để vừa có gổ cung cấp
nhanh chóng cho đồng bằng vừa bảo vệ
đất
tại các địa điểm
thuận tiện về mặt địa hình, nên thiết
lập thêm các hồ chứa nước. Các hồ này giúp
giảm bớt nạn lụt ở hạ lưu, giúp
tăng thêm lưu lượng nước cho sông ngòi vào mùa
nắng để có đủ nước tưới cho
miền đồng bằng.
tại miền đồng
bằng, trên các đất nào gần nguồn cung cấp
nước, có khả năng trồng rau cải hàng hoá
(hành, tỏi, các loại cải..) xử dụng máy bơm
từ các giếng cạn; trên các phù sa cận đại,
có thể trồng các loại cây ăn trái như vải
thiều, nhãn Thái Lan. Gần đô thị, có thể
trồng hoa, trồng lan để xuất cảng
miền phá, đầm.. nghỉ
đến nuôi trồng thủy sản (cá, tôm...) bằng
cách tận dụng các phó sản nông nghiệp ở
đồng bằng.
miền cửa biển, vũng,..
Nghiên cứu khả năng phát triển du lịch
để tạo công ăn việc làm.
B/ Theo góc độ hoạt
động phi nông nghiệp.
Nông dân không đất nên
giúp phương tiện, đào tạo ngành nghề
để họ chuyển sang khu vực kinh tế ngoài nông
nghiệp (off-the-land activities) :cần phát triển kỷ
nghệ tại nông thôn để giữ nông dân lại
tại nông thôn, nếu không họ tràn vào đô thị, gây
thêm nhiều vấn nạn xã hội.Các kỷ nghệ
như biến chế nông sản, sản xuất và sửa
chữa nông cơ, nông cụ, kỷ nghệ xây dựng và
các dịch vụ tại nông thôn (tín dụng, ngân hàng, bảo
hiểm, chuyên chở), buôn bán các phương tiện
sản xuất (phân bón, thuốc chủng, giống cây
trồng..) cũng như thương mãi giúp giảm áp
lực dân số trên đất trồng trọt.
Thừa Thiên với
những trường Đại Học, với những
người cần cù hiếu học, có điều
kiện phát triển các công nghệ thông tin, các công nghệ
sinh học, tóm lại các việc cần chất xám, làm
giảm được sức ép trên tài nguyên thiên nhiên
Đây là hướng đi trong tương lai, vì Thừa
Thiên có tiềm năng nông nghiệp quá hẹp. Các dịch
vụ như:
kỷ nghệ du lịch: Ngoài các
du lịch cổ điển (thăm Đại Nội,
lăng tẩm..), du lịch sinh thái (tourisme écologique) ở
những vùng rừng núi, qua suối, qua khe, nhìn thác
nước, nhìn trăng lên ở miền núi..cũng là khía
cạnh cần khai triển trong các vùng giãy núi Trường
Sơn ở Thừa Thiên.
kỷ nghệ đóng đồ
mộc, do đó cần trồng cây gổ mọc nhanh, thân
cây suông sẻ trên đất hướng lâm.
kỷ nghệ giao thông. Thừa
Thiên là cửa ngỏ đến các xứ thuộc ASEAN
gần nhất vì với đường số 9 và cây
cầu băng ngang sông Mékong ở Savannakhet theo kế
hoạch dự trù, sự trao đổi hàng hoá sẽ
rất dễ dàng vì xa lộ này sẽ xuyên qua Thái Lan
đến hải cảng ở Miến Điện
rất nhanh chóng, nối liền Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương.. Các kỷ nghệ phi nông
nghiệp này kéo theo một loạt các dịch vụ khác,
tạo công ăn việc làm như trạm xăng, sửa
xe hơi, bảo hiểm, ngân hàng...
14. Thay lờI
kết
Không thể chối cãi
rằng hiện nay, tài nguyên tái tạo được
của Thừa Thiên bị nhiều chấn thương
quan trọng do nhiều yếu tố; ngoài yếu tố
thiên tai, con người đã tác động xấu
đến môi trường do sức ép dân số nên sự
cân bằng sinh thái bị đảo lộn, trên núi với
hiện tượng xói mòn, duyên hải với sa mạc
hoá, đồng bàng với nhiễm mặn.
Cải thiện môi
trường đòi hỏi một tiếp cận sinh
hệ, xem môi trường như một hệ thống
gồm nhiều yếu tố có tương quan lẫn nhau;
cái này dẫn đến cái kia, do đó muốn cải
thiện môi trường, phải tác động lên toàn
bộ và đồng thời mới có hiệu năng.
Tiếp cận sinh hệ nhằm bảo vệ và ngăn
ngừa các hậu qủa tai hại trước khi hậu
qủa xấu xảy ra và không phải chỉ nhằm
mục tiêu duy nhất là sản xuất mà còn phải
kết hợp với các chức năng khác như giải
trí ngoài trời, du lịch sinh thái, bảo vệ chất
đẹp, chất thơ, chất hồn, nhưng cũng
quan tâm đến nhu cầu kinh tế chính đáng của
các cộng đồng sống quanh hệ sinh thái, nói khác
đi, khai thác tiềm năng phát triển của Thừa
Thiên, là vừa khai thác khoa học tài nguyên thiên nhiên trên các
miền đất đai khác nhau, vừa tôn trọng cân
bằng sinh thái, có như vậy thì mới có sự phát
triển lâu bền.
Tác động toàn bộ có
nghĩa cụ thể từ giáo dục để nâng cao
nhận thức bảo vệ môi trường, đến
sinh đẻ có kế hoạch, từ quản trị
lưu vực trên núi đến ngăn sa mạc hoá
dưới đồng bằng, tóm lại phải làm
đẹp cả hai loại môi trường là môi
trường cảnh quan thiên nhiên và môi trường
cảnh quan văn hoá.
Chỉ khi mà cả hai
loại môi trường thiên nhiên và sinh thái nhân văn này
được hài hoà, hài hoà giữa rừng và núi, giữa
núi và sông, giữa người và đất, giữa
đồng bằng và núi thẳm thì con người mới
thăng hoa trong cuộc sống nghĩa là tiến bộ
về vật chất và an bình trong tâm hồn.