Các quần xã
thực vật trên thế giới
1. Tổng quan
Nếu có ai hỏi hãy tìm chỉ một cá thể duy
nhất vừa bảo đảm đất giàu, vừa điều hòa được nước và lụt,
vừa phát sinh hơi nước, vừa tồn trữ cacbon, vùa thanh lọc
không khí, vừa điều hòa nhiệt độ, vừa chứa động vật và thực
vật, vừa làm đẹp cảnh quan thì chắc hẳn câu trả lời đó là
một cây và cây lại là một phần của rừng. Trái Đất xưa kia
rất nhiều rừng; rừng che phủ mọi nơi; chính do sự mục rửa
cây cối trong những điều kiện nhất định đã tạo nên dầu hoả,
mỏ than. Con người từ thời mới phát sinh ra cách đây mấy
trăm ngàn năm cũng phải dựa vào rừng mà sống: văn minh du
mục, sự săn bắn, củi đốt trong hang đá, làm nhà, đau ốm đều
nương vào rừng. Không rừng, con người không có nguyên liệu,
không muông thú để săn bắn.. Trong bài quốc ca của Việt Nam
thời trước 1945, còn gọi là Đăng Đàn Cung, có câu hát:
Kìa núi vàng bể bạc, có sách trời,
sách trời định phần...
Núi vàng không phải là núi có vàng mà ý
nói là núi chứa đựng nhiều tài nguyên trong đó rừng là một.
Rừng chính là vàng xanh; rừng còn qúy hơn vàng vì rừng ảnh
hưởng đến khí hậu, đến thủy văn, đến sức khoẻ con người .
Qủa vậy, rừng có nhiều chức năng: che chở, cung cấp, bảo vệ
..Vậy mục đích bài này là trình bày các chức năng ấy cũng
như tương quan hữu cơ nhiều chiều giữa người và rừng, giữa
rừng và nước, giữa nước và khí hậu v.v..
2. Các loại
rừng trên thế giới
Đi từ miền xích đạo lên bắc cực, có nhiều
loại rừng như sau:
2.1 Rừng mưa nhiệt đới
(wet evergreen forest, còn có tên là tropical rainforest).
Gặp ở vùng Amazonie của Bresil, Congo bên Phi Châu, Đông Nam
Á, Indonesia . Mưa suốt bốn mùa, nhiệt độ nóng đều (tư` 24 0
đến 300 ) nên cây cối rậm rạp, giây leo chằng chịt, nhiều
loài phụ sinh trên thân cây, lá xanh quanh năm; có trên 100
loài thực vật trong mỗi hecta. Lượng mưa lớn do đó rừng có
nhiều tầng, cao, rậm rạp. Mặt trời ít khi xuống tận mặt đất.
Cây to, dưới gốc có "bạnh" như cây bằng lăng, trên thân có
phong lan, tầm gửi, mây chằng chịt. Động vật phong phú với
vượn, khỉ, sóc, chim, voi, trâu rừng, thỏ.. Tuy chỉ chiếm 7
% diện tích đất nhưng trên 50% chủng loại động vật và thực
vật là nằm trong loại rừng này . Do đó, đây là hòn ngọc, là
hột xoàn về đa dạng sinh học của hành tinh chúng ta
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những tre cùng nứa lấy ai bạn cùng
Cây mai trong ca dao là một loài tre nứa
to (Sinocalamus giganteus), cao 15-20m, thường dùng trong
xây dựng, làm bè mảng, ống máng dẫn nước.
Cây trúc cũng loài tre, tên khoa học là
Phyllostachys, mọc nhiều vùng Thượng du và Trung Du miền
Bắc. Cây trúc cũng được nhắc nhở trong ca dao:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng thế nào cũng xinh
Vì Việt Nam trải dài qua nhiều vĩ tuyến
và có nhiều cao độ khác nhau nên có nhiều loại rừng. Trên
Dalat có nhiều rừng thông 2 lá (Pinus merkusì), thông 3 lá
(Pinus Khasya), tùng (Juniperus), bách tán (Araucaria
excelsa).
