Việt
Nam Môi trường & Sinh thái |
Vùng thiên nhiên Bình Trị Thiên
đặc tính địa lý và đa dạng sinh học
ABSTRACT
Binh Tri Thien (BTT), with an area of 18,340 km2 and about 2
millions in population, is a relatively small and less known region
of Vietnam when compared to the Mekong or Red river deltas. For this
reason, information on Binh Tri Thien as a natural resource is rare.
This article provides important geographical characteristics and
valuable biodiversity of BTT and outlines major factors that cause
environmental impacts to the ecosystem as well as major programs
that are necessary to protect the environment. The following is a
summary of the article:
The Binh Tri Thien ecosystem covers 3 administrative provinces,
namely Quang Binh, Quang Tri and Thua Thien. This ecosystem extends
from Ngang pass in Quang Binh to Hai Van pass south of Hue. Two
third of BTT's landscape is dominated by Truong Son and its
neighboring sand dunes leaving only narrow areas between them for
farming. The Truong son mountains separate the ecosystem from Laos
and have different rock formations: limestone hills in Quang Binh,
igneous rocks in Quang Tri and Thua thien. Near the sea, there are
lagoons and sand dunes. The coastal plains are thus small in
acreage.
The
climate of BTT is characterized by late but heavy rain which peaks
in Fall giving BTT a precipitation level of 2000 mm; every year,
during the dry season in this area, wind charged with moisture
blows from western Laos, crosses the mountain range and once
descending into the plains, it induces a foehn phenomen, and brings
very hot wind, damaging crops...Since watershed of the rivers are
small, rivers are subject to big and sudden floods during the
typhoons
The ecosystem of BTT, due to its geographical location and its
varying altitudes is the area with diversified and mixed flora of
the North and the South. Natural vegetation in forests at BTT
includes 40-50 m trees belonging to families such as Mimosaceae,
Sapindaceae, Meliaceae, Burseraceae, 8-12 m trees in families of
Ulmaceae, Myristicaceae, Annonaceae, Flacourtiaceae. Lower canopy
consists of shrubs in families of Rubiaceae, Apocynaceae, Rutaceae,
Melastomaceae, Araliaceae, Zingiberaceae and Liliaceae. Aquilaria
agallocha, along with Erythrophloeum fordì, Vatica fleuryana,
Vatica satrotricha are endemic trees of this ecosystem.. BTT
rainforest provides cover for the soil, reduces flash flood and
helps recharge ground water. BTT also provides a variety of
important root plants supplying food to the population: Cassava,
Aroid, Taro, Tannia, Canna, Sweet potato, Arrowroot, and several
types of Yams.
The author further outlines the impacts of overpopulation,
overcutting of trees, overgrazing/overstocking, overfishing,
overhunting and overpumping of ground water as main causes of
environmental degradation. The author promotes birth control, tree
cutting control, grazing control, fishing control, hunting control,
and pumping control as programs that can be implemented to protect
the sustainability of the ecosystem. Last but not least, the author
emphasizes the need to preserve the region's biodiversity, protect
rare genes needed for plant breeding.
Người
du khách sau khi rời huyện Kỳ Anh thuộc tỉnh Hà Tình, sẽ vượt qua
Đèo Ngang được bất hủ hoá qua bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan để
vào địa phận tỉnh Quảng Bình. Từ Đèo Ngang trở vào mãi cho đến Chân
đèo Hải Vân, đó là vùng thiên nhiên Bình Trị Thiên, một sinh hệ tự
nhiên có 5 điểm đặc thù sau đây khiến đồng bằng này khác hẳn
các đồng bằng khác của miền duyên hải Trung Việt :
Thực
vậy, phiá bắc đèo Ngang, các đồng bằng tương đối rộng với các dòng
sông lớn như sông Mã, Sông Chu ở Thanh Hoá, sông Cả ở Nghệ An. Phía
Bắc đèo Ngang, ít có cồn cát hơn và vũ lượng cũng thấp hơn.
Diện
tích toàn vùng Bình Trị Thiên là 18340 km2 với một dân số
là (1985) 2 triệu người. Mật độ dân số là 123 người / km2,
nhưng vì đồi cát, núi non chiếm đến 2/3 nên mật độ trên diện tích
canh tác cao hơn nhiều.
Địa
hình của vùng thiên nhiên Bình Thị Thiên này lại có thể chia ra
thành 2 phần chính:
a/ Giãy núi Trường Sơn phiá Tây giáp với Ai Lao.
Quá khỏi đèo Mụ Gia (418 m) của tỉnh Quảng Bình là khởi đầu một giãy
núi đá vôi hiểm trở (Ke Bang - Khe Ngang) liên tục với cao nguyên đá
vôi vùng Se Bang Phai bên Lào. Vì là núi đá vôi nên phong cảnh vùng
Ke Bang rất khô khan và hiểm hóc; không có suối nước vì đá vôi rất
dễ thấm nước. Trong giãy núi đá vôi Ke Bang này có động Phong Nha
dài 2000 m, rộng từ 8 đến 35 m và nhiều chỗ cao đến 40 m. Địa hình
đá vôi là một loại địa hình đặc biệt có những dòng suối dưới lòng
đất cùng những thạch nhũ ngổn ngang (relief karstique).
