1.
Dẫn nhập về toàn cầu hoá
-
Khi trận đá bóng chung kết giữa hai đội Pháp và Ý diễn ra
ở Berlin tháng 7 năm 2006, trước con mắt hàng tỷ người trên
thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, ta thấy trong
đội cầu Pháp có đến một nửa là dân da đen và dân Bắc Phi !
-
Nghe tin tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của
Pháp, thì hình ảnh một sự cố nào đó mới xảy ra vài phút trước
đó ở một nơi xa xăm trên hành tinh Trái Đất thì trên màn
truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay, vừa hình ảnh,
vừa tiếng nói.
-
Nhìn bảng hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển
dễ dàng; đặc biệt Âu châu có Euro là đơn vị tiền tệ cho rất
nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du lịch từ Pháp qua
Đức, qua Ý, qua Espagne lại phải thay đổi đồng tiền sang Mark,
sang lire, sang peseta..
-
Bệnh SARS (viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các
xứ Đông Nam Á và qua
Canada do sự lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng
-
Hàng năm, có chừng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu
da, tôn giáo đến xứ Canada, đến hợp pháp ! Có thể nói mọi xứ
từ A (A như
Angola), đến Z (Z như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada,
khiến xã hội
Canada
càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ trên đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu hoá.
2.
Tiến trình của toàn cầu hoá.
-
Toàn cầu hoá, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng
thực sự đã có từ lâu đời với Magellan, với Marco Polo, với
thương mãi các xứ quanh bờ biển Địa Trung Hải, với con đường
tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung Đông, Cận Đông và Trung Hoa.
Việt
Nam đã buôn bán với Nhật qua thành phố Hội An. Các nước Anh,
Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị trưòng buôn bán. Chiến
tranh nha phiến Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc phiện. Đến
năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh tế rất lớn, nên nhiều nước
như Mỹ chủ trương bảo hộ thương mãi.
-
Chỉ sau đệ nhị thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng
cường hợp tác thương mại. Các nước Âu Châu họp bàn thành lập
thị trường chung qua nhiều giai đoạn:
a.
Thoạt đầu là các thoả thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan
thuế giữa các nước tham dự thấp hơn so với các nước không tham
dự.
b. Sau đó tiến đến khu vực mậu dịch tự do (zône de
libre échange, free trade area) xoá bỏ các cản trở thương mại
giữa các nước thành viên;
c.
thứ đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ thuế
quan giữa các nước thành viên, hài hoà giữa các nước thành
viên và chính sách thương mại,
d.
rồi mới đến thị trường chung (marché commun) có tự do lưu
chuyển lao động và vốn giữa các nước,
e.
sau đó tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền tệ thành
EURO, với quốc hội Âu châu và hiến pháp Âu châu.
-
Các
nước Đông Âu và Liên Xô cũng lập thị truờng chung COMECON,
nhưng vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 khi Liên Xô và
Đông Âu tan rã với hệ thống xã hội chủ nghĩa thì tổ chức này
cũng tan theo.
-
Các
nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10 xứ Đông
Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái, Philippines, Malaysia, Brunei,
Indonesia, Singapour, Myanmar (tức Miến Điện). Các xứ này đang
tiến dần đến chỗ giảm thuế quan để giúp hàng hoá cạnh tranh
nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn,
làm giảm thất nghiệp.
-
Bắc Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu dịch
tự do, có nghĩa là giúp các hàng hoá tự do lưu thông giữa nước
này với nước kia, cắt giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi
quan thuế v.v...
Với công nghệ thông tin phát triển như vỡ bờ qua trung gian
của hàng ngàn vệ tinh nhân tạo bay quanh Trái Đất, các trao
đổi và liên lạc thông tin đã giúp thế giới càng ngày càng gần
hơn, nhỏ hơn, và là một nhân tố thúc đẩy sự tự do thương mại
giữa các nước, thoạt đầu với Thoả thuận chung về Thuế quan
GATT (General Agreement on Tariff and Trade), tức tiền
thân của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO, viết tắt từ
World Trade Organization) ta thấy ngày nay.
Với toàn cầu hoá, các sản phẩm sản xuất ra có một thị trường
tiêu thụ rộng lớn ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm
đầu tàu kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực vậy, thị
trường trong xứ thì nhỏ hẹp, không nhiều người tiêu thụ. Cũng
chính vì Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ khổng lồ nên
các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v...
mới đầu tư sản xuất tại đó nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở
Thượng Hải đến các công ty điện tử, điện thoại vì thị trường
càng lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie d'échelle) làm
giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lời lãi nhiều.