Vùng Đông Bắc như Sơn La, Lai Châu, Fan
Si Pan, có các cây pơmu (Fokiena hodginsì), samu
(Cunninghamia lanceolata), du sam (Keteleeria davidiana) là
các cây gỗ qúy.
Vùng cao độ thấp có mùa khô rõ rệt, ta
gặp rừng dầu (Cheo Reo, Ban Don) gồm các cây họ
Dipterocarpaceae.
Vùng mưa đều và mùa khô ít rõ rệt, có
rừng dày luôn luôn xanh (Kontum, thượng nguồn Trị, Thiên,
Nam, Ngãi ) Có cây trắc (Dalbergia cochinchinensis), giáng
hương (Pterocarpus pedatus), cẩm lai (Dalbergia oliverrì),
gụ (Sindora cochinchinensis)..
Ven biển như Ca Mau, Cần Giờ có rừng ngập
mặn với cây mắm, đước, sú, vẹt
Trung Du miền bắc cũng như tại nhiều nơi khác, do đốt nương
rẫy ta gặp rừng thứ sinh với tre nứa , gồm rừng tre lồ ô
miền Nam, trúc ở Bắc Cạn, Thái Nguyên, nứa ở Việt Bắc. Tre
nứa là loài cây ưa ẩm, ưa sáng, mọc nhanh, dùng xây nhà, làm
giấy, hàng thủ công..
2.2 Rừng khô rụng lá nhiệt đới
(tropical seasonal forest; forêt sèche tropicale) .Hiện diện
ỏ Thái Lan, Ai Lao, Bắc Australia, miền Caraibes. Khi rời
vùng xích đới đến vùng nhiệt đới thì lượng mưa hàng năm nhỏ
đi và trong năm có mùa khô hạn. Thảo mộc thích nghi với mùa
khô bằng cách rụng lá để tránh mất nhiều nước. Mùa thu, lá
cây phong nửa vàng nửa đỏ:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du cùng con
ngườI gắn bó quyện vào nhau đến nỗi ‘người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ‘. Thiên nhiên thông cảm với tình người
vì khi hai người yêu phải xa nhau thì vầng trăng kia cũng vì
hai người mà ‘ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc, nửa soi dặm
đường’.
2.3 Savan hoặc thảo nguyên.
Khi mùa khô kéo dài quá 3 tháng và lượng mưa ít dần thì rừng
nhiệt đới thưa dần và nhường chỗ cho thảo nguyên. Thảo
nguyên có nhiều dạng, từ thảo nguyên có cây thưa thớt rải
rác trên cánh đồng cỏ mà mùa xuân ‘cỏ non xanh tận chân trời
‘ đến thảo nguyên chỉ có thỉnh thoảng vài lùm bụi.
Sự đốt rừng nguyên thủy ở Phi Châu và
châu Mỹ nhiệt đới đã tạo những thảo nguyên rộng lớn với
nhiều động vật móng guốc tăng lên .Động vật có ngựa vằn,
hươu cao cổ, tê giác. Chúng thích nghi với sự vận chuyển
trên đồng cỏ hoang vu (thân thon, chân co dà khỏe, có guốc).
Có những loài thú ăn thịt thích nghi vớI sự chạy nhanh,
chúng săn bắt thú ăn cỏ (sư tử, báo ..), có những loại chim
như đà điểu . Sâu bọ có cào cào, châu chấu (criquet
pelerin). Vietnam có nhiều savan cỏ tranh (Imperata
cylindrica).
2.4 Hoang mạc (steppe):
có ở miền nhiệt đới và ôn đới.
Thực vật rất nghèo, chỉ vài cây bụi nhỏ vớI đám cỏ thấp, có
rễ rất dài ăn xuống các lớp đất sâu để hút nước. Nhiều cây
mọc rất nhanh về mùa xuân khi mặt đất còn ẩm ướt, chúng lớn
lên ra hoa, tạo qủa trong vòng 1 tháng rồi chết. Động vật
hoang mạc có lạc đà một bướu, linh dương. Sự thích nghi của
động vật với đời sống hoang mạc rất rõ nét biểu hiện ở các
điểm chống cự được với khô nóng như giảm sự tiết mồ hôi và
nước tiểu, hoạt động chủ yếu về đêm, có đời sống chui rúc
trong đất
2.5 Rừng Địa Trung Hải
gồm những cây không cao qúa 5 mét như sồi xanh (Quercus
ilex), sồi bần (Quercus suber). Loại rừng này gặp quanh vùng
Địa Trung Hải nhưng cũng có mặt ở Cali (Mỹ) và bắc Mexico mà
danh từ địa phương gọi là ‘chapparal ‘, miền Nam Australia
2.6 Rừng ôn đới
có lá rụng (Temperate deciduous forest, còn gọi là hardwood
forest ; forêt feuillue tempérée) phát triển mạnh ở Đông
Canada, Đông Bắc Hoa Kỳ, Tây Âu và Đông Âu.
Có quãng 60 loài cây khác nhau như sồi (oak), hêtre (beech),
phong (maple).
Có ba loại quần xã như có nhiều loại sồi (chênaie), cây
phong (érablière) và cây hêtre (hetraie). Gặp đông Hoa Kỳ,
Đông Trung Hoa, Đức, Pháp, Anh... Riêng Quebec loại rừng này
gặp vùng Montreal, Sherbrooke, Trois-Rivières, Hull
Có lá rụng mùa thu: Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
Hay:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Lượng mưa vừa phải; lá rụng vào thu, tạo
một lớp lá khô dày đặc trên đất.
Có nhiều thú như hươu, nai, gấu, chó sói. Meleze, bouleau,
erable, peuplier.
2.7 Rừng mưa ôn đới
(temperate rainforest; forêt pluviale tempérée)
Có ai đã đi Vancouver và miền Bắc British Columbia thì chắc
hẳn nhận thấy vùng này mưa nhiều, mưa quanh năm và ít tuyết.
Gặp ở Tây Bắc Hoa Kỳ như tiểu bang Washington, Oregon, gặp ở
Tây Bắc Canada như bắc Vancouver. Ngoài ra, rừng này có ở
Tân Tây Lan (New Zealand), Đông Australia . Cây Sequoia, cây
Eucalyptus là các loại thường thấỵ
2.8 Rừng lá kim miền Bắc
(Northern Coniferous forest; forêt boréale). Chiếm đến ba
phần tư ở tỉnh bang Quebec vì trải rộng từ vĩ tuyến 49 đến
vĩ tuyến 52. Trên thế giới, loại rừng này có mặt ở Canada,
Bắc Âu, Siberia, Nam Alaska .Riêng Quebec, các vùng bắc Baie
Comeau, bắc Sept Iles, bắc Abitibi có nhiều loại rừng này.
Đây là rừng thông phương bắc có những loài cây lá nhọn như
thông (Pinus), linh sam (Abies), vân sam (Epicea), thông
rụng lá (Larix), có chen cây bu lô (bouleau) làm giấy.
2.9 Thảo nguyên:
thảo nguyên rừng ôn đới thì mùa hạ vẫn nóng và dài, mùa đông
thì đỡ lạnh vì có ít tuyết. Bò bison, ngựa hoang, caribou.
Tính chất sống theo đàn, vận chuyển nhanh, di cư.
2.10 Rừng taiga
Phía nam của đồng rêu toundra, ta gặp một loại quần xã thực
vật bắt đầu có rải rác cây epicea. Cũng cần lưu ý là cây
epicea thì Quebec gọi là épinette và có rất nhiều miệt
Abitibi, dùng làm bột giấỵ (Épinette tức spruce tiếng Anh)
Khí hậu rừng taiga lạnh, mùa đông kéo dài. Động vật có hươu
(Cervus canadensis), nai (Alces americana), thú ăn thịt như
gấu, chó sói, cáo .
2.11 Đồng rêu đới lạnh
(toundra) nằm trên các vùng có băng đóng vĩnh viễn trên mặt
đất. Ngày mùa hạ rất dài . Mùa đông, đêm kéo dài hàng tháng.
Do đó thực vật chỉ là rêu
Cùng một vùng khí hậu, nhưng các quần xã
thực vật khác nhau vì tính chat lý hoá của đất khác nhau:
Rừng ngập mặn, vừa úng nước, vừa nhiều mặn gồm sú, vẹt, đước
v.v là những cây bám trụ trên đất còn dao động vớI biển.
Rừng ven sôngsuối:
Sông Tần một giải trong xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành dương quan
Loi thoi chứ không phải lôi thôi ! Loi
thoi bờ liễu nghĩa là bờ liễu không thẳng, nhô ra, nhô vào,
Miền đồi núi đá vôi có cây ưa vôi, phát triển chậm, nhưng gỗ
rát cứng như trai, nghiến.
3. Nhiệm vụ
của rừng
3.1 Rừng bảo vệ đất:
Khi mưa xuống, nưóc mưa sẽ bị lá cây, tàn cây ngăn chận ,
nước đập vào đất sẽ nhẹ hơn, làm đất bớt tung toé; chảy
xuống thân cây rễ cây thấm dần do đó, đất bớt xói mòn hơn .
Nhờ rừng nên đất có thảm cỏ lá mục, cải tạo môi trường đất,
có tác dụng nâng cao độ phì nhiêu của đất.
3.2 Rừng với khí quyển:
rừng chở vào không khí nhiều oxy hơn; do quang hợp, rừng hút
đi chất CO2 độc hại và nhả ra oxy làm không khí dễ thở hơn,
con người vào rừng khoẻ khoắn hơn. Đó là lí do các công viên
có cây xanh rất cần trong thành phố. Các khí phát thải từ
các xe hơi, các nhà máy như khí Co2 bị lớp mây cao che khuất
lại, không thoát ra khỏi tầng khí quyển nên làm khí hậu trên
địa cầu nóng dần. Ngoài CO2, các khí như metan, nitơ oxit,
khí CFC (clorofluorocacbon) cũng là các khí hiệu ứng nhà
kiếng (gas à effet de serre). Khi nhiệt độ Trái đất nóng thì
các tảng đá băng ở hai cực Địa cầu sẽ tan đi, làm cho mực
nước biển dâng cao Các nước họp ở Kyoto năm 1997 quyết định
làm giảm lượng khí nhà kiếng. Nghị định thư Kyoto muốn giảm
các khí nhà kiếng đó . Một giải pháp là trồng lại rừng để
hút bớt chất CO2 trong khí quyển, làm giảm bớt Co2.
3.3 Rừng với nước:
Rừng bảo vệ nguồn nước, hạn chế thiên tai. Chính vì phá rừng
trên thượng lưu sông Mekong mà ngày nay, năm nào cũng lụt
chết người miền Lục Tỉnh. Ẩm độ trong đất (soil moisture)
rừng cao hơn đất trống vì nước được giữ lại; nhiệt độ đất
(soil temperature)trên đất rừng thấp hơn đất trống trải. Khi
chế độ nước khô hạn, khi nhiệt độ đất cao thì đó là các điều
kiện để sa mạc hoá.
3.4 Rừng chống nạn cát bay/ chắn sóng
ven biển:
Nhiều nơi như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên có nạn cát
bay làm cát chiếm các đồng ruộng, đường sá: mùa mưa, cát
trôi thành suối cát; mùa hè, gió Lào khô nóng thổi mạnh xen
kẽ với gió mùa Đông Nam; mùa đông, gặp gió mùa Đông Bắc thêm
với gió bão từ biển Đông thổi đến. Trồng rừng phi lao hay
dứa dại giúp ổn định các đồi cát.
4. Công dụng
của rừng
4.1 Rừng cung cấp gổ củi:
gổ làm bàn ghế giường tủ; củi nấu ăn, nung trong lò gạch,
làm than.
4.2 Rừng cung cấp các sản phẩm ngoài
gỗ củi.
Đó là nấm, mật ong, măng tre, mây, hoa lan, dược thảo, trầm.
Nấm trong rừng nhiều loại: nấm mèo đen, nấm mèo trắng, bào
ngư, linh chi, hầu thủ . Nấm mèo (Auricularia polytricha),
còn có tên là mộc nhĩ là nấm sống tren gỗ mục. Vùng núi có
nấm hương (Agaricus rhinozerotis) có mùi thơm, ăn ngon..
