Tóm tắt
Cho đến đầu thế kỷ XX, nạn phá rừng chủ yếu là do các dân tộc
ít người sống ở miền núi gây ra chứ không phải do người Việt
mà tuyệt đại đa số chỉ sống ở đồng bằng và từ xưa rất sợ các
vùng rừng núi "ma thiêng nước độc". Nỗi sợ đó gắn liền với một
số tín ngưỡng về thần núi, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, cây thiêng,
ma mộc... Từ hơn bốn mươi năm nay, để giảm bớt mật độ dân số
của đồng bằng sông Hồng cũng như các đồng bằng duyên hải Trung
Bộ, các chính quyền kế tiếp nhau ở Việt Nam đã ra sức đưa dân
lên định cư ở miền núi Bắc Bộ và nhất là ở Tây Nguyên. Việc
khai hoang và khai thác rừng một cách bừa bãi, hậu quả trực
tiếp của chính sách di dân, đã làm cho nạn phá rừng trở nên
ngày càng trầm trọng cho đến những năm gần đây. Nhất là khi
người Việt đã thắng được nỗi sợ truyền thống đối với núi rừng
mà tiềm lực kinh tế lôi kéo họ rất mạnh, đặc biệt ở Tây
Nguyên.
Theo
ước tính của Paul Maurand, vào năm 1943, Việt Nam có khoảng
13,5 triệu hecta rừng (Paul Maurand, 1943). Theo điều tra năm
1980, cả nước còn được chừng 9,9 triệu hecta (Phan Văn Ðợt,
1983). Như vậy, gần 4 triệu hecta rừng đã biến đi trong vòng
50 năm. Thực ra nạn phá rừng còn nghiêm trọng hơn nhiều vì có
đến 11,5 triệu hecta đất có thể trồng rừng bị bỏ hoang và
không có cây cối. Nếu cho đến đầu thế kỷ XX, người Việt (dân
tộc đa số) không chịu trách nhiệm chính về nạn phá rừng, theo
chúng tôi có lẽ là do cách người Việt quan niệm và cách hình
dung núi rừng cũng như các tín ngưỡng của họ liên quan đến núi
rừng. Mặc dù hơn ba phần tư lãnh thổ Việt Nam là đồi núi và
mặc dù có hơn 3200 km bờ biển, người Việt chủ yếu là một dân
tộc sống ở đồng bằng. Trong nhiều nghìn năm họ chiếm lĩnh các
châu thổ và một phần trung du ở Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ (Thanh Nghệ Tĩnh), với diện tích cả thảy có
lẽ không quá 30.000 km2.
Chỉ từ thế kỷ XI trở đi, người Việt mới bắt đầu cuộc Nam tiến
kéo dài đến gần bảy thế kỷ, lần lượt chinh phục các đồng bằng
duyên hải Trung Bộ, Ðông Nam Bộ và cuối cùng đồng bằng sông
Cửu Long vào đầu thế kỷ XVIII. Dù từ lâu đã chịu sức ép dân số
rất mạnh, cho đến ít ra sau thế chiến thứ nhất, tuyệt đại đa
số người Việt đều không muốn di cư lên thượng du mà họ vẫn cho
là vùng "ma thiêng nước độc".
I. Các tín ngưỡng gắn liền với núi rừng
Cũng như người Hán, người Việt tin rằng mỗi ngọn núi đều có
một vị thần cai quản, gọi là sơn thần hay
thần núi. Vị thần núi nổi tiếng thiêng liêng
nhất mà phần đông người Việt đều biết qua truyền thuyết Sơn
Tinh-Thuỷ Tinh là thần núi Tản Viên hay Ba Vì ở tỉnh Hà Tây,
cách Hà Nội chừng 60 km về phía Tây. Nhiều làng ở đồng bằng
sông Hồng và ngay cả ở vùng Thanh Nghệ thờ thần Tản Viên làm
thành hoàng.
Mẫu Thượng Ngàn (mặc áo xanh) đóng vai trò quan trọng trong
tín ngưỡng hầu bóng Tam Phủ hay Tứ Phủ. Cũng như Mẫu Thuỷ hay
Mẫu Thoải (mặc áo trắng), bà được nhiều đền nhỏ thờ riêng hơn
Mẫu Thượng Thiên (mặc áo đỏ, bà thường được đồng hoá với chúa
Liễu Hạnh). Ở xã Ðường Lâm (Hà Tây) chẳng hạn, điện thờ Mẫu
Thượng Ngàn được xây trên một ngọn đồi của làng Cam Lâm, còn
đền thờ Mẫu Thoải thì được xây ở làng Hà Tân bên cạnh sông
Hồng, trong khi ở tiền đường của chùa Mía hay Sùng Nghiêm
(Ðông Sàng) thì lại thờ cả Tam Toà Thánh Mẫu.