Từ phía Nam của rặng núi đá vôi Khe Ngang đến đèo Lao Bảo là một
vùng đồi núi sa thạch hoặc đá granit có thể gặp ở 2 mức, một cao độ
1000 m (như núi Ba rền 1173 m), còn mực kia ở 300-400 m (như cao
nguyên Khe Sanh và Lao Bảo 350 m). Khu vực Khe Sanh Lao Bảo gồm một
số gò đồi từ cây số 56 đến cây số 73, trên con đường số 9 nối liền
Đông Hà và Savannakhet. Nhiều đồi đất đỏ do sự phong hoá của đá
bazan tạo nên là nơi có nhiều đồn điền caphê. Một trong những đồn
điền caphê nổi tiếng ở Khe Sanh thời trước 1975 là của ông Poilane,
một nhà thực vật học cùng trào với các nhà thực vật học Pháp đầu
tiên ở Đông Dương như Leconte.... Các đồi đất đỏ cũng có thể gặp ở
một cao độ thấp hơn 100 m như Cam Lộ (Cùa), Gio Linh và Vĩnh Linh,
với diện tích quãng 20.000 ha.
Phiá Nam đèo Lao Bảo, địa hình lên cao trở lại đến mức 1000 m. Những
dãy núi đá granit cứng có cao độ từ 1300 đến 1800 m và đâm
luôn ra biển ở đèo Hải Vân, ngăn cách 2 đồng bằng Thừa Thiên và
Quảng Nam. Các nếp nhăn của núi theo chiều Tây Bắc -Đông Nam như
Động Sa Mùi (1613m), Động Ngãi (1774m), Bạch Mã (1440m).
b/ Đồng bằng duyên hải.
Lịch
sử hình thành đồng bằng Bình Trị Thiên cũng tương tự như các đồng
bằng duyên hải khác. Tất cả đều do quá trình biển tiến vào mài mòn
đường bờ biển xưa củ nằm sát tận chân núi, ngày nay còn có nhiều
thềm biển nằm ở các cao độ khác nhau 40m, 25m, 20m, 5 - 2m. Các thềm
biển đánh dấu sự tác động của các thời kỳ băng hà (période
glaciaire) và tan băng (période interglaciaire) của thời kỳ địa chất
đệ tứ kỷ. Càng ra gần biển, các thềm biển cứ thấp dần và tuổi cũng
trẻ dần, chứng tỏ đất được nâng cao dần và bờ biển cứ lùi ra xa. Các
đầm phá được lấp dần cũng như các đảo cũng được nối dần vào bờ tạo
thành các đồi núi giữa đồng bằng. Gió thổi các trầm tích cát ven
biển để dần dà tạo thành cồn cát, nơi nào gió mạnh thì gió vun
thành các động cát.
Vì vậy, đồng bằng này có thể phân chia ra theo một phẫu diện
từ Tây sang Đông:
b.1. phù sa cổ sinh,
b.2. phù sa cận đại có nhiều cảnh quan khác nhau như ven bãi sông
suối (các cồn, giãi đất ven sông), chân ruộng cao, thấp, trũng,)
b.3. đồng bằng bị ảnh hưởng của nước mặn và cuối cùng là
b.4. các giãi đồi cát duyên hải.
Sau
đây ta thử phân tích năm đặc tính địa lý của sinh hệ Bình Trị
Thiên:
1/
Mưa nhiều và mưa muộn.
"....
Em đứng lên gọi mưa vào hạ".... Câu hát này
đúng cho phần lớn lãnh th° Việt Nam, nhưng không đúng cho đồng bằng
Bình Trị Thiên vì mùa thu lại là mùa mưa lớn nhất trong năm. So với
đồng bằng Nghệ Tĩnh thì đồng bằng Bình Trị Thiên mưa nhiều hơn và
trễ hơn. Thanh Hoá mưa cuối tháng 7 d.l., vào đến Nghệ An, mưa trễ
hơn Thanh hoá chừng 10 ngàỵ Do đó đồng bằng Bình Trị Thiên mưa lủ
nhiều nhất là từ tháng 9 đến tháng 11 d.l. cùng với các trận bão
thổi từ Thái Bình Dương gây ra vừa mưa lớn, vừa lụt. Vũ lượng trung
bình hàng năm của đồng bằng Bình Trị Thiên quá 2000 mm (Đồng Hới :
2111mm, Quảng Trị : 2535 mm, Huế : 2890 mm), với tối đa vào tháng 10
và tối thiểu vào tháng 4 trong khi đó Hanoi là 1678mm và Saigon là
1979mm. So với vũ lượng vùng Phan Rang chỉ có 653 mm thì khí hậu
khác một trời một vực. Một đặc điểm khác là chế độ mưa khác hẳn nếu
ta so sánh hai phiá Đông và Tây của rặng Trường Sơn. Bên giãy phiá
Đông của rặng núi (tức phiá Việt Nam) là mùa mưa thì cùng lúc đó, ở
phiá Tây của rặng núi Trường Sơn, (tức Ai Lao), đó là mùa nắng.
2/
Gió Lào chi phối.