Khắp núi rừng Dalat, có những loại nấm mèo trắng, bào ngư và
đông cô.
Trong rừng có tre .Tre nhiều loại nào là
tre lồ ô (Bambusa procera), tre la ngà (Bambusa multiplex),
tre gai (Bambusa stenostachya), tre nhà (Bambusa vulgaris).
Ngoài tre, rừng có nứa (Neohouzeaua), sặt (Arundinaria),
luồng (Dendrocalamus), trúc (Phyllostachys) và các loài tre
này dùng trong nhiều việc: dụng cụ trong nhà (làm đủa, đan
thúng, tăm, giường ), dụng cụ bắt cá (lờ, rọ, cần câu ..),
bẫy chuột, làm vách phên nhà, làm dụng cụ săn bắn (cung,
tên), làm dụng cụ âm nhạc (sáo), làm giấy.
Trong rừng có nhiều cây lan mọc, đủ loại
mà sau đây chỉ kể ít lan thông dụng ở Viet Nam:lan hồ điệp
(còn gọi là lan cành giao), lan da báo, lan đuôi cáo, lan
dáng hương, lan hạc đính, lan hoàng thảo vảy rồng, lan tai
trâu và đặc biệt có nhóm lan hài (Paphiopedilum) có hoa có
màu sắc đa dạng có hình thù giống như mũi giày nên gọi là
lan hài thường mọc các vùng núi đá vôi .Người nuớc ngoài
thưòng chỉ mua ồ ạt các lại lan này để có thể lai tạo giống
khác và đẹp. Nhưng sau đó thì tự nhiên họ ngưng nhập trong
khi đó thì rừng Viet Nam đã cạn kiệt phong lan loại này.
4.3 Rừng cung cấp thuốc trị bệnh.
Xưa kia, con người nhờ các loại cây cỏ trong rừng để chữa
bệnh vì cây cỏ có chất làm lành vết thương, giải nhiệt, giải
độc, mụn nhọt, trị cảm cúm, trị ho... Ngày nay, dù khoa học
có tiến bộ nhưng rừng vẫn là nơi các thực vật cung cấp
nguyên liệu để khảo cứu, trích các tinh dầu.
Nạn sốt rét gây tàn phá làm chết rất
nhiều sinh mạng. Cây quinquina (Cinchona sp) cho chất
quinine và các thuốc trị sốt rét như chloroquine,
quinacrine, primaquine đều từ quinine mà ra. Chất này không
phải chỉ trị sốt rét mà còn dùng chữa nhều bệnh khác nữa.
Trong rừng Mexique có một loại khoai vừng
(Dioscorea sp) cho chất diosgénine dùng để chế cortisone và
hydrocortisone dùng để trị bá bệnh (sưng đau nhức, phong
thấp...) Cây Catharanthus roseus từ Madagascar cho đến 75
alcaloid khác nhau và một số dùng trị ung thư. Trong quãng
3000 cây chứa các đặc tính chống ung thư thì có đến hơn 2000
cây từ rừng nhiệt đới.
4.4 Rừng cho nhiều loại trái cây ăn
được.
Nhiều loài cây trong rừng có trái ăn được: sim, mồng quân,
dâu rừng, giẻ ..
Đói lòng ăn mớ trái sim
Nhịn ăn khát nước đi tìm người thương
4.5 Rừng là lá phổi của hành tinh ta
ở.
Khi trái đất còn hỗn mang, trái đất không có cây cối . Dần
dà, trái đất có cây xanh lá chứa chất diệp lục; chất này có
đặc tính hấp thụ đuợc một phần năng lượng mạt trời qua hiện
tượng quang hợp. Trước kia, trái đất cũng không có oxy và
cung chính nhờ hiện tượng quang hợp này, mà có oxy: trong sự
quang hợp, cây hút CO2 và nhả ra oxy. Chính nhờ rừng hút bớt
đưọc chất CO2 do khói nhà máy, khói xe cộ nên rừng xem như
nơi chứa cacbon.
5. Đa dạng
sinh học và bảo vệ đa dạng sinh học
Rừng nhiệt đới chứa một kho tàng và một
sản xuất sinh học vô cùng lớn. Rừng cung cấp thức ăn, thuốc
uống, tre, nứa, mây, hoa, nấm, phong lan, trầm hương, thú
hoang, mật ong, gia vị, chất hương thơm, vỏ cây .. Sau khi
chế biến, rừng cho ta bột giấy, dầu, nhựa, verni, thuốc sát
trùng, thuốc trị bệnh, mủ cây ..Rừng cho ta các cây trang
trí nội thất: dâm bụt, hoa lan, quỳnh (‘quỳnh thơm hay môi
em thơm’), mai, trúc...
Rừng là nguồn gen: Vì rừng chứa nhiều
loại thực vật khác nhau nên đó là một kho gen vĩ đại; muốn
tháp gen thì phải có gen nào cần như có cây có gen kháng
mặn, kháng bệnh thì đưa gen đó vào loài cây muốn cải thiện.
Như vậy rừng là vàng xanh vì rừng chứa một kho gen vĩ đại mà
khoa học tháp gen sẽ phải mãi mãi cần như một nguồn dự trữ .
Nhờ đa dạng sinh học nên ngày nay, thực vật lương thực con
người mới phong phú; riêng ở Việt Nam, vì là nơi tiếp giáp
giữa các hệ thực vật Mã lai-Nam đảo phía Nam và hệ Hi Mã
phía Bắc mà thực vật trong rừng có kế thừa cả hai loại: sàu
riêng, chôm chôm là cây đặc thù phía trong Nam, vãi, đào,
mận, cây giẻ (noyer) , cây sồi (chêne) phía Bắc.
Nhiều loài cây rất thân thương quen thuộc
nhưng thật ra, trước kia không có ở Viet Nam vì có nguồn gốc
từ các xứ khác: cây khế, cây xoài, cây vú sữa, cây cao su,
cà phê , cây xapochê v.v xuất xứ từ Nam Mỳ, từ Ấn Độ, từ khu
vực Mã lai.
Còn hiện nay, hầu như sim cũng không mọc
được nữa trên đất qúa ư cằn cỗi.
Phá rừng:
phá rừng bừa bãi, đốn cả cây lớn lẫn cây bé; mới trồng rừng
lại được thì dân lại tự động phá trồng cà phê, trồng điều.
Cháy rừng:
nạn cháy rừng mỗi năm làm thiệt hại rất nhiều rừng và thảo
nguyên: chỉ cần một đóm lửa, gặp thảm cỏ khô mùa hạ nóng
bức, thêm gió, cả 3 cái đó đã là một cocktail Molotov để hủy
hoại rừng.
Nưong rẫy:
Người miền núi vẫn sống theo lối đốt rừng làm nương rẫy
trồng trọt vài năm sau đó khi đất mất đi sự phì nhiêu lại
sang một cánh rừng khác đốt rừng tiếp tục làm nương rẫy .Vì
vậy, rừng càng ngày càng thoái hoá, cả vè diện tích lẫn số
lượng các loài.
Sự
phá rừng trên các triền núi HiMalaya đã dẫn đưa đến nạn lụt
lội ở Bangladesh, chết hàng chục ngàn người mỗi năm. Sự phá
rừng trên thượng nguồn Cửu Long, trên thượng nguồn các sông
ngòi miền Trung cũng gây chết chóc, lụt lội năm này qua năm
khác. Sự phá rừng tại Madagascar làm tài nguyên đất hư hại
nghiêm trọng. Nền văn minh Maya ở Trung Mỹ bị tiêu diệt vì
tài nguyên đất không còn do phá rừng. Còn Việt Nam thì nào
là lâm tặc với nguời chặt cây bừa bãi; sa tặc với thuyền bè
đào xới cát dưới lòng sông khiến bờ sông lở lói; thạch tặc
với đào kiếm đá qúy, tìm vàng trong rừng sâu làm cảnh quan
với hố ngang, dọc, cạn, sâu, lồi, lõm như trên mặt trăng, và
chất thủy ngân rất độc dùng đãi vàng bị nhiễm vào suối.