Theo Léopold Cadière, tục thờ Mụ Rú trong một ngôi đền ở Quảng
Trị tương ứng với tục thờ người khai canh đầu tiên ở địa
phương này trước đây vốn là một khu rừng, và vẫn tiếp tục bảo
vệ đất đai cho dân làng chống lại sự xâm chiếm của các làng
bên cạnh. Cũng theo ông, Mụ Rú là tên địa phương của Bà Mộc
trong tín ngưỡng Ngũ Hành, bên cạnh Bà Hoả và Bà Thuỷ, cũng
được thờ trong ngôi đền nói trên.
Trong số các thú vật sống ở rừng, người Việt sợ và trọng nhất
voi và cọp nên gọi chúng là Ông. Họ tin rằng khi sống lâu năm
cọp
cũng có thể thành tinh như rắn. Mặt khác người Việt cũng tin
là những người chết hay cảm thấy ngạt thở trong khi ngủ là vì
bị ma mộc đè: ma mộc ở trong một cây gỗ dùng làm cột hay sườn
nhà.
Cũng nên nhắc đến tục thờ các cây cối linh thiêng: cũng giống
như ở Trung Quốc, đó là các thứ cây "uy nghi nhờ cành lá sum
sê và nhờ sống lâu năm. Khi già đi, chúng trở thành linh
thiêng và siêu nhiên hoá ; người ta tin là chúng có được một
quyền lực siêu việt" (H. Doré, Cadière, 1992). Như vậy, các
cây cổ thụ có thể thành tinh, nhưng thông thường thì chúng là
nơi trú ngụ của của thần hay yêu, tinh, ma, quỷ, như một câu
tục ngữ đã khẳng định: "Thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây
đề". Ở Huế và Quảng Trị, L. Cadière đã kiểm kê các loại cây
linh thiêng có ma, quỷ và nhất là con tinh ở: cây bồ đề, cây
sanh, cây da, cây bàng, cây sung, cây giáng châu. Ông còn nhắc
trường hợp của một cây mun và một cây gõ (hay gụ), cả hai đều
già đến mấy trăm năm nên không ai dám chặt vì sợ bị thần cây
hay thần sống trong cây vật chết. Cũng theo L. Cadière, các
người tiều phu chẳng bao giờ dám đốn một cây gỗ trên đó có cây
quả hộp hay hộp ma (một loại dương xỉ biểu sinh sống bám vào
thân hay cành của các cây to) mọc vì sợ thần sống trong cây
báo thù. Phân tích các đặc tính mà các loại cây nói trên có
chung với nhau, ông nhận xét là tất cả đều có lá "xanh sẫm,
dày và mạnh mẽ", một dáng vẻ độc đáo hay lạ lẫm và thường là
rất già. Tục thờ cây được biểu hiện bằnh nhiều cách: vài cây
hương cắm bên gốc cây hay trên cành, vài thứ đồ mã, các bình
vôi bị vỡ hay có miệng bị bít kín nằm chất chồng dưới gốc cây.
Ðôi khi một bàn thờ khá tử tế hay một cái miếu nhỏ được dựng
sát gốc cây: tất cả tuỳ thuộc ở quyền lực linh thiêng của các
vị thần.
Nếu ở đồng bằng sông Cửu Long ngày nay vẫn còn đến 350.000 ha
rừng tràm, sú, vẹt, bị chiến tranh và việc khai thác than củi
bừa bãi tàn phá nặng nề, và bị việc phát triển quá nhanh chóng
nghề nuôi tôm càng ngày càng đe doạ, thì ở đồng bằng sông Hồng
từ lâu rừng rú đã biến mất. Ở các đồng bằng duyên hải Trung
Bộ, cách đây hơn năm mươi năm, vẫn còn một số cấm, tức là các
khu rừng nhỏ trong đó dân làng không được vào chặt cây, đốn
củi, săn bắn...
Trong bài nghiên cứu về các tín ngưỡng và thực tiễn tôn giáo ở
vùng Huế, Léopold Cadière (1992) cũng đã ghi nhận là các làng
thời xưa có rừng, vào đầu thế kỷ XX, có tục giữ lại trên địa
phận của mình một khu rừng nhỏ gọi là rú cấm. Vào những năm
1950, ở Quảng Nam vẫn còn một số cấm như ở các làng Ðại Bường
(Quế Sơn), Vĩnh Trinh (Duy Xuyên)…, nằm ven đồi núi.
II. Từ vựng về rừng núi
Nếu ở miền Trung, ít ra từ Nghệ An trở vào, rú cũng
được dùng để chỉ rừng [1], thì ở miền Bắc rú
dường như chỉ được kết hợp với rừng để tạo
thành ngữ rừng rú để chỉ một cách khái quát
"rừng tự nhiên": có lẽ vì thế mà Từ điển tiếng
Việt do Hoàng Phê chủ biên không ghi nó, khác với
từ điển Génibrel (xuất bản năm 1898) vốn quan tâm đến
các từ đặc biệt của Bắc Kỳ cũng như của Huế. Nếu theo
Alexandre de Rhodes và Génibrel, ngàn có nghĩa là "núi
mlớn" hay "montagne" (núi), thì Từ điển tiếng
Việt lại cho ngàn [2] đồng nghĩa với rừng
và chỉ được dùng trong "văn chương". Mà đúng là từ ngàn
được dùng trong rất nhiều thành ngữ, ca dao, thi ca:
-Vượt suối băng ngàn (vượt qua nhiều gian
khổ), lên ngàn xuống bể (đương đầu với nhiều khó
khăn), hạc nội mây ngàn (thong dong tự
do)…
- Mấy
sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua,
- Ðốn
tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu
thân hữu khổ phàn nàn cùng ai!
-
Con vua lấy
thằng bán than,
Nó
đưa lên ngàn cũng phải đi theo
-
Xông pha gió bãi, trăng
ngàn,
(Chinh phụ ngâm)
Rừng
cũng được dùng trong một số thành ngữ thông dụng có từ
xưa: rừng già, rừng chồi, rừng
cấm, rừng xanh núi đỏ (vùng rừng núi xa xôi,
hiểm trở), rừng thiêng nước độc, rừng
vàng biển bạc (tài nguyên thiên nhiên phong
phú), chở củi về rừng (làm
việc vô ích)…hoặc các thành ngữ mới đặt ra từ khoảng nửa thế
kỷ nay: rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ, rừng sản xuất, ...
Như là tính từ, rừng có nghĩa là "hoang dã, mọc
hay sống trong rừng" được dùng trong các thành ngữ: gà rừng,
heo rừng hay lợn
rừng,
thú rừng, thịt rừng, người
rừng... Ðiều đáng lưu ý là trong tiếng Trung Quốc
từ shan (sơn = núi) được dùng với nghĩa
trên đây chứ không phải từ lin (lâm = rừng):
shanji (sơn kê = gà rừng), shanmao (sơn miêu =
mèo rừng), shanyang (sơn dương = dê rừng), ...
III. Rừng và nạn phá rừng ở Việt Nam
Do tất cả các quan niệm và tín ngưỡng nói trên, cho đến khi bị
Pháp đô hộ, người Việt chủ yếu sống ở các đồng bằng: ở các
vùng thượng du hay cao nguyên chỉ có các dân tộc ít người sinh
sống. Kết quả là các triều đình Việt Nam rất ít khi trực tiếp
kiểm soát các vùng miền núi mà rất ít người Việt đặt chân đến,
nên thường chỉ biết rất lờ mờ ít ra cho đến cuối thế kỷ XIX:
bằng chứng là trong Ðại Nam nhất thống
chí (được biên soạn vào khoảng đầu những năm 1870) và ngay
cả trong Ðồng Khánh dư địa chí (cuối thế
kỷ XIX), các tác giả đều không nói gì cả đến vùng cao nguyên
Trung Bộ ! Cho đến cuối thế kỷ XIX chỉ một ít lái buôn người
Việt lên mua bán ở vùng này: trong các sách của các tác giả
người Pháp họ thường được gọi là các lái. Có lẽ phải
đợi đến sau thế chiến thứ nhất, người Việt mới bắt đầu cuộc
Tây tiến tuy gần đây thôi nhưng không phải là không
quan trọng đối với việc người Việt hiểu biết về các dân tộc
thiểu số cũng như kiểm soát thực sự toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
1) Từ
thời quân chủ sang thời thuộc
địa
Vì những lý do vừa nêu trên đây, chúng ta có rất ít thông tin
về việc khai thác rừng trước khi chính quyền thuộc địa lập ra
Sở Kiểm lâm Ðông Dương (Service Forestier de l'Indochine) vào
năm 1901. Trong hàng mấy nghìn năm, các sản phẩm mà các dân
tộc lấy từ rừng ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc hay Tây Nguyên là
các loại tre, mây, lá nón, các loại cây củ để nhuộm, than
củi... và một ít thứ gỗ quý để làm nhà, thuyền và để chế tạo
nông cụ. Do không có đường sá và phương tiện giao thông ngoài
việc thả bè trên một số dòng sông, việc khai thác gỗ rất khó
khăn, chỉ giới hạn vào các khu rừng ở gần đường sông hoặc gần
đồng bằng. Chính vì thế mà các ngôi nhà hay đình chùa cổ
thường có các cột cái làm bằng mít, xoan... là các loại cây
trồng ở đồng bằng hay trung du kế cận.
Vào đầu thế kỷ XX, việc khai thác gỗ ở Bắc Bộ chưa quan trọng
lắm: chỉ đạt đến 30.000 m3
vào năm 1905, dù một phần trong đó có thể được
khai thác ở vùng Thanh Nghệ. Tuy thế nạn phá rừng dường như đã
nghiêm trọng vì cũng trong năm này Roullet, giám đốc Sở Kiểm
lâm Ðông Dương, đã báo động: "Càng đi lên cao ta
càng gặp nhiều sườn núi mênh mông xa tít
đến tận chân trời bị các rẫy
tàn phá. Các thân cây cháy chưa hết giống
như những bộ xương, các cây tre mảnh
khảnh được trồng thành bụi nhỏ
rải rác đó đây là các bằng chứng
cho sự hiện diện trước đây
của rừng rú và của việc nó bị
tàn phá mới đây hay đã lâu rồi"
(H. Guibert, 1941).
Nhưng 25 năm sau, theo thống kê chính thức (bảng 1), lượng gỗ
khai thác được riêng ở Bắc Bộ đã tăng lên gấp hơn bảy lần, chủ
yếu nhờ mạng lưới đường sá và phương tiện giao thông được cải
thiện, cho phép công nhân đến tận các vùng trước đây không vào
được. Sản lượng nói trên đã đáp ứng được các nhu cầu về gỗ
trong các ngành xây dựng nhà cửa, chế tạo bàn ghế, khai thác
than đá... phát triển khá nhanh sau thế chiến thứ nhất.
Bảng 1:
Rừng
Việt Nam năm 1930*
Bắc Kỳ |
Trung Kỳ |
Nam Kỳ |
Tổng cộng |
Diện tích (km2)
|
115.700 |
147.600 |
64. 700 |
328000 |
Diện tích rừng (km2)
|
69. 000 |
65.000 |
8 000 |
142.000 |
Gỗ (1000 m3)
1 |
226 |
176 |
183 |
585 |
Củi (1000 site)
1 |
119 |
239 |
1199 |
1557 |
Than gỗ (tấn)1
|
2532 |
3652 |
7812
|
6965 |
* Nguồn : Annuaire statistique de l'Indochine 1930-31
(1932)
1. Ðã nộp tiền để được phép khai thác. 2.Con số này quá thấp !
Theo tư liệu Les bois et les principaux sous-produits
forestiers de l'Indochine, được giới thiệu ở cuộc Triển
lãm thuộc địa quốc tế năm 1931ở Paris, Nam Kỳ thường sản xuất
nhiều hơn Bắc Kỳ và Trung Kỳ cả hơn mười lần, tuy có khuynh
hướng mỗi năm một
giảm đi một cách đáng kể: 36.843 tấn vào năm 1925, 45.222 tấn
vào năm 1926, 35.647 tấn (1927) và 31.000 tấn (1928).
Việc khai thác rừng phát triển nhanh từ ngay sau thế chiến thứ
nhất (gấp khoảng ba lần trong vòng mười một năm: 1918-1929),
chắc chắn đã làm cho nạn phá rừng mỗi ngày một thêm trầm
trọng. Khi nói đến việc khai thác rừng, người ta thường nghĩ
đến gỗ xây dựng. Nhưng thực ra việc sản xuất than [3] và nhất
là củi cũng có tác dụng tàn phá rừng rất lớn, nhất là ở các
đồng bằng và trung du kế cận. Ngoài ra trong số các nguyên
nhân của nạn phá rừng dưới thời Pháp thuộc còn phải kể đến
việc chính quyền thuộc địa nhượng tạm thời hay vĩnh viễn một
số đất rất lớn cho các nhà tư bản người Pháp cũng như người
Việt. Vào đầu năm 1931, tổng diện tích đất nhượng lên đến
1.880.000 ha trong số đó có 1.173.000 ha đã được canh tác. Ta
có thể nghĩ rằng một phần không nhỏ của các "nhượng địa" này
là đất rừng. Nhưng nguyên nhân chính của nạn phá rừng phải nói
là tập tục "đốt rừng làm rẫy". Ở Bắc Bộ, từ lâu đời, các dân
tộc thiểu số (Mường, Dao, Lô Lô, Thái ... và nhất là Hmông, từ
vài thế kỷ gần đây) đã xoá đi nhiều rừng nguyên sinh, rồi rừng
thứ sinh và sau cùng các rừng tre trúc. Nhất là theo Henry
Guibert, vào những năm 1930, cách làm rẫy không còn giống như
trước đó 50 năm, bởi vì người ta ngày càng ít tôn trọng các
tập tục và các lối làm truyền thống. Mặc dù chống lại khuynh
hướng thường xem các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên là những kẻ
phá rừng khủng khiếp nhất, M. Antomarchi cũng phải thừa nhận:
" Các trận cháy rừng thường xảy
ra, tàn phá mỗi năm các khu rừng của
vùng thượng du ; phần lớn là do bất
cẩn, nhưng cũng do định mệnh
nữa. Thật vậy các vạt rẫy mới
được đốt vào mùa khô ; không may đó cũng
là mùa có nhiều cơn gió to" (H. Guibert,
1941). Mặt khác, cũng phải nhắc lại rằng từ lâu đời người Việt
cũng đã đốt rừng làm rẫy, nhưng có lẽ chỉ giới hạn vào các
vùng đồi núi kế cận các đồng bằng. Bằng chứng là hai từ rẫy
và thành ngữ phát rẫy đã được ghi trong từ
điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651. Trong Ðại
Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của
(xuất bản năm 1895) đã có ghi các thành ngữ: đất rẫy,
làm rẫy, phường rẫy, rẫy bắp...
Không đến nổi trầm trọng như ở Bắc Bộ, tình hình rừng ở Trung
Bộ không phải là không đáng lo: trên các cao nguyên Pleiku,
Buôn Ma Thuột, Kon Tum..., vào cuối những năm 1930, H. Guibert
cũng thấy sự hiện diện của nhiều khu rừng rộng mênh mông bị
rẫy tàn phá.
Từ 14.200.000 hecta vào năm 1930, diện tích rừng đã giảm xuống
còn 13.500.000 ha vào năm 1943, nghĩa là giảm khoảng 1.300.000
ha trong vòng 13 năm!
Chính quyền thuộc địa đã dùng những biện pháp nào để chống lại
nạn phá rừng?
Vào những năm 1930, họ đã bắt đầu một chính sách trồng rừng,
đặc biệt là trồng thông ở Bắc Bộ (để lấy gỗ dùng làm trụ mỏ)
và trồng phi lao trên các bãi, đồi cát dọc theo duyên hải
Trung Bộ.
Những người trách nhiệm về rừng đã ý thức được rằng việc chống
lại nạn cháy rừng do làm rẫy gây ra, không phải chỉ là một vấn
đề kỹ thuật lâm nghiệp đơn thuần mà chủ yếu là một vấn đề hành
chính cần nghiên cứu và xử lý trên bình diện chính trị, tộc
người và kinh tế. Cần phải làm thế nào để dân chúng hợp tác,
tham gia vào việc bảo vệ và coi sóc rừng, chống lại hoả hoạn,
bởi vì trong thực tế chính họ là người đốt rừng. Mặt khác Sở
Kiểm lâm Ðông Dương cũng tìm cách khoanh rõ các vùng được phép
làm rẫy sao cho chúng đủ rộng để dân cư bản địa có thể sản
xuất đủ lương thực tự nuôi sống và để cho thảo mộc có đủ thời
gian phủ đầy các đám rẫy bị bỏ hoang, vì chỉ như thế mới có gì
để đốt lấy tro làm cho đất lại trở nên phì nhiêu ... Song
song, để ngăn chặn lửa lan rộng nhanh chóng mỗi khi có cháy
rừng, Sở Kiểm Lâm Ðông Dương cũng đã thử đào các đường hào
chống lửa có trồng cây thùa (agave) và các loại cây thuộc họ
xương rồng hoặc đào các đường hào dọn sạch mọi thứ thảo mộc.
2) Từ
sau thế chiến thứ hai
Từ sau thế chiến thứ hai, nạn phá rừng ngày càng trở nên trầm
trọng. Sau Hiệp định Genève, phần lớn những người từ miền Bắc
vào thường định cư ở miền Ðông Nam Bộ và nhất là ở các cao
nguyên Trung Bộ. Mặt khác, vào khoảng 1960, chính quyền Sài
Gòn
cũng đã đưa hàng trăm ngàn dân của các tỉnh duyên hải miền
Trung quá đông người (từ Quảng Trị trở vào) lên Tây Nguyên.
Cũng do sức ép dân số, chính quyền miền Bắc áp dụng một chính
sách tương tự là di dân từ đồng bằng Bắc Bộ lên các tỉnh miền
núi. Sau khi hoà bình được lập lại vào năm 1975, chính quyền
cách mạng đã dùng các biện pháp hành chính đưa dân đi lập các
vùng kinh tế mới chủ yếu ở Ðông Nam Bộ và Tây Nguyên. Kết quả
là dân số của miền núi Bắc Bộ và nhất là của Tây Nguyên đã
tăng lên nhanh hơn so với bình quân cả nước (xem bảng 2). Do
sử dụng công cụ tiên tiến hơn và nhất là do sự cần cù và ham
muốn làm giàu nhanh chóng, người Việt chắc chắn có khả năng
phá rừng lớn hơn các dân tộc thiểu số rất nhiều. Từ năm 1976
đến năm 1980, 600.000 hecta rừng đã bị phá nhưng trong số đó
chỉ có 200.000 hecta được thực sự canh tác ( (Phan Văn Ðợt,
1983). Vào khoảng năm 1995, riêng ở Tây Bắc, diện tích đồi núi
trọc rộng gấp sáu lần diện tích rừng: 2.584.100 ha so với
423.900 ha (Nguyễn Văn Trương, 1996) !
Bảng 2
: Biến chuyển dân số của Việt
Nam từ 1931 đến 1999*
Vùng |
Diện tích |
Dân số 1931 |
Dân số 1999 |
Trung du và
thượng duBắc Bộ |
102.964 km2 |
2.437.000 người |
13.088.300 người |
Tây Nguyên |
55.568 km2 |
423.000 người |
3.062.200 người |
Việt Nam |
331.000 km2 |
|
76.327.900người |
*Nguồn: Annuaire statistique de l'Indochine, 1930-1931(1932);
Niên giám thống kê 1999
Về nguyên nhân, trước hết chúng ta cũng không nên quên sự tàn
phá rừng trong chiến tranh thông qua việc người Mỹ đã sử dụng
hơn 14 triệu tấn bom đạn và đã dùng một số lượng thuốc khai
quang rất lớn, góp phần không nhỏ vào việc tàn phá hay ít ra
làm suy thoái nghiêm trọng nhiều vùng rừng núi ở miền Nam.