Đây là vùng có gió nóng vào mùa hạ và kéo dài 4-5 tháng
và có những đợt kéo dài liên tục đến 20 ngày. Thực vậy, gió mùa Tây
Nam đem theo những trận mưa lớn phía Tây giãy Trường Sơn (tức là ở
Lào) và khi thổi xuống các triền núi phía Đông, tức đồng bằng duyên
hải đã trở thành khô nóng. Giãy Trường Sơn vừa có tác động như một
bức chắn nên với gió mùa Tây Nam thổi gây ra nhiều mưa ở sườn đón
gió còn bên phía Đông của rặng núi này là sườn khuất gió thì không
mưa và gió rất khô; đó là do tác động của hiệu ứng phơn (foehn) cũng
y như ở tiểu bang British Columbia mưa nhiều, nhưng khi vượt qua
rặng núi Rocky Mountains, thì gió nóng thổi đến Alberta... Huế ít có
gió Lào hơn vùng Bình-Trị vì núi bao kín, không có khoảng trống (như
các đèo) giữa Lào và Việt Nam.
Nhiệt độ trung bình ở Huế (vĩ tuyến 16.36) là 25.1°C còn ở Saigon
(vĩ tuyến 10.49) là 26.9°C. Tháng lạnh nhất trong năm cũng có nhiệt
độ trung bình trên 1°C, ẩm độ tương đối lớn hơn 80% và muà khô (Vũ
lượng nhỏ hơn bốc hơi) ngắn hơn 3 tháng. Trong khi đó phiá bắc Đèo
Ngang thì tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình nhỏ hơn 18°C., còn
phiá nam đèo Hải Vân mùa khô trên 3 tháng. Lên cao độ, và bắt đầu từ
200m trở lên thì nhiệt độ giảm dần với cao độ, giảm 0.5 mỗi 100 m.
Do đó từ 600 mét trở lên ta có vùng khí hậu á nhiệt đới miền núi.
(vùng núi Bình Trị Thiên).
3/
Nhỏ hẹp.
So với các đồng bằng Thanh Hoá có các dòng sông Mã, sông Cả chảy qua
hoặc ngay cả so với đồng bằng Quảng Nam… thì các đồng bằng Bình Trị
Thiên rất nhỏ hẹp. Không những đồng bằng này đã hẹp mà lại còn có
nhiều đầm giữa biển và đồng bằng phù sa. Sau đây là bảng diện tích
địa hình vài tỉnh miền Trung.
Diện tích các đồng bằng duyên hải của vùng Bình Trị Thiên so với vài
tỉnh khác miền Trung
ĐỊA PHƯƠNG |
DIỆN TÍCH |
ĐỒNG BẰNG |
Thanh Hoá |
286400 ha |
đồng bằng Sông Mã, Sông Chu
|
Nghệ An |
175000 ha |
đồng bằng Diễn Châu/Quỳnh Lưu Thung lũng Sông Cả,
các trũng thấp phía Nam
các đồi Yên Thành,
đồng
bằng Vinh |
Hà
Tĩnh |
166000
ha |
đồng
bằng Hà Tĩnh, thung lũng Hương Khê thung lũng
Ngàn Phố và Ngàn Sâu |
Quảng
Bình |
63600
ha |
vùng
Ba Đồn và Rõn, thung lũng sông Danh, đòng bằng Bố Trạch, Đồng
Hới, Lệ Thủy |
Quảng
Trị |
51000
ha |
đồng
bằng Quảng Trị, thung lũng Cam lộ, phù sa cổ sinh các huyện
Vĩnh Linh và Hải Lăng |
Thừa Thiên |
90000 ha |
kể cả các giải duyên hải và thềm Phong Điền
|
Đồng bằng Lệ Thủy khá rộng nhưng thấp. Cửa sông
rất nhỏ nên nước thủy triều thâm nhập sâu vào đất. Nước khó thoát
nên đất than bùn có nhiều. Vùng này về mùa nắng có lượng nước kiệt
(débit d'étiage) rất nhỏ nên ảnh hưởng xâm nhập nước mặn rất lớn.
Giãy núi Trường Sơn không xa bờ biển bao lăm.
Đồng bằng Quảng Trị do hai sông chính là sông Cam
Lộ và sông Thạch Hãn bồi đắp. Ngoài các đất phù sa, trong đồng bằng
này còn có những bình nguyên đất đỏ do sự hủy hoại của đá bazan
(roches basaltiques) như ở Cùa, Gio Linh và Vĩnh Linh với một diện
tích gần 10000 ha và có cao độ trên dưới 100 mét.
Đồng bằng Thừa Thiên từ Phong Điền đến Phú Lộc
khá phì nhiêu với nhiều nông sản đặc biệt (quít Hương Cần) bị chèn
giữa vùng gò đồi hay các bực thềm phù sa cổ sinh và giãy phá (đầm)
và đồi cát. Phá Tam Giang rất dài vì chiều dài là 60 km và rộng từ 1
đến 6 km. Phá này phân ra làm 2 khu, khu Quảng Điền ở phiá Tây, khu
Hương Thủy phiá Đông. Chính phá này là nơi tụ họp nước ngọt từ các
sông Hương, sông Bồ, sông Mỹ Chánh và nước từ ngoài biển vào, lên
xuống qua cửa Thuận An. Đầm Cầu Hai, toả rộng dưới chân núi Bạch Mã
(1444m) ngắn và rộng thông thương với đầm ('phá') Tam Giang và đổ ra
biển ở cửa Tư Hiền. Nhìn vào bản đồ, phá Tam Giang tương tự như một
dòng sông, còn đầm Cầu Hai giống như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu
Hai, Tam Giang này, với thời gian, sẽ được các bồi tích sông biển
lấp dần và trở thành đồng bằng. Nhưng các đầm phá này lấp chậm là vì
các dòng sông đổ ra thường ít trầm tích vì sông ngắn, nhỏ... Mặt
khác, nhiều đồi cát song song với bờ biển lại giới hạn thêm diện
tích đất canh tác.
4/.
Dễ lụt.
"Trời hành cơn lụt mỗi năm"... Các dòng sông
chảy qua các đồng bằng Bình Trị Thiên thường ngắn và có một lưu vực
hẹp. Sông Danh, Sông Nhật Lệ ở Quảng Bình, Sông Thạch Hãn ở Quảng
Trị, Sông Bồ, Sông Hương ở Thừa Thiên là những ví dụ điển hình. Lũ
lụt thường đến bất thình lình và thay đổi tùy năm. Có lúc mưa bão
gây ra một lượng mưa rất lớn, có thể vài trăm mm trong 24 giờ. Ảnh
hưởng của giãy núi cũng gây ảnh hưởng. Một phần thì rặng núi gần
đồng bằng, mặt khác, núi có triền dốc rất lớn, nên vận tốc của dòng
chảy cũng rất mạnh. Do đó, nước sông lên rất nhanh. Mùa lụt đi sát
với mùa mưa lớn. Ở miền Châu Thổ Sông Hồng lũ lụt cao nhất vào tháng
8 d.l., vào đến Thanh Hoá, là tháng 9, Nghệ Tĩnh là tháng 10, Đồng
bằng Bình Trị Thiên vào tháng 11.
Câu tục ngữ của dân gian cũng nói lên điều ấy :
"Ông tha mà bà chẳng tha, Ông cho cái lụt 23 tháng mười".
Lưu
vực của các dòng sông miền đồng bằng Bình Trị Thiên không lớn, so
với các dòng sông khác : Sông Mã, dài 410 km, có một lưu vực rộng là
28.400 km2, Sông Ba ở Phú Yên dài 388 km, có lưu vực
13.800 km2, ngay cả sông Thu Bồn chảy qua đồng bằng Quảng
Nam dài 205 km và lưu vực rộng 10.496 km2.
Lưu
lượng của các dòng sông miền đồng bằng Bình Trị Thiên thay đổi theo
mùa. Vào muà nắng, lưu lượng nước kiệt rất nhỏ, nên có thể lội bộ
qua sông ở nhiều chổ, nhiều cồn bãi hiện ra giữa dòng. Các dòng sông
miền Bình Trị Thiên chuyên chở phù sa ít hơn các dòng sông lớn khác.
Ví dụ Sông Hồng cuồn cuộn chuyên chở lượng phù sa là 940 g/m3. và
màu đỏ đúng như tên gọi. Nhiều dòng sông ở miền Trung có nước màu
xanh dù là vào mùa lụt, là vì dòng sông chảy qua những rặng núi đá
vôi. Các ion Ca có hoá trị 2 làm kết tủa các chất bùn sét là
các giao chất có điện âm, cũng như muốn cho nước đục trở thành nước
trong, phải bỏ phèn vào (phèn có ion Alumin hoá trị 3), đúng
như câu Kiều tả về sự luân lưu của nàng Kiều :
Tiếc thay nước đã lóng phèn,
Mà cho bùn lại vẩy lên mấy lần.
Đó là
lý do tại sao Sông Danh ở Quảng Bình có nước vẫn màu xanh dù là mùa
lụt, vì thượng nguồn Sông Danh là các rặng núi đá vôi. Sông An Cựu
nắng đục mưa trong cũng thuộc hiện tượng vật lý thổ nhưỡng như trên.
5/
Nhiều đồi cát cao và di động.
Con đường cái quan chạy ven theo các đồi cát lắm khi rất
dài, làm ta liên tưởng câu tả cảnh của Nguyễn Du:
'"Mịt
mù dặm cát đồi cây."
Các
dòng sông vì lưu lượng nhỏ và đụng phải các động cát cao nên cứ phải
né tránh để tìm đường ra biển. Ví dụ điển hình là sông Nhật Lệ, sông
phải chảy men dọc theo chân đồi cát một quãng dài trước khi tìm được
một lối thoát ra biển. Đồi cát Đồng Hới này cao trung bình từ 20
đến 30 mét, có chỗ cao 50 - 60 mét. Chiều rộng của giãy đồi cát này
từ 2 đến 3 km....
Tại đồng bằng Bình Trị Thiên, có nhiều đồi cát di động nhan nhãn dọc
bờ biển từ Đồng Hới (Quảng Bình) cho đến Phong Điền, Quảng Điền
(Thừa Thiên) ngang qua Ái Tử và Hải Lăng (Quảng Trị)
Nạn cát bay (hiện tượng sa mạc hoá) đã khiến nhiều ruộng vườn bị cát
che lấp. Mùa mưa cát còn bị nước mưa chuyên chở làm lấp thêm ruộng
vườn.
Tóm lại, hệ sinh thái (écosystème) Bình Trị Thiên rất đa dạng vì :
khí
hậu biến thiên
từ đồng bằng lên miền núi mà ngay tại miền núi cũng biến thiên vì
cao độ thay đổi từ 200 m đến 1700 mét và thay đổi theo triền Đông
hay triền Tây
đất
đai cũng biến thiên,
từ đất phù sa cận đại đến phù sa cổ sinh, từ úng thủy đến dễ thoát
nước, đất cát trắng đến đất đỏ, đất bị rửa trôi miền dốc nhiều đến
tụ thổ chân đồi
Địa
sinh thảo, hà thảo vô căn.
Từ các nhận định trên đây, ta thấy thảo mộc thiên nhiên vùng núi
Bình Trị Thiên cũng rất đa dạng : rừng nguyên thủy nhiều cây cao 40
- 50 mét thuộc các họ Mimosaceae, Sapindaceae, Meliaceae,
Burseraceae, dưới tầng cây trên có cây cao 8 - 12m mọc rải rác thuộc
các họ Ulmaceae, Myristicaceae, Annonaceae, Flacourtiaceae, dưới
thấp hơn là bụi cây rậm gồm cây 2 - 8 mét, mọc lưa thưa và thuộc các
họ Rubiaceae, Apocynaceae, Rutaceae, Melastomaceae, Araliaceae, chưa
kể một số tre rừng và vài dương sĩ cao như thân cây ; thấp hơn là
tầng nhiều tiểu mộc cao dưới 2 mét thuộc các họ Zingiberaceae,
Liliaceae, đó là chưa kể nhiều loại mây và lan mọc giữa.
Ở Quảng Bình, có cây trầm hương, còn gọi là 'cây gió' (Aquilaria
agallocha) họ Trầm (Thymeliaceae) cao 15 - 25 mét rất nổi tiếng
cho sản phẩm quý, dùng làm chất thơm cùng thuốc chữa bệnh (phối chế
dầu cù là...) Vài loại cây cần để ý là cây lim (Erythrophloeum
fordìi) họ Vang (Caesalpiniaceae) và cây táu (Vatica
fleuryana, Vatica satrotricha). Ngày xưa, cây lim rất
nhiều trong rừng miền Trung cũng như miền Bắc,
Bờm rằng bờm chẳng lấy lim
ngày nay trở thành một quốc cấm. Rừng mưa (rainforest, forêt
pluviale) như vậy có nhiều tầng đại mộc, trung mộc, tiểu mộc, mọc
thành nhiều tầng và có nhiều hệ thống rễ đi xuống nhiều lớp đất khác
nhau nên nước mưa cũng có thể chuyển vận xuống và làm nước ngầm
trong đất được sung mãn hơn và loại rừng này cũng làm bớt cường độ
dòng chảy trên mặt.
"Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn,
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi"
Bài
thơ của Tản Đà cho thấy sự luân lưu của chu kỳ nước.
Ngoài ra, những loài rừng như vậy cũng chứa nhiều muông
thú, chim, loài bò sát... Khốn thay, vì áp lực dân số, con
người đã phá hủy cân bằng sinh thái : nào là phá rừng làm rẩy, lấy
củi, đưa đến hiện tượng xói mòn, làm chế độ thủy văn bị đảo lộn...
Francis Bacon đã từng viết : 'Ta chỉ có thể khuất phục Thiên
Nhiên bằng cách tùng phục'.
Sau
đây ta thử tìm hiểu sáu nhân tố chính gây nên sự đảo lộn môi sinh
như tình trạng hiện nay của 'Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung
thân'
Thế nào là 6 chữ
"O" trong vấn đề môi sinh?
1. Overpopulation (quá đông dân)
Hệ sinh thái Bình Trị Thiên đãt hẹp, người đông. Mật độ trên
đãt trồng trọt được rất lớn. Người dân xứ này phải di dân vào
Saigon, Dalat, Nha Trang, Bình Tuy, Phước Long. Nhưng đến một lúc,
không thể di dân nữa vì tài nguyên đất là một hằng số (có hạn).
Dân số càng ngày càng đông thì nẩy sinh ra một số nhu cầu căn bản :
nhu cầu về chất đốt, về gổ xây cất, rồi đến các vấn đề môi sinh ở
các đô thị như tiếng động, bụi bặm, chất thải, ô nhiễm
nguồn nước uống..
"Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non"
Vì
quỹ đất canh tác có tính cách cố định, nên diện tích đãt dành cho
người nông dân càng ngày càng nhỏ.
2.
Overcutting (phá
rừng)
Các rừng miền núi bị đốn cây toàn bộ, cả cây lớn lẫn cây con nên
rừng bị hủy diệt không còn có cây mẹ để tái sinh được. Vùng Cùa ở
Cam Lộ là nơi vua Hàm Nghi ra đó trú ẩn, tục gọi là Tân Sở, trước
kia là rừng. Rừng có nhiều loài chim thú hoang như công, trĩ,
vạc, vượn, hươu sao, hươu xạ, cọp, beo, bò tót, bò rừng, voi, tê
giác nay không còn nữa. Trong sách Le dragon d' Annam, Cựu Hoàng Bảo
Đại có đề cập đến vùng chứa nhiều muông thú này. Phá rừng như
vậy thì dẫn đến xói mòn, dẫn đến sự giảm bớt đa dạng sinh vật. Rừng
đầu nguồn bị phá thì gây nên nhiều hậu quả miền hạ lưu : nào là đập
nước bị vơi nước dần, nào là kinh mương bị sét, bùn lắng đọng nên
vận tốc dòng chảy bị chậm lại, nào là nước mặn xâm nhập vào nội địa
sâu hơn và sớm hơn: sâu hơn vì sông ngòi không đủ nước để đẩy
nước mặn đi xa hơn và sớm hơn vì nước mặn tràn vào ngay từ bắt
đầu muà nắng, khi mùa mưa mới chấm dứt. Vì áp lực dân số nên nhiều
rừng bị tàn phá, nhiều loài thực vật bị mất hẳn. Khi một loài bị mất
như vậy thì kho gen chưá các mã số di truyền khác nhau cũng bị mất
luôn; các nhà bác học muốn lai giống mới, tạo giống cao năng xuất
hơn cũng không tìm lại được giống củ để cải thiện. Công tác cải
thiện giống cây trồng đòi hỏi một nguồn vật liệu di truyền phong
phú, đa dạng và được bảo quản an toàn khỏi sâu, bệnh và các
nguy cơ gây thoái hoá khác.
Các nhà di truyền học phải luôn luôn tạo ra những giống mới cho năng
xuất cao hơn, kháng sâu hơn, kháng bệnh hơn, có chu kỳ sinh trưởng
ngắn hơn (le plus, le mieux, le plus vite) để phục vụ về mặt lương
thực, một mặt khác thì vốn di truyền hay vốn gen càng ngày càng bị
thu hẹp dần. Đó là lý do tại sao phải có sự đa dạng sinh học.
Rừng Việt Nam xưa kia rất sầm uất và chiếm nhiều diện tỉch.
Ngày nay, trên diện tích 33 triệu hecta, thì có đến trên 10 triệu là
đồi trọc không cây cối. Rừng nhiệt đới chứa nhiều sinh vật, từ tầng
trên đến tầng dưới lẫn thảm thực vật. Danh mục dược thảo đã biết lên
đến 1300 loài. Có loài chứa nhiều alcalôít khác nhau. Các loài nấm ở
thảm thực vật cũng có thể chứa nhiều nấm kháng sinh.(xem sơ đồ về
ảnh hưởng của rừng trên môi sinh)
3.
Overgrazing/
Overstocking
(đồng cỏ quá sức tải)
Bò và dê lang thang từ vùng này sang vùng khác kiếm cỏ nhưng khi quá
tải sức chứa của hệ sinh thái thì làm đất chai cứng lại, rồi cỏ cũng
không mọc lên được, xoi mòn lại thêm một phen tàn phá. Đó là chưa kể
thả dê vì loài dê gậm cả đọt non của thực vật khiến thực vật không
có cơ mọc và phát triển được.
4.
Overfishing
(đánh cá quá mức)
Nhiều vùng, ngư dân dùng cả cốt mìn để giết cá chết hàng loạt.
do đó cá con chưa kịp sinh sản đã bị diệt, gây nên cạn kiệt nguồn
lương thực cho các thế hệ sau này. Câu tục ngữ ngàn đời của tổ tiên
ta: 'Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá ' nói lên sự quan trọng của môi
sinh..
5.
Overhunting
(săn bắn quá mức)
Săn lậu để kiếm thịt rừng, bẫy thú lấy sản phẩm xuất cảng sang
Trung Hoa qua các cửa khẩu miền Bắc làm thú hoang càng
ngày càng có nguy cơ bị diệt vong, thay vì săn bắn thú rừng đúng mức
và đúng muà.
6. Overpumping (bơm nước quá mức)
Nếu ta bơm nước ngầm quá sức luân lưu của dòng chảy, quá khả năng
tiếp tế của nước mưa thì nước mặn sẽ tràn sâu hơn vào nội địa: ngày
nay, rất nhiều dòng sông miền này bị nước mặn lên sâu hơn, khiến
nhiều diện tích lúa bị nhiễm mặn thất thu; tóm lại cái gì quá tải
với thiên nhiên thì thiên nhiên sẽ phản ứng lại. Vạn vật nhất thể
là vậy!
Thế nào là 6 chữ
"C" trong vấn đề quản lý môi sinh ?
1. Population control (Birth Control)
tức khống chế sinh đẻ.
Sự
kiểm soát sinh đẻ giúp điều hoà dân số đến một mức kiểm soát được; ở
thôn quê Việt Nam ngày nay, dân chúng vẫn không ý thức hoặc không có
phương tiện để điều hoà sinh sản; dân số càng tăng thì áp lực trên
môi sinh càng nặng
2. Cutting control
tức tránh nạn phá rừng
Phải kiểm soát nạn phá rừng bừa bãi. Chỉ có thể đốn các cây già và
đã đạt tới một kích thước thương mãi. Phải kiểm soát nạn lửa rừng
3.
Grazing control
Thay
vì trâu, bò, dê cứ thả lang thang dẫm chân quá tải (overstocking)
lên đồng cỏ, cÀn phải có kế hoạch di chuyển theo một chu kỳ nhất
định để các đồng cỏ có thể tái tạo trước khi để súc vật trở lại.
Không thể để súc vật vào các khu mới trồng lại rừng,vì trâu bò sẽ ăn
luôn cây con mới trồng..
4. Fishing control
(kiểm soát nạn tiêu diệt hải sản)
Không được dùng lưu đạn, mìn cho nổ chết cả cá mẹ lẫn cá con. Mắt
lưới cũng không được nhỏ quá vì như vậy, cá con cũng bị bắt
5. Hunting control
(kiểm soát săn bắn)
Phải
có giấy phép săn bắn và giới hạn khu vực săn bắn cũng như không được
săn bắn các loài thú hiếm và tránh săn bắn vào các mùa chúng sinh đẻ
6. Pumping control
(kiểm soát bơm nước quá tải)
Không
bơm nước nhiều khiến làm sụt mặt nước ngầm quá mức để nước mặn vào
nội địa sâu hơn hoặc là tạo dựng thêm nhiều hồ nhân tạo trên đồi núi
Trường Sơn để trữ nước ngọt vào mùa mưa và xả nước đó dần dần vào
mùa nắng để tưới những loại hoa màu không cần nhiều nước như đậu
phụng, đậu nành để tiết kiệm nước, hầu tránh các ảnh hưởng tiêu cực
của sự lạm thác nước ngầm..
Quỹ
gen
Nhiều giống cây, nhiều giống hoa màu, nhưng lại chứa đựng một
quỹ gen rất phong phú. Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải
thiện các giống hiện có để thích nghi với môi trường mới, kháng sâu
hơn, giúp cải thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần
thiết để có một quỹ gen phong phú. Nhiều giống luá kháng lạnh,
kháng hạn, kháng mặn có rải rác ở mọi nơi. Tại vài nơi còn có các
giống luá đặc sản như ở Thừa Thiên có gạo Gie An Cựu, vừa dẽo, vừa
thơm như câu ca dao:
Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi,
Gạo Gie An Cựu mà nuôi mẹ già.
Tại
các chân ruộng úng nước, môi trường thiếu lân, thừa sắt, độc nhôm
(aluminium toxicity), có nhiều giống cổ truyền chịu đựng được các
yếu tố trên. Nhiều giống luá cổ truyền có nhiều nguồn gen phong phú
kháng bệnh đạo ôn (Pyricularia Oryzae),bệnh bạc lá (Xanthomonas
oryzae), bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani), rầy nâu (Nilaparvata
lugens).
Tại
vùng Bình Trị Thiên, những loài cây có củ cũng rất đa dạng; sau đây
là một số cây quantrọng:
Tên Việt |
Tên khoa học |
Tên
Anh ngữ |
Khoai mì |
Manihot esculenta |
Cassava |
Khoai nước |
Colocasia antiquarum |
Aroid |
Khoai sọ |
Colocasia esculenta |
Taro |
Khoai mùng |
Xanthosoma sagittipolium |
Tannia |
Khoai riềng (củ dong) |
Maranta edulis |
Canna |
Khoai
lang |
Ipomea batatas |
Sweet
potato |
Dong
trắng (Hoàng tinh) |
Maranta arundinacea
|
Arrowroot |
Sắn
dây |
Pueraria thomsoni
|
/ |
Khoai
mở |
Dioscorea alata |
Greater yam |
Khoai
từ |
Dioscorea esculenta
|
Potato
yam |
Củ đậu |
Pachyrhizus erosus
|
Bean
root crop |
Khoai
mài |
Dioscorea persimilis |
Yam |
Khoai
nưa |
Amorphophalus campanulatus |
Elephant yam |
Vì vùng này có nhiều loại củ như trên nên trong công tác cải thiện,
chắc nguồn gen cũng khá phong phú.
Nhiều Trung Tâm Khảo Cứu trên thế giới đã phải sưu tập
rất nhiều hạt giống cuả mọi giống lúa, mọi giống đậu, khoai tây,
bắp...và tồn trữ trong các kho lạnh để cho khỏi mất tỷ lệ nẩy mầm
trong hàng chục năm.Thực vậy, hiện nay trên thế giới có quãng trên
10 Trung Tâm quốc tế, rải rác trên toàn thế giới, chuyên có một bộ
phận lo sưu tập và bảo tồn quỹ gen các loài. Nào là CIMMYT ở
Mexico, đặc trách lúa mì và bắp, y như tên gọi Centro
Internacional Mejoramiento Maiz y Trigo, nào là CIAT ở
Colombia lo sưu tập các loại đậu, nào là ICRISAT(
International Crop Research Institute for the Semi Arid Tropics)
ở Ấn Độ sưu tập đậu phụng và đậu triều tức Cajanus indicus,
nào là IRRI ở Phi luật tân chuyên về lúa, từ lúa ruộng đến
lúa rẩy, từ lúa tẻ đến lúa nếp, lúa nổi đến lúa chịu phèn, kháng
mặn, nào là CIP ở Pérou lo về khoai tâỵ Từ 1968, Viện IRRI đã
du nhập và tồn trữ trong kho lạnh gần 70.000 giống lúa (trong đó
63000 ở Á Châu). Muốn cho an toàn hơn, cứ mỗi giống lúa, họ gửi một
nửa sang Mỹ, hiện tồn trữ trong kho lạnh ở Colorado ( U. S.
National Seed Storage Laboratory ở Fort Collins). ở Rome, tổ
chức FAO còn có một Uỷ Ban đặc trách về các nguồn gen di truyền này;
đó là IBGR (International Board for Genetic Resources). Nền
tảng cuả cuộc cách mạng xanh hiện nay là nhờ vào quỹ gen trên. Các
nhà bác học đã xử dụng quỹ gen để tạo giống mới kháng hạn hơn, cao
năng hơn, kháng sâu bệnh hơn.. Căn bản di truyền trong sự cải thiện
thực vật là nằm trong các gen mà một khi các gen bị mất đi (do phá
rừng, do đô thị hoá) thì các nhà di truyền học không tìm đâu ra các
gen để còn tiếp tục lai giống.Các rừng núi Bình Trị Thiên vì có
nhiều đa dạng sinh học do sự giao tiếp của thực vật cả miền Bắc (khu
vực thực vật Nam Hoa và Hi mã lạp sơn) lẫn miền Nam ( khu vực thực
vật Nam Á và Miến Điện) nên chứa đựng một qũy gen rất phong phú và
đa dạng. Vì tương lai của không biết bao nhiêu thế hệ sau lưng nên
ta không thể khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên hiện tại. Cuộc
đời rất ngắn, so với sự miên viễn của nhân loạị
Vèo trông lá rụng ngoài sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
thi
sĩ Tản Đà đã ngậm ngùi như trên. Phát triển lâu bền (sustainable
development) chính là sự phát triển sao cho nhừng thế hệ mai sau
cũng còn thừa hưởng được tài nguyên của tạo hoá.
Vài ví dụ cụ thể về sự cần thiết có sự đa dạng sinh học.
Rượu nho từ cây nho Vitis vinifera. Ở Pháp, cây nho một thời tưởng
đã bị tiêu diệt vì bệnh Phylloxera, nhưng nhờ tháp với các giống
nho Mỹ (có nhiều loại Vitis như Vitis riparia mọc
hoang dọc theo các dòng suối ở nam Texas,nam Carolina; có Vitis
rupestris mọc ở vùng Louisiana; có Vitis labrusca ) hoặc
lai giống với các giống nho này nên đã tạo ra những giống nho kháng
bệnh hơn.
Có một số giống luá bị rầy nâu phá hại mà nhiều loại rầy nâu kháng
lại được các thuốc sát trùng.Thế nhưng gần giãy núi Himalaya có
những giống luá kháng rầy nâu tự nhiên nên có thể sử dụng các gen di
truyền này để lai giống tạo nên các giống mới kháng sâu. Thực vậy,
sự lai giống hoa màu là để tìm các dòng thuần túy có cùng những đặc
tính giống nhau. Nhưng khi loại bỏ sự đa dạng trong mã số di truyền
(code génétique)thì người ta cũng đồng thời tạo ra những cây ít chịu
đựng các điều kiện khắt khe của môi trường. Giống cải thiện đòi hỏi
phải chăm sóc nhiều hơn, phân bón nhiều hơn. Xịt thuốc sát trùng sẽ
đưa đến những loại sâu kháng thuốc nhiều hơn, đòi hỏi các giống mới
kháng sâu hơn; do đó phải tiếp tục cải thiện giống để đưa các gen
tốt vào cây. Muốn đưa các gen tốt vào cây, các nhà di truyền học sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau như tháp cây, ngẫu biến, công nghệ
sinh học( cấy mô)...
Người ta thường đề cập đến vấn đề môi sinh. Tổ chức Green Peace là
một ví dụ điển hình để gây chấn động nhân loại trong mọi chiều kích
của môi sinh ngày nay, từ nhừng vụ nằm lì trên các bià rừng để chống
sự đốn rừng bừa bãi đến các vụ chống săn cá voi, hải cẩu, hoặc chống
các hãng dÀu phá bỏ (thay vì tháo gở) các dàn khoan ở Bắc Hải gây ô
nhiễm môi sinh cho loài người vì con người rốt cục nằm ở giai đoạn
cuối cùng của giây chuyền thực phẩm.
Đạo lý môi sinh chính là tìm kiếm một sự phát triển hài
hoà giữa Thiên, Địa, Nhân ở đãy con người phải tìm một sự quân bình
sinh thái, khai thác đúng mức và dành phần vốn tài nguyên cho thế hệ
mai sau, thay vì khai thác thâm vào vốn liếng tạo hoá như ở Việt Nam
hiện nay. Phải chăng đó cũng là triết học Deep Ecology
của nhà triết học người Na Uy Naes ?..
|