Với toàn cầu hoá, các nước quy định phải giảm thuế nhập cảng,
xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, cấp giấy phép
xuất-nhập cảng nên mọi hàng nhập cảng đều rẽ, khiến người tiêu
thụ mua sắm thoải mái.
Với toàn cầu hoá, các đầu tư, các dịch vụ như ngân hàng, bảo
hiểm, các hàng hoá sẽ được lưu thông tự do hơn, giúp tiêu thụ
mạnh hơn.
Toàn cầu hoá có nghĩa là thị trường sẽ tự do trong các lĩnh
vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, bưu chính viễn thông, giao
thông vận tải. Toàn cầu hoá bao gồm nhiều lãnh vực nhưng riêng
trong lĩnh vực kinh tế tài chính, có thể tóm lược trong 4 chữ
D sau đây cho dễ nhớ.
3. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá?
3.1.
Délocalisation:
Toàn cầu hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về chất lượng; các
xí nghiệp phải có mặt hàng rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh được
trên thị trường quốc tế.
Thực vậy, trước kia, các nước để bảo hộ sản xuất trong nước
nên đánh thuế nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với
các hiệp định tự do thương mại, mọi mặt hàng đều từ từ giảm
thuế xuống hết (0-5%).
Do đó, vào luồng trong sự gia nhập thương mại quốc tế đòi hỏi
phải có các sản phẩm nhiều, chất lượng tốt, giá rẽ mới cạnh
tranh được với các hàng xứ khác. Đó là lí do nhiều xí nghiệp
các nước kỹ nghệ tổ chức sản xuất các cơ phận khác nhau tại
các xứ nhân công rẽ như Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc.Thực vậy,
trong xe hơi, có thể động cơ sản xuất bên Nhật, bánh xe ở
Mexico, ráp cuối cùng tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ 'chip'
chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico, ráp cuối
cùng ở Mỹ v.v...
Ngày nay, không thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự
cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các
lợi thế so sánh, xem mình có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và
nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao ?
Ví dụ :
Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất điện rẽ nhất. Mexique
cũng như các hải đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng ấm và
đó là một lợi thế so với Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ
nghệ du lịch và dịch vụ rất phát triển; riêng Việt Nam thì giá
nhân công rẽ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân công như may
mặc, giày dép...
Không xứ nào độc lập về kinh tế được hết vì không xứ nào có đủ
nguyên liệu để sản xuất sản phẩm. Máy bay sản xuất ỏ
Canada hay ở Mỹ phải có nhôm mà nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt
đới. Vùng Chicoutimi tại Quebec có nhiều nhà máy sản xuất nhôm
vì điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng bauxit phải lấy từ
Jamaica, Haiti,..
Tương tự đồng dùng trong các giây điện là xuất xứ từ các mỏ
bên Chili, Congo v.v...
Chiều hướng toàn cầu hoá là sự phân công lao động trên bình
diện quốc tế, ví dụ: sản xuất sẽ chuyển mạnh vào các nước kém
phát triển, còn các nước phát triển cao sẽ sống nhờ dịch vụ
như bảo hiểm, ngân hàng v.v...
3.2.
Déréglementation:
Vì các rào cản thương mại giữa các nước bị xoá bỏ nên các
dòng tài chính di chuyển dễ dàng, tạo vốn đầu tư cho các nước
có môi trường đầu tư tốt, thông thoáng, có nguồn nhân lực
giỏi.
3.3. Désintermédiation:
Không cần trung gian vì với toàn cầu hoá, các thông tin có sẵn
trên mạng. Các cổ phần, cổ phiếu bán tự do ai mua vào cũng
được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ thuộc vào
truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ
hẽm nhờ máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, sử dụng
máy vi tính để mua, bán, chuyển ngân...
với Web, với e-commerce.
Trong lãnh vực mua, bán, người ta có thể khảo giá vé máy bay,
vé xe lửa, đặt chỗ trước khách sạn, mua vé máy bay qua
Internet.
Trong lãnh vực nhân sự, con người với mạng Internet có thể
giao cảm, tìm kiếm thông tin dễ dàng nhanh chóng; các tán gẫu
(chat), các thảo luận liên lục địa của các công ty đa quốc
gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet với Webcam: người
xin việc có thể được phỏng vấn ngay trên mạng, không cần bay
đến chỗ phỏng vấn. Trong lãnh vực tài chính, mọi người chỉ
cần máy điện toán là có thể mua, bán cổ phần chứng khoán, các
công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền từ lục địa này sang lục
địa khác trong nháy mắt.
3.4. Décloisonnement:
Trước kia, các thị trường có hàng rào (cloison) bảo hộ, với
toàn cầu hoá, không còn hàng rào che chở nên thị trường rộng
mở, từ hàng hóa đến dịch vụ, đông người tiêu thụ hơn, kéo
theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp.
4. Các cơ hội và thách thức trong toàn cầu hoá.
4.1.
Nói qua về các thử thách :
a/. về nông nghiệp:
Mỗi năm, các nước chậm phát triển phải nhập cảng phân bón,
thuốc diệt cỏ, diệt sâu với giá cao hơn, nhưng bán nông phẩm
như gạo, như cà phê với giá rẽ hơn. Như những trận mưa rào
đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là thuộc OCDE (Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế ) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla
mỗi năm,
-xem như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông dân để họ sản xuất thực
phẩm với giá phải chăng và để họ có mức sống tương đương mức
sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình thức như cho vay lãi
xuất rẽ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v...
Nhật Bản và Đại Hàn muốn bảo vệ sản xuất gạo trong nước bằng
cách đánh thuế cao trên gạo nhập cảng. Hai nước này trợ cấp
cho nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo sản xuất ra
trong nước thì phải trợ cấp 80 cents cho nông dân. Pháp, Mỹ,
Thụy sĩ v.v...
đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các nước này thặng dư lương
thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng dư lúa
mì, thặng dư đậu nành, thặng dư bắp...
nên họ phải bán rẽ hay cho không các nước, đặc biệt là Phi
Châu. Nông dân Phi Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất
nghiệp và kéo theo bất ổn chính trị.
Các nước chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương
thực cho các nước Tây phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no.
Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo nhưng các vùng xa, vùng sâu là
địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non còn chưa đủ no. Ấn
Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu dân còn bấp
bênh lương thực (tạp chí Le Courrier số 197 Mars/Avril 2003).
Các nước nghèo mà kinh tế nông nghiệp là chủ chốt lại muốn các
nước tiền tiến cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan để có
thể xuất cảng nông sản được:
-
đường mía sản xuất ở Bresil rất rẽ nhưng các nước Tây Âu chỉ
muốn nhập cảng đường mía từ các xứ cựu thuộc địa ở miền
Caraibes như
Tobago & Trinidad, Barbados v.v...
-
bông vải xứ Mali ở Phi Châu không xuất cảng được sang các nước
Âu Châu vì mua bông vải ở Mỹ rẽ hơn, vì ở Mỹ, nông dân được
trợ cấp.
-
gạo Thái Lan không xuất cảng qua Nhật được vì nông dân Nhật
cũng được trợ cấp khi sản xuất gạo. Giá thành sản xuất gạo ở
Mỹ năm 2002 là 475USD một tấn gạo nhưng vì được trợ cấp nên
bán ra thế giới vơí giá 275 USD một tấn do đó bắt buộc các
nước xuất cảng gạo như Việt
Nam, Thái Lan cũng phải xuất cảng vói giá đó.
Thực vậy, vấn đề nông nghiệp chính là vấn đề gay cấn nhất
trong các đàm phán tương lai, đặc biệt là ở hội nghị thương
mãi họp ở Cancun (Mexico) năm 2003 vì lập trường khác biệt
giữa các xứ.
Như vậy, chính sách thương mại trong toàn cầu hoá phải tăng
cường công bằng xã hội chứ không nên làm tăng hố cách biệt
giàu nghèo.
b.
Về y tế:
Với toàn cầu hoá, sự du lịch, đi lại, nhập cư được thông
thoáng hơn nhưng cùng đó, sự di chuyển các bệnh truyền nhiễm,
từ cúm gà đến bò điên v.v...
các bệnh lây lan về tình dục như AIDS cũng nhanh hơn, gây ra
thêm gánh nặng y tế trong khi đó thì lợi tức của các chính phủ
bị giảm do việc cắt giảm thuế quan trên mọi hàng nhập cảng nên
kéo theo giảm chi cho các ngành y tế, giáo dục...
Nhiều thuốc trị bệnh hiểm nghèo được bảo vệ tác quyền đến hàng
chục năm do hiệp định TRIPS viết tắt từ Trade-related aspects
of intellectual property rights, có nghĩa bảo vệ các lãnh vực
của quyền sở hữu trí tuệ, do đó Việt Nam cũng như mọi nước
nghèo khác không có quyền sản xuất thuốc đó bán rẽ cho người
đau.
c/ về tệ nạn xã hội:
Do di chuyển thông thoáng, các buôn bán phụ nữ, trẻ em, các
tội ác xuyên biên giới như ma tuý, vũ khí, nguy cơ khủng bố
cũng cũng dễ dàng hơn
4.2.
Tuy
nhiên, toàn cầu hoá cũng tạo ra những cơ hội: các doanh
nghiệp nước ngoài sẽ đem vốn liếng, kỹ thuật cao, lối làm việc
do đó các doanh nghiệp trong nước cũng phải cải tổ lối làm
việc, cạnh tranh hơn, sáng tạo hơn nếu không sẽ bị đào thải.
Với toàn cầu hoá, khu vực tư trong nước không bị chèn ép bởi
các xí nghiệp quốc doanh. Toàn cầu hoá đưa thông tin đến mọi
nhà, thông tin khoa học, kinh tế, chính trị...
nên xã hội bắt buộc phải cởi mở hơn, giúp dân trí cao hơn.
Toàn cầu hoá giúp cho người dân không có huyền thoại như thời
Việt
Nam còn dưới bóng Liên Sô, các huyền thoại mà nhà thơ Việt
Phương,
-nguyên trợ lý cố Thủ Tướng Cọng sản Phạm Văn Đồng- đã viết
sau này :
...'Ta
cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa
Trong hàng ngũ ta chỉ dành cho chỗ yêu thương
Đã chọn con đường đi
Chẳng ai dừng ở giữa MạcTư khoa còn hơn cả thiên đường
Ta nhất quyết đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ
Hình như đây là ý chí, niềm tin, tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao..'
Toàn cầu hoá về kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước mới xuất cảng
được. Nó đòi hỏi những công nghệ mới, kỹ năng mới, quản lý
hiện đại giúp sản xuất có hiệu qủa hơn, tạo sản phẩm có chất
lượng hơn với giá cả rẽ hơn, tạo điều kiện để sản phẩm được
tiêu thụ nhiều hơn. Ngoài ra, nếu các nước kỹ nghệ như Âu châu
hay Mỹ thấy Việt Nam có giá thành quá thấp là họ nghĩ ngay
Việt Nam bán phá giá nên họ đánh thuế nhập cảng cao như Âu
Châu đánh thuế trên giày dép, Mỹ đánh thuế trên tôm v.v...
5.
Toàn cầu hoá với Việt Nam.
Như vậy, gia nhập vào Tổ chức Thương Mại Thế giới (World Trade
Organization WTO) có nghĩa Việt Nam phải cam kết mở cửa thị
trường về hàng hoá (từ nông phẩm đến xe hơi, hàng hoá điện tử...)
và dịch vụ (y tế,ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giáo dục,
năng lượng...).
Điều này hàm nghĩa các doanh nghiệp Việt Nam phải ra sức cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong quản lý, trong sản
xuất, trong tiếp thị, trong giá năng lượng, trong giá cước
điện thoại, giá thuê đất v.v...
để có sản phẩm rẽ, đẹp và mới, tạo điều kiện để sản phẩm được
tiêu thụ nhiều hơn. Việt
Nam có lợi thế nhân công rẽ, phải tạo môi trường đầu tư thuận
lợi,
-nghĩa là trong sạch, không tham nhũng- cho những công ty,
những doanh nghiệp ngoài nước
đến đầu tư. Thực vậy, càng ngày nhiều doanh nghiệp các nước kỹ
nghệ muốn đầu tư tại các xứ nhân công rẽ hơn. Thực vậy, lương
tháng người thợ ở Việt Nam năm 2005 ở mức 135 Mỹ kim trong khi
tại Thái Lan là 146, Trung Quốc là 163, Malaysia là 205 và
Philippines là176. Như vậy chi phí thấp ở Việt Nam là một lợi
thế...
Song song theo đó, Việt Nam cũng cần đào tạo thêm nguồn nhân
lực có kỹ năng cao để thu hút các ngành có chất xám cao, tạo
ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao mức
sống. Ví dụ tại tỉnh
Bangalore
ở Ấn độ, có nhiều xí nghiệp
Mỹ,
Canada đến đầu tư vì xứ này đào tạo nhiều chuyên viên điện
toán giỏi và lương thấp hơn so với kỷ sư các nước kỹ nghệ.
Trong nông nghiệp thì với toàn cầu hoá, khi các cam kết cắt
giảm thuế trong AFTA (Asian Free TradeArea) và WTO được thực
hiện thì có nhiều loại nông phẩm sẽ bị nhiều cạnh tranh hơn:
đậu nành, bắp sản xuất tại Việt Nam thì khó cạnh tranh với
nông sản Mỹ vì tại Mỹ, các khảo cứu về bắp, đậu nành rất tiến
bộ, tạo ra nhiều giống cải thiện năng xuất cao. Việt
Nam thì quy mô kinh tế sản xuất manh mún nên giá thành cao. Do
đó, Việt Nam phải tìm các lợi thế so sánh trong nông nghiệp,
sản xuất những sản phẩm không bị cạnh tranh với các nước khác
như trái cây nhiệt đới, rau cải tươi, ngư sản, đó là chưa nói
đến phải chuyển đổi nông nghiệp như giảm số nông dân, chuyển
từ sản xuất sang dịch vụ, huấn nghệ lại v.v...
6. Kết luận
Nền kinh tế thế kỷ 21 này là một nền kinh tế xu hướng càng
ngày càng khu vực hoá, toàn cầu hoá với đổi trao, thay vì khai
thác và lấn chiếm như xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi một
tinh thần liên đới và trách nhiệm:
-
liên đới
giữa các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các nước kém
mở mang với mục đích là để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi
cùng cực triền miên. Trong một nước,
sự tăng trưởng kinh tế do toàn cầu hoá mang lại phải được chia
xẻ cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ một bộ phận xã hội.
Sự phát triển kinh tế phải có tính cách bền vững, không phát
triển trên nợ nần của các thế hệ tương lai
-
trách nhiệm
vì toàn cầu hoá có thể giúp các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh
hơn, các tổ chức mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy, buôn
bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng bố do đó mọi xứ có trách
nhiệm hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa trước khi tội
phạm xảy ra. Một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường
cần có những thể chế, quy tác, luật pháp, trong đó có việc
tăng cường kiểm soát các ngân hàng bằng giám sát chặt chẽ
hơn.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng đồng nhân
loại cũng chìm luôn. Con người như vậy phải tập sống bao dung,
bao dung với tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín
ngưỡng nhưng trong một khung cảnh luật pháp ở đó quyền ăn nói,
quyền làm người phải được tôn trọng. Quyền hành dù là chính
trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải đi đôi với trách
nhiệm. Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên
là quan trọng nhưng còn có các giá trị tâm linh không thể mua
hay đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con nguời không thể đo bằng
bit hay byte mà sự quán chiếu nội tâm để hiểu được
bản thân mình có thể còn quan trọng hơn là biết mọi chuyện
trên thế giới trong chớp mắt nhờ Internet. Các đền đài, các di
tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ quát không
thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm
mỹ, huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng
mạn chứ không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như lăng miếu, đền
đài có linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés,
avez-vous donc une âme ?..).
Các giá trị văn hoá phức tạp hơn là các giá trị tài chính.
Không thể xem cái gì cũng là mặt hàng đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là một ví
dụ; khủng bố World Trade Center cũng là một ví dụ khác. Từ vụ
911 này, du lịch sút kém khiến máy bay không ai đi, nhà hàng
không ai đến, do đó nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay
không ai đi nên các hãng sản xuất máy bay phải sa thải nhân
viên v.v...
Như vậy các vấn nạn không những liên hệ với nhau mà lại có sự
gia tăng những yếu tố bất định không đoán trước được, chúng
phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián đoạn, những
hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng trưởng các vũ khí nguyên tử tại
các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn
v.v....
Nhưng vấn đề cốt lõi lại chính lại là một vấn đề văn hoá: làm
sao cho thế giới không phải là một sân chơi cho các cầu thủ
hạng nặng (các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa dạng trong đó
mọi dân tộc tham dự chia xẻ các khổ đau, các an lạc, các thành
qủa, tạo ra một hiền hoà giữa người và người, một hài hoà giữa
người và thiên nhiên, nghĩa là tạo một nền kinh tế có bộ mặt
con nguời, trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất) trong giải
Thiên Hà bao la.
Thái Công Tụng |