Hai nguyên nhân khác thì trước sau vẫn thế: khai hoang và khai
thác rừng một cách bừa bãi !
So với năm 1930 (bảng 1), lượng gỗ khai thác vào năm 1990 (năm
cao nhất từ sau đổi mới, bảng 3) tăng gấp hơn sáu lần (3,5
triệu m3
khối so với 558.000 m3)
trong khi lượng củi tăng khai thác vào năm 1995 tăng gấp đến
20 lần (29,8 triệu xite so với 1,5 triệu xite). Nhưng nhìn
chung sản lượng gỗ củi có khuynh hướng giảm đi, đặc biệt là ở
Tây Nguyên: từ 1989 đến 1998, gỗ giảm gần 70 % và từ 1995 đến
1998 củi giảm gần 36 %.
Từ mười năm nay, bên cạnh việc phá rừng theo lối "truyền
thống" để trồng các loại cây công nghiệp (chè, cao su và nhất
là cà phê) còn có thêm việc biến hàng trăm nghìn hecta rừng
tràm, sú, vẹt thành mặt nước để "nuôi trồng thuỷ sản": riêng ở
đồng bằng sông Cửu Long, tổng diện tích này lên đến khoảng
350.000 ha vào năm 1999 [4]. Cho đến 1985, hoả hoạn tàn phá
mỗi năm từ 40 đến 50.000 ha rừng. Từ mươi năm nay, nhờ các
biện pháp phòng hộ hiệu quả hơn, nạn cháy rừng dường như mỗi
năm một giảm: cao nhất là 19.943,3 ha (năm 1997) và thấp nhất
là 2.750,2 ha (1997)[5]. Về nạn phá rừng, năm cao nhất (1995)
lên đến 18.914 ha trong đó Tây Nguyên chiếm 7.522 ha, Lâm Ðồng
2.612 ha và Lai Châu 1.456 ha [6].
Tưởng cũng nên nói thêm là báo chí trong nước thường đăng tin
về nạn lâm tặc hoành hành công khai và "rầm rộ ngày đêm".
Chẳng hạn chỉ trong ba năm 1999-2001, riêng ở tỉnh Bình Thuận
Ðội Kiểm lâm cơ động đã xử lý 2000 vụ khai thác và vận chuyển
gỗ trái phép, tịch thu trên 3.100 m3
gỗ tròn, trên 1.300 m3
gỗ xẻ, đó là chưa kể hàng chục ngàn cây gỗ trục
và hàng trăm tấn than củi. Nhưng theo một quan chức ngành kiểm
lâm, thì "số vụ mà các cơ quan chức năng bắt được chỉ phản ánh
một phần thực trạng khai thác gỗ lậu hiện nay" [7].
Ðể ngăn chặn nạn phá rừng, các nhà chức trách Việt Nam đã áp
dụng một chính sách mới là giao cho các hộ lâm nghiệp trồng
trọt, khai thác tối đa từ năm đến bảy hecta tuỳ theo vùng
trong 50 năm.
Theo thống kê chính thức, cho đến năm 1995, 800.000 hộ lâm
nghiệp đã nhận cả thảy một triệu ha đất rừng. Mặt khác, từ năm
1995 diện tích rừng "trồng tập trung" mỗi năm lên đến hơn
200.000 ha rừng (xem bảng 4). Kết quả là cho đến cuối năm
1999, tổng diện tích của loại rừng này đạt 1.390.200 ha trên
tổng số 10.884.500 ha (gần 13 %).
Nhưng cũng phải thừa nhận rằng khi đi trên các tuyến đường Ðà
Lạt - Buôn Mê Thuột – Pleiku - Kon Tum, Hoà Bình - Sơn La -
Ðiện Biên Phủ - Lai Châu - Sa Pa -Yên Bái hay Cao Bằng - Lạng
Sơn, ta ít khi được thấy những khu rừng rợp bóng cây cao: trên
các đồi núi thường mọc lẫn lộn nhiều thứ cây nhỏ, tranh, tre
trúc, chuối rừng, song mây... Thỉnh thoảng mới thấy một đôi
cây lớn đơn độc ngự trị... Trong khung cảnh của chính sách bảo
vệ thiên nhiên và môi trường, nhà cầm quyền đã lập được cho
đến khoảng giữa những năm 1990 bảy vườn quốc gia, 47 khu bảo
tồn thiên nhiên và 33 khu rừng "có tính cách lịch sử, văn hoá
và môi trường" (Lê Ðình Khánh, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1996).
Từ năm 1989 đến năm 1992, sản lượng gỗ khai thác được ở Việt
Nam đã giảm từ 3.261.900 m3
xuống 2 .216.200 m3
, tức hơn 32 %. Nhưng chính ở miền núi của Bắc Bộ
và nhất là ở Tây nguyên, sản lượng gỗ giảm đi nhiều nhất: 38 %
và 70 % ! Một điều nghịch lý là ở đồng bằng sông Hồng trung
bình mỗi km2
đất sản xuất được gần 12,5 m3
gỗ, (trồng trong vườn hay bên đường...) trong khi
ở Tây Nguyên nó chỉ cho chưa được 4 m3
gỗ, nghĩa thấp hơn đến ba lần ! (xem bảng 3).
Bảng 3
: Lượng gỗ khai thác mỗi năm từ
1989 đến1998 (1000 m3)*
Vùng |
km² |
1989 |
1990 |
1991 |
1992 |
1995 |
1998 |
Thượng và trung du Bắc Bộ
|
102.964,6 |
1104,3 |
1013,9 |
981,1 |
782,2 |
907,6 |
693,5 |
Ðồng bằng sông Hồng
|
12.510,7 |
213,3 |
237,8 |
279,0 |
280,0 |
174,2 |
155,4 |
Các tỉnh duyên hải Trung Bộ
|
97.063,6 |
634,5 |
802,9 |
634,3 |
540,8 |
603,5 |
513,2 |
Tây Nguyên
|
55.568,9 |
647,2 |
716,2 |
767,0 |
558,7 |
327,3 |
197,1 |
Ðông Nam Bộ
|
23.450,7 |
229,1 |
213,0 |
193,3 |
151,6 |
259,8 |
168,5 |
Ðồng bằng sông Cửu Long
|
39.555,1 |
473,6 |
461,6 |
355,2 |
306,3 |
520,7 |
489,1 |
Tổng số |
331.113,6 |
3261,9 |
3445,6 |
3210,0 |
2646,6 |
2793,1 |
2216,2 |
*Nguồn : Niên giám thống kê 1993 và 1999
Về sản lượng củi, ta cũng có những nhận xét tương tự: Chẳng
hạn trong khi sản lượng cả nước chỉ giảm 15 %, từ năm 1995 đến
1998, thì ở Tây Nguyên lại giảm đến 35 % (xem bảng 4).
Bảng 4:
Lượng củi khai thác mỗi năm từ
1995 đến 1998 (1000 xite)
Vùng |
km² |
1995 |
1996 |
1997 |
1998 |
Thượng và trung du Bắc Bộ |
102.964,6 |
13.393 |
12.632,2 |
11.936,8 |
11.347 |
Ðồng bằng sông Hồng |
12.510,7 |
501 |
497,4 |
483,6 |
465,3 |
Các tỉnh duyên hải Trung Bộ |
97.063,6 |
9736 |
9535 |
9150,6 |
8621,8 |
Tây Nguyên |
55.568,9 |
2181 |
1907,2 |
1744,5 |
1402,3 |
Ðông Nam Bộ |
23.450,7 |
1117 |
1586,8 |
1361,1 |
890,1 |
Ðồng bằng sông Cửu Long |
39.555,1 |
2900 |
2671,6 |
2679,8 |
2764,3 |
Tổng số |
331.113,6 |
29.828 |
28.827,2 |
27.356,4 |
25.490,8 |
*Nguồn : Niên giám thống kê 1999
Một điều đáng để ý khác là dù diện tích đất rừng giảm đi, sản
lượng gỗ của năm 1998 tăng gấp gần năm lần so với năm 1930,
trong khi sản lượng củi tăng gấp 16 lần, chắc là do cường độ
khai thác cao hơn nhiều do tác động của việc tăng dân số (gấp
gần 5 lần) và của việc di dân đến vùng rừng núi.
Ðể kết luận, ta có thể khẳng định không quá cường điệu rằng,
nếu Việt Nam còn được 13,5 triệu hecta rừng cho đến thế chiến
thứ hai, một phần là nhờ sự sợ hãi từ muôn đời của người Việt
đối với núi rừng: chính nỗi sợ đó đã khiến người Việt trong
bao thế kỷ không dám di cư lên miền núi, dù chịu sức ép dân số
từ lâu đã khá nặng nề ở đồng bằng sông Hồng cũng như các đồng
bằng duyên hải Trung Bộ. Từ khoảng năm mươi năm nay, để giải
toả cho các đồng bằng này, các chính quyền kế tiếp đã ra sức
vận động, thậm chí cưỡng bức hàng triệu người Việt lên định cư
ở các vùng thượng và trung du của miền Bắc và nhất là ở Tây
Nguyên. Chính sách đó
và hậu quả của nó là việc khai phá đất đai với cường độ cao đã
khiến cho nạn phá rừng ngày càng trở nên trầm trọng, nhất là
sau khi đất nước tiến nhanh vào kinh tế thị trường. Cho dù ý
muốn bảo vệ rừng đã được các nhà cầm quyền Việt Nam khẳng định
từ lâu trong các văn kiện chính thức, nhưng vì thiếu ngân
sách, thiếu tinh thần trách nhiệm hay quyết tâm, việc bảo vệ
rừng và nhất là trồng rừng chỉ thực sự đem lại kết quả cụ thể
từ khoảng mươi năm nay, nhưng phải nói là nhìn chung vẫn chưa
chặn đứng được nạn phá rừng. Nhất là khi như ta biết dân chúng
ở các vùng đồng bằng có mật độ quá cao càng ngày càng bị tiềm
lực kinh tế của vùng đồi núi ở Bắc Bộ, Trung Bộ, của miền Ðông
Nam Bộ và nhất là Tây Nguyên lôi cuốn, vì ở đấy họ còn có thể
khai phá đất rừng để trồng các loại cây công nghiệp sinh lợi
nhiều hơn: làm quen với núi rừng từ hơn nửa thế kỷ nay, người
Việt dần dà thắng được nỗi sợ núi rừng truyền thống. Với kỹ
thuật, công cụ canh tác hiện đại hơn các dân tộc thiểu số, với
sự năng nổ, cần cù vốn có, chắc chắn người Việt có khả năng
phá rừng lớn hơn rất nhiều, trừ phi họ ý thức được sự cần
thiết phải bảo vệ rừng và môi trường thiên nhiên và trừ phi
các nhà cầm quyền đề ra được các chính sách nông lâm và quy
hoạch lãnh thổ thoả đáng hơn trong những thập kỷ tới, đặc biệt
ở miền núi, vừa bảo đảm được sự phát triển bền vững vừa tôn
trọng được quyền lợi chính đáng của các dân tộc ít người.
*LASEMA-CNRS (Trung tâm Quốc
gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp)
Chú thích
[1] Theo Việt Nam từ điển của hội
Khai trí tiến đức (xuất bản trong những năm 1930), rú
là "núi có cây rậm" trong khi theo Ðại Nam quấc
âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của thì rú
đồng nghĩa với rừng.
[2] Hoàng Xuân Hãn định nghĩa ngàn là "rừng rậm trên
núi", xem Chinh phụ ngâm bị khảo,
Paris: Minh Tân, 1953, tr. 276.
[3] Ðể sản xuất 120 kg than phải cần đến một site gỗ. Năm
1926, Việt Nam sản xuất cả thảy 50 000 tấn than, do đó phải
dùng khoảng 400.000 site gỗ để đốt, tức bằng gần 1/4 sản lượng
củi.
[4] Niên giám thống kê 1999, Hà Nội, Nhà xuất
bản Thống Kê, 2000, tr. 146.
[5] Như trên, tr. 132
[6] Như trên, tr. 132-133.
[7] Chiến Dũng, "Chống gỗ lậu ở Bình Thuận: Cuộc chiến không
cân sức", Lao Ðộng lên mạng ngày 19/4/2002
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Annuaire statistique de l'Indochine 1930-1931,
Hanoï: Imprimerie d'Extrême Orient, 1932.
Bois (Les) et les principaux sous-produits forestiers de
l'Indochine. Exposition coloniale internationale, section de
l'agriculture, de l'élevage et des des forêts, 63p, 1931.
Cadière, L., Croyances et pratiques religieuses des
Vietnamiens, réimpression de l'Ecole Française
d'Extrême-Orient, 3 volumes. EFEO, Paris, 1992.
Ðại
Nam nhất thống chí. Hà Nội: NXB Khoa học Xã
hội, 5 t, 1971.
Ðỗ Ðình Sâm, "Terres à vocation forestière: rapports avec la
couverture forestière", Etudes vietnamiennes, 122, pp.
37-52, 1996.
Guibert, H., "La forêt en Indochine". Bulletin des Amis du
Vieux Huế, 2, pp.101-200, 1941.
Maurand, P., L'Indochine forestière, Hà Nội :
Imprimerie d'Extrême-Orient, 1943.
Nguyễn Tùng, "Les Vietnamiens et le monde surnaturel", trong
Mythes et croyances du monde entier, Paris :
Lidis-Brepols, pp. 249-259, 1985.
Nguyễn Văn Trương, "Les forêts et l'environnement au Vietnam".
Etudes Vietnamiennes, 122, pp. 5-36, 1996.
Lê Ðình Khả, Nguyễn Hoàng Nghĩa, "Conservation des génétiques
forestières". Etudes vietnamiennes, 122, tr. 87-104,
1996.
Phan Văn Ðợt, "Phát huy tiềm năng, thế mạnh của kinh tể rừng
núi đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội miền núi".
Tạp chí Dân tộc học, 1, tr.1-11,
1983.
Niên giám thống
kê 1993, Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê, 1994.
Niên giám thống
kê 1999, Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê, 2000.
THOMAS, F., Histoire du régime et des services forestiers
français en Indochine de 1862 à 1945. Sociologie des sciences
et des pratiques scientifiques coloniales en forêts
tropicales. Hà Nội: Thế Giới, 311 p, 1999.
|