Phá rừng làm giảm đa dạng sinh học và hư
cảnh quan, làm muông thú không nơi sinh sống. Côn trùng sẽ
tự do nẩy nở vì chim ăn côn trùng nay không còn rừng làm nơi
trú ẩn. Không rắn thì chuột nhiều và chuột lại phá hại mùa
màng...
6. Rừng
và tâm linh
Từ ngàn xưa, con người khi mới được con
Tạo sinh ra cách đây non một triệu năm, đã nhờ rừng mà tồn
tại. Con người cổ sơ phải săn bắn trong rừng hoang, phải tìm
cây rừng để chữa bệnh. Tóm lại nhờ rừng, do đó con người tôn
thờ cây như một cái gì linh thiêng, chứa đựng những linh
hồn. Các tôn giáo lớn luôn luôn nhắc nhở đến cây: cây bồ đề
trong Phật giáo, rừng trúc mà Phật Thích Ca truyền đạo; cây
cedre trong lá cờ Liban...
·
tăng cường giáo dục về môi sinh, kể cả giáo dục nâng cao dân
trí để chương trình kế hoạch hoá sinh đẻ thực hiện hiệu qủa
hơn.
·
tái chế biến và tận dụng các phế phẩm: thay vì đốn thêm rừng
làm bột giấy, thì cần thu luợm giấy báo, sách củ, giấy
bìa... và tái chế biến ra giấy mới.
Vì nhiều lý do như nghèo đói, nạn đất đai
nghèo nàn vì sử dụng không hợo lý (làm rẩy , canh tác trên
đất dốc), áp lực dân số nên nhiều nơi như Cao Bằng, Sơn La,
Thanh Nghệ có phong trào di dân tự do lên Cao Nguyên Trung
Phần, gây thêm xáo trộn xã hội vì lý do tranh chấp đất đai .
Ta gọi đó là di dân môi trường .Có thể tượng trưng các tương
quan phụ thuộc của các yếu tố ảnh hưởng trên bằng sơ đồ sau
đây:

Giản đồ cho thấy các tương quan giữa các
yếu tố ảnh hưởng đến suy thoái môi trường, tác động tiếp tục
trên nguy cơ di cư môi trường
7. Kết luận
Tóm lại rừng cung cấp nguyên liệu cho kỹ
nghệ (cưa xẻ, giấy, đồ mộc), tạo công ăn việc làm, tạo môi
trường sinh thái cho du lịch, bảo vệ lụt lội chống xói mòn
làm cho mặt đất xanh nên thơ hơn, đẹp hơn khiến con người
nhiều sức khỏe hơn...
Con người đã có một món nợ rất lớn với
Thiên Nhiên. Vì ta mắc nợ. nên ta phải trả nợ. Trả nợ bằng
cách bảo vệ Thiên Nhiên, làm giàu Thiên Nhiên, bàng cách chỉ
sử dụng phần lời của Thiên Nhiên mà không đụng chạm đến phần
vốn, như chỉ lấy ra khỏi rừng phần tăng truởng gỗ mỗi năm mà
thôi.
Nếu ta không trả nợ thì Thiên Nhiên sẽ
trả đủa bằng nhiều cách; trả đủa âm thầm như làm đất đai
nghèo mòn dần dà để nạn đói sẽ xẩy ra hoặc trả đủa ào ạt như
vũ bảo với cuồng phong, bão tố, làm ruộng vườn chìm sâu dưới
nưóc,trâu bò người trôi ra biển, tạo thêm cửa biển mới làm
nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất liền.
Gần đây, ta chứng kiến nhiều loại khủng
bố: hải tặc, không tặc. Trận không tặc ở New York gây chấn
động thế giới chết gần 6 000 người trong khoảnh khắc. Nhưng
còn một trận khủng bố dai dẳng hơn, ít gây ấn tượng hơn đó
là khủng bố thiên nhiên, diệt chủng Thiên Nhiên (holocauste
de l’ environnement) còn nguy hiểm hơn các khủng bố vừa nêu
. Sinh quyển là hàng rào phòng thủ cuối cùng của con người ;
mất phòng thủ cuối cùng thì không còn hàng rào nào khác. Thế
mà ta lại phá hủy nó.