Việt
Nam Môi trường & Sinh thái |
Non
cao tuổi vẫn chưa già
Abstracts
This
paper seeks to present the theory of continental drift and the plate
tectonics, helping to explain the presence of volcanoes, earthquake
and the formation of mountains. The earth‘s lithosphere is broken
into huge fragments, called tectonic plates which are not fixed but
slowing moving on top of the mantle of the earth. They may diverge
on the ocean floor, providing space for hot magma from the interior
of the earth to emerge as lava which solidify when they meet cold
sea water to form mid -ocean ridges. They may collide, with one
plate pushed underneath the other, provoking earthquake and
volcanoes. Plate tectonics help explaining why earthquakes are
present in specific zones, namely along the ring of fire along
Pacific ocean and countries around Mediterranean sea.
1. Tổng quan
Khi nói "non cao tuổi
vẫn chưa già" (Tản Đà) dĩ nhiên là nói tượng trưng, nói theo
nghĩa bóng. Nói theo nghĩa đen và nếu so với tuổi đời người thì các
ngọn núi đều già. Thực vậy, với câu thơ:
Ba
vạn sáu ngàn ngày là mấy
Cuộc phù du trông thấy cũng nực cười
cho thấy đời người nếu
sống đến 100 tuổi thì cũng dài ba vạn sáu ngàn ngày chứ thực ra,
tuổi thọ con người chỉ chừng 75 tuổi với đàn ông và 81 tuổi với đàn
bà. Nguyễn Du há chẳng phảì sử dụng chữ trăm năm nhiều lần trong thi
phẩm bất hủ của cụ :
-Trăm năm trong cõi người ta,
-Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
-Trăm năm đo một tấm lòng từ đây,
-Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay,
-Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương,
-Trăm năm biết có duyên gì hay không
- v.v...
Tuy nhiên trong địa chất học thì đơn vị đo tính tuổi không phải là 1
năm hoặc 100 năm mà là 1 triệu năm (tức là 1 và thêm 6 con 0 nữa !
).
Người ta có một thành ngữ ‘già như Trái Đất’. Thực vậy, từ lúc Big
Bang "Thuở trời đất nổi cơn gió bụi " trái đất già đến 4 tỉ
năm, sinh ra trong những điều kiện thiên nhiên rất khác với ngày
nay, nghĩa là gió bụi mù mịt. Suốt một khoảng thời gian rất dài, với
nhiều đá phun trào từ lòng trái đất, với mưa rơi mưa rơi, bào mòn,
xói lở... Rồi Trái Đất bị ngui lại dần.
Nhiều câu hỏi địa chất
thường nêu ra:
- Vì sao miền Tây nước Mỹ như tại tiou bang Cali bị động đất luôn mà
miền Đông lại không bị ?
- Vì sao các xứ quanh bờ Địa Trung Hải như Ý, Maroc, Turquie, Nam Tư
thường bị động đất mà các xứ Bắc Âu lại không ?
- Vì sao có núi lửa ?
- Vì sao miền Bắc từ Vịnh Hạ Long, Ninh Bình đến Quảng Bình thì rất
nhiều đá vôi mà trong Nam lại ít có đá vôi ?
- Vì sao có vài thực vật rất xưa cùng có mặt cả ở Nam Mỹ lẫn Ấn Độ,
Nam Phi là những nơi rất xa nhau về địa lí ?
- Vì sao trên giãy núi Himalaya lại có vỏ sò ốc bion ?
- Vì sao cấu trúc địa chất ở vùng Tây Phi Châu giống y như cấu trúc
địa chất vài vùng miền Đông Nam Mỹ ?
Vật đổi sao dời : Hôm nay đất liền, ngày mai hải đảo (nói hôm
nay, ngày mai là nói theo thời gian địa chất). Hôm nay còn bion,
ngày mai một hòn đảo do các phun trào từ lòng đất dâng trào lên tạo
nên. Và cứ thế, những chuyện vật đổi sao dời từ hàng trăm triệu năm
nay cứ diễn tiến, ảnh hưởng đến sự tiến hoá của sinh vật, từ động
vật không xương sống tiến lên động vật có xương sống, từ động vật
dưới nước tiến hoá lên động vật lưỡng cư, rồi trên cạn, từ thực vật
sơ đẳng tiến hoá lên thực vật cấp cao, mọc thành rừng dày, ảnh hưởng
đến những vùng có tài nguyên như than đá, dầu hoả, quặng mỏ mà nền
văn minh nhân loại mỗi ngày mỗi cần đến.
Vì lịch sử địa chất xưa
như vậy, nên trong ngành địa chất học, người ta phải chia ra nhiều
thời kỳ khác nhau đo dễ thảo luận (nguyên đại Cổ sinh Paleozoi,
nguyên đại Trung sinh Mesozoi, nguyên đại Tân sinh Cenozoi ), nhưng
các nhà địa chất cũng chỉ biết lịch sử trái đất từ vài trăm triệu
năm trở lại đây mà thôi, do nghiên cứu các hoá thạch và các phương
pháp dùng đồng vị phóng xạ để đo tuổi.
Nhờ các kỹ thuật cổ từ
học (paléomagnétisme), ta được biết "xưa thật là xưa, nhớ mấy cho
vừa", hình hài trái đất ta ở không phải có dạng như bây giờ.
2. Thuyết trôi dạt lục địa của
Wegener
Nhà bác học Đức Wegener
nhận xét cấu tạo địa chất bờ biển phía Đông xứ Bresil ở Nam Mỹ cũng
tương tự như bờ biển phía Tây Phi châu và nếu trên bản đồ, ta ráp
lại hai bờ biển của hai vùng thì hai bờ biển đó dính liền được.
Nhiều thực vật cổ xưa có mặt cùng ỏ Nam Phi, Ấn Độ, Nam Mỹ.
Từ các nhận xét đó,
Wegener lần tìm ra nhiều luận chứng về địa chất, địa hình, thực vật
chứng tỏ xưa kia các lục địa ngày nay riêng rẽ nhưng cách đây 220
triệu năm, Nam Mỹ còn dính với Phi Châu, Bắc Mỹ còn dính với Âu
châu, Ấn Độ ngày nay thì lúc đó còn tận dưới Nam Phi Châu, tất cả
tạo thành một siêu đại lục có tên là Pangea. Dần dà sau đó, cỡ cách
nay 200 triệu năm, Pangea nứt ra thành từng mảng, đầu tiên ra hai
mảng lớn, hai lục địa cổ là Gondwana và Laurasia. Gondwana gồm các
châu Phi, châu Úc, Ấn độ, Nam Mỹ, Nam cực ngày nay còn Laurasia gồm
Bắc Mỹ và lục địa Âu-Á.
Sau đó, quãng cách nay
135 triệu năm, các lục địa trên lại tiếp tục phân rời, nhường chỗ
cho các đại dương: châu Phi và Nam Mỹ tách ra, tạo nên Nam Đại Tây
Dương, còn Laurasia cũng tách ra, tạo thành bắc Đại Tây Dương.
Mảng Ấn Độ đã bắc tiến
trong đêm dài của lịch sử địa chất và chỉ đụng phải với mảng Trung
Hoa cách đây chỉ vài chục triệu năm, và sự đụng chạm giữa hai mảng
này tạo ra giãy núi Himalaya và sự hình thành các rặng núi Miến
điện, rặng núi Trường Sơn Việt Nam, rặng núi Vân Nam.
Lúc đó, có một biển cổ mà
các nhà địa chất gọi tên là Tethys kéo dài từ Âu châu đến Á châu,
phân chia Phi châu với Âu Á, chiếm cái ngày nay gọi là Ấn Độ Dương.
Biển cổ Tethys xưa kia rất lớn, ngày nay còn lại Địa Trung Hải, biển
Caspian, Hồng Hải, Hắc Hải mà thôi.
Đó là lề thuyết về sự
trôi dạt lục địa (dérive des continents).
Luận thuyết này gây nhiều
tranh cãi cho đến mãi thập niên 70, học thuyết mảng kiến tạo (plate
tectonics) ra đời, giải thích được nhiều hiện tượng như sự thành lập
các giãy núi, các động đất, các núi lửa cũng như sự hiện diện các
đảo san hô và đất đỏ miền lạnh, các dấu vết băng hà ở sa mạc Sahara.
Tuy nhiên, trước khi đi
vào học thuyết mảng kiến tạo, ta hãy tìm hiểu cấu trúc Trái Đất.
3. Cấu trúc Trái Đất
Tưởng tượng một trái cam
tròn hơi nhăn nheo đo trên bàn; Trái đất cũng như trái cam vừa nói
vì gồm 3 phần:
3.1 Lớp vỏ ngoài cùng
(crust) này rất cứng, có độ dày từ 5 đến 10km dưới đáy biển mà
ta gọi là vỏ đại dương (croute océanique) và từ 32 đến 70km trên mặt
đất, gọi là vỏ lục địa (croute continentale). Nghe tưởng là dầy lắm
nhưng so với kích thước trái dất thì nó mỏng manh không hơn gì vỏ
trái cam: đó là thạch quyon (lithosphère). Thạch quyon không phải là
một khối liên tục mà bị nứt rạn, chia ra nhiều mảng khổng lồ (plate)
dính sát gần nhau, cũng như trái cam có nhiều múi.
3.2 Bên dưới lớp vỏ
này là lớp vỏ trong, gọi là manti (Mantle), dày từ 70 đến
2700km, ở trên cùng lớp manti đó có một lớp nhờn hơn, dẽo hơn gọi là
nhu quyon (asthénosphère). Manti bị nung chảy ở thể lỏng gọi là
magma. Nguyên do chủ yếu làm cho magma có lối thoát trên bề mặt quả
đất là sự dịch chuyển của lớp vỏ ngoài cùng trái đất (crust).
3.3 Rồi trong cùng là
một nhân (noyau), nhiệt độ lên hàng ngàn độ.
Các đường nhăn nheo trên
vỏ cam là các giãy núi ; các mụn đen trên vỏ cam là các núi lửa.
Lửa, hơi nóng và vật chất dưới lòng đất có thể phun lên cao nếu cấu
trúc dưới lòng đất nơi đó thuận tiện để nó len lỏi đi lên. Vật chất
phun lên từ núi lửa một phần là chất lỏng, một phần chất rắn và một
phần là khí, tất cả đó được gọi là dung nham (magma). Dung nham gồm
những đá núi lửa bazan lần theo những khe nứt dẫn lên trên đất liền
hay miệng núi tìm đường phun trào ra ngoài, chảy tràn lan như một
dòng "suối lửa".
4. Thuyết mảng
kiến tạo
Trong khoa học về Trái
Đất, người ta đưa ra một lý thuyết giải thích sự hình thành đại
dương và lục địa, gọi là thuyết kiến tạo mảng.
Xưa kia, ta cứ nghĩ là trái đất bất động, vỏ đại dương dưới biển sâu
cũng bất động và chỉ là nơi hứng mọi chất lấy từ các lục địa. Ngày
nay, nhờ các thám hiểm sâu dưới lòng đại dương, sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, con người hiểu thêm bí ẩn của đáy biển: người ta
nhận thấy giữa đáy đại dương có những giãy núi ngầm rất dài: giãy
núi chạy dài từ Bắc xuống Nam giữa Đại Tây Dương, giãy núi xuyên Ấn
Độ Dương, giữa Nam Băng Dương và Úc Châu, giãy núi ven bờ Thái Bình
Dương v.v...
Trên các giãy núi ngầm
này có những đường nứt nẻ do các dung nham bazan từ sâu trong lòng
đất nóng bỏng bị phun trào ra. Các phun trào khi lên đến mặt biển bị
ngui dần lại và tràn sang hai bên để tạo chỗ cho các phun trào bazan
tiếp nối phun lên, lâu dần tạo thành các giãy núi giữa đại dương;
nói khác đi, vỏ đại dương phải có tuổi đời trẻ nhất ở các giãy núi
giữa đại dương vì các đá bazan từ lòng đất mới phun ra, còn ra càng
xa giãy núi này, tuổi của đá càng già cỗi hơn.
Và
mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, dòng bazan cứ trào sang hai bên miệng
núi, lan dần và khi các vật liệu bazan này di chuyển đến rìa lục địa
thì sẽ bị cuốn hút trong các máng biển sâu thẳm (fosse océanique) để
lại trở về lòng đất ! Có những máng biển sâu trong lòng đại dương
như máng Mariannes ngoài khơi Phi Luật Tân, máng Aleoutienne ngoài
khơi Alaska v.v...
Như vậy đáy đại dương
luôn luôn ở trạng thái động và di chuyển chậm chạp, cứ chừng vài cm
mỗi năm, làm các lục địa cũng phải di chuyển theo như tấm thảm lăn
(tapis roulant) ta thường đi lên xuống metro mỗi ngày.
Nói khác đi, trong thuyết
mảng kiến tạo thì không phải lục địa di chuyển như theo thuyết của
Wegener mà chính là đáy đại dương di chuyển nên kéo theo lục địa.
Thên thảm lăn, ta chỉ đứng yên trong khi tấm thảm di chuyển.! Trái
đất nổi trôi trên những mảng kiến tạo (plate) tức những thảm lăn.
Những giãy núi giữa đại
dương đã chia bề mặt rắn chắc qủa đất thành nhiều mảng (plate,
plaque) không bằng nhau. Có chừng 15 mảng lớn nhỏ.
Các mảng lớn phải kể: mảng Âu Á, mảng Thái Bình Dương, mảng Phi
châu, mảng Bắc Mỹ, mảng Úc châu, mảng Ấn độ và mảng Nam băng dương
Các mảng nhỏ như các mảng
Caraibes, mảng Arabi, mảng Cocos ở ngoài khơi bờ bion phía Tây Trung
Mỹ, Nazca ngoài khơi rặng núi Andes Nam Mỹ, Juan de Fuca gần bờ bion
bắc Cali v.v...
Có mảng chỉ gồm có vỏ đại
dương (oceanic crust, croute océanique) như mảng Thái Bình Dương, có
mảng vừa có vỏ đại dương, vừa có vỏ lục địa (continental crust,
croute continentale) như mảng Âu Á, mảng Mỹ Châu, mảng Phi Châu,
mảng Úc Châu.
Các mảng này dày gần cả
trăm km., nằm dưới vỏ trái đất. Các mảng này lại nổi trôi trên nhu
quyển (asthénosphère) tức quyển mềm nằm dưới thạch quyển
(lithosphère). Lớp nhu quyển này mềm, dễ uốn, dễ bị biến dạng. Chính
lớp nhu quyển này cõng lớp thạch quyển cùng 5 lục địa trên lưng của
nó. Và chính vì các mảng di chuyển nên các lục địa cũng di chuyển
theo như tấm thảm lăn.
5. Sự chuyển động của các mảng kiến
tạo.
Như trên vừa trình bày,
các lục địa không đứng yên mà dịch chuyển trên nhu quyển
(asthenosphere) nằm ở độ sâu 30-70km dưới mặt đất. Tương tự như khi
nấu nước có đậy vung, nước sôi sẽ bốc hơi lên trên mặt vung nồi, có
khi làm mặt vung rung chuyển và lại trở về xuống dưới thì các dòng
đối lưu nhiệt (courant de convection) trong lòng trái dất tạo ra
năng lượng lớn làm cho các mảng di chuyển. Các lục địa cũng như đại
dương đều di chuyển không ngừng, tuy các chuyển động ấy rất chậm,
nếu tính theo tuổi đời con người: 10km mỗi một triệu năm, nhưng với
thời gian địa chất thì trái đất di chuyển nhanh lắm. Đã có tiên đoán
là Úc Châu sẽ dính liền với Indonesia trong vài chục triệu năm cũng
như Đông Phi sẽ tách ra khỏi lục địa Phi Châu: nhiều xứ Đông Phi như
Rwanda, Uganda, Kenya trên thực tế đã có nhiều hồ rất lớn ngăn cách
với các xứ lân cận!.
Như vậy, các lục địa có
thể ví như những chiếc bè đang trôi dạt cực kỳ chậm chạp trên quả
địa cầu. Qua các sự chuyển động này của các mảng, gây ra bởi các
chuyển động chậm chạp của magma mà tạo ra các đại dương (2 mảng rời
nhau) và xuất hiện các rặng núi (2 mảng chạm nhau).
Như vậy, vỏ trái đất giãn
ra chỗ này thì phải co rút chỗ kia, chui xuống lại các hố sâu đại
dương nên cuối cùng khối lượng trái đất vẫn giữ nguyên. Hoạt động
các mảng kiến tạo thường diễn ra ở các mặt tiếp giáp như sau:
5.1- Khi các mảng kiến tạo rời xa nhau (divergent boundary)
sẽ tạo ra khe nứt nên dung nham bazan dưới lòng đất trào phun lên,
tạo ra các giãy núi ngầm dưới đại dương (ocean ridge, dorsale
océanique), với những núi lửa dưới biển hoặc trên cạn như tại xứ
Islande. Xứ Islande này là xứ do toàn núi lửa tạo nên và giãy núi
đại dương ở đây lại nổi lên mặt đất. Ranh giới giữa hai mảng xa rời
nhau ra gọi là ranh giới xây dựng vì tại đây luôn tạo ra vỏ mới ở
các giãy núi giữa đại dương.
Dãy núi ngầm giữa Đại Tây
Dương càng ngày bị tách ra và do đó châu Âu và châu Mỹ càng ngày
càng cách xa nhau.
5.2- Khi 2 mảng đều cùng là mảng lục địa mà chạm nhau
(collisionnal boundary) thì chúng sẽ nén vào nhau và nâng lên
cao tạo ra các rặng núi, tương tự như khi hai xe hơi đụng đầu vào
nhau thì sườn xe bị méo mó.
Vài ví dụ :
-
giãy núi Himalaya là do
mảng Án Độ đụng đầu vào mảng Âu Á chỉ cách đây quãng 50 triệu năm;
do đó tuy rất cao và còn tiếp tục cao lên nữa nhưng tuổi địa chất
còn rất trẻ :
Non cao, tuổi vẫn chưa già,
Non thì nhớ nước, nưóc thì quên non
-
giãy núi Alpes khi mảng
Phi Châu chạm vào phía nam mảng Âu Á
-
giãy núi Appalaches khi
mảng Đại Tây Dương nén vào mảng Bắc Mỹ.
5.3- khi 2 mảng đều
cùng là mảng đại dương mà chạm nhau (convergent boundary) (ví
dụ: mảng Thái Bình Dương) đụng phải phần đại dương của mảng Âu Á,
mảng Thái Bình Dương đụng phải mảng Phi Luật Tân) hoặc khi một mảng
đại dương chạm phải một mảng lục địa (ví dụ mảng Thái Bình Dương
đụng phải mảng lục địa của Nam Mỹ, mảng đại dương Juan de Fuca đụng
phải mảng lục địa Bắc Mỹ) thì đáy đại dương sẽ chui xuống mảng lục
địa vì nặng hơn và tạo ra mt vùng hút chìm (zone de subduction). Cái
mảng bị chui xuống đó sẽ bị lớp nhu quyển của Trái Đất nuốt tiêu đi
tạo ra các phun trào bazan lên mặt đất, tạo ra núi lửa.
Do đó có một đai dài núi
lửa tạo thành vòng cung quanh Thái Bình Dương, từ Nam Mỹ (Chili,
Pérou) đến Bắc Mỹ (núi St Helens), qua đến Nhật, Phi Luật Tân...
Chính tại các vùng hút chìm mới xảy thường xuyên các trận động đất.
như Cali, Nhật v.v... Các trận động đất ở Guatemala, Mexico,
Honduras cũng là do mảng Caraibes đụng phải mảng Nam Mỹ.
Ranh giới giữa các mảng
đụng phải nhau gọi là ranh giới hủy hoại vì tại nơi đây vỏ Trái Đất
bị tiêu hủy đi tại vùng hút chìm.
5.4- Có thể hai mảng
trượt bên cạnh nhau, cọ xát vào nhau. Đây gọi là ranh giới truợt
bằng biến dạng (transform boundary); ranh giới này không huỷ hoại
cũng như không tạo ra vỏ mới. Ngưòi ta thường lấy ví dụ đứt gãy
(fault, faille tiếng Pháp) San Andreas ở tiểu bang Cali làm ví dụ
điển hình về loại tiếp giáp trượt bằng : phía Tây đứt gãy này là
mảng Thái Bình Dương di chuyển về Tây Bắc còn phía Đông của đứt gãy
là mảng Bắc Mỹ di chuyển về Đông Nam. Thành phố Los Angeles nằm trên
mảng Thái Bình Dương hiện nay cách San Francisco hàng trăm cây số về
phía nam nhưng vì mảng di chuyển nên 16 triệu năm nữa sẽ ở phía bắc
San Francisco !
6.Các hậu qủa của sự chuyển động các
mảng kiến tạo: Động đất, núi lửa
Sự di chuyển khi tách
rời, khi đụng nhau của các mảng kiến tạo mới tạo ra các động đất,
núi lửa, sóng thần. Hai mảng kiến tạo rời nhau ra, tạo cơ hội cho sự
hình thành các giãy núi lửa ở đáy đại dương và có thể tạo ra những
cù lao hay đảo mới; hai mảng kiến tạo lục địa chạm nhau tạo ra giãy
núi. Với thời gian, núi bị san bằng, thung lũng có thể nâng lên
thành núi, thay đổi bộ mặt của trái đất.
6.1.Động đất Khi
có sự dịch chuyển của hai mảng kiến tạo, ranh giới tiếp xúc của hai
mảng trượt chạm nhau nên phát sinh ra động đất.
Động đất thường quanh quẩn nhiều nhất ở hai vành đai sau đây:
- vành đai Thái Bình Dương kéo dài từ Nam Mỹ đến Bắc Mỹ (như Cali)
vòng qua Alaska xuống Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân và xuống
Indonesia
- vành đai các xứ quanh bờ Địa Trung Hải đến Trung Đông (Iran,
Afghanistan), Tây Tạng.
Khi hai mảng chạm nhau sẽ
phát sinh ra năng lượng động đất. Năng lượng này truyền đi ở dạng
sóng gọi là sóng động đất (seismic wawe) làm các vật bị lắc lư, rung
chuyển.Các sóng động đất được ghi lại bằng máy địa chấn
(seismograph). Cường độ rung động đuợc tính theo thang Richter.
Cường độ Richter vì tính theo logarit thập phân nên cường độ 6 mạnh
gấp 10 lần cường độ 5 hoặc gấp 100 lần cường độ 4 v.v... như vậy
trên 6 có tho xem là mạnh.
Việt Nam cũng có những
trận động đất liên quan đến các đứt gãy (faille) địa chất như đứt
gãy Sông Hồng, đứt gãy sông Cả, đứt gãy sông Đà.
Các sóng động đất, -còn gọi là các sóng địa chấn-, thường có 3 loại:
- Sóng P (Primary) phát sinh đầu tiên, truyền trực tiếp từ
tâm động đất theo chiều thẳng đứng, có khả năng đi qua các vật liệu,
làm mặt đất bị xô đẩy nhấp nhô (Push-Pull) và tạo nên âm thanh ì ầm
thường được các động vật nhạy cảm khiến voi giựt khỏi giây xích, gà,
chó có dấu sợ hãi, hoảng hốt và càng gần thời điểm bùng phát động
đất thì độ hoảng hốt càng gia tăng.
- Sóng S (Secondary), xuất phát chậm hơn sóng P đôi chút và
di chuyển ngang, làm các vật trên bề mặt bị lắc lư (Side to Side),
con người cảm thấy tự nhiên choáng váng, nước trong hồ bơi lắc lư
như con tàu say sóng. Chính sóng này gây tai hại nhiều nhất: nhà
rung, cầu sập, người chết.
- Sóng L là sóng lan truyền trên bề mặt (lateral) như khi mặt
nước hồ đang tĩnh lặng, có một viên sỏi ném xuống mặt hồ thì có
nhiều lan truyền. Đây chính là làn sóng gây ra sóng thần khi có động
đất mạnh ở biển; làn sóng này tiến lan gặp nhiều xứ ở quanh Ấn độ
dương cuối năm 2004, gây tai ương mất tích hàng trăm ngàn người ở
các xứ Sri Lanka, Ấn độ, Indonesia, Thái Lan... Sóng L có diện tích
lan truyền lớn nên có tên là Large wave..
6.2. Đõng đất mạnh
ngoài biển kéo theo sóng thần. Do sự lan truyền các sóng chấn
động do động đất ở biển nên kéo theo sóng thần. Ngày 26 tháng 12 năm
2004, động đất có tâm chấn nằm ngoài khơi đảo Sumatra khoảng 160 km
với cường độ theo thang Richter lên đến 9. Vùng này là nơi tiếp giáp
của hai mảng kiến tạo lớn, tức mảng Ấn-Úc chạm vào mảng kiến tạo
Indonesia (một phần của mảng kiến tạo Âu Á ) hai mảng này cọ sát
mạnh, mảng Ấn Độ chìm hút dưới mảng kiến tạo Indonesia, gây động đất
mạnh, sâu dưới lòng đại dương. Động đất xảy ra dưới biển ở cách sâu
đáy biển chừng 10km khiến đáy biển sinh ra các đứt gãy (faille), ép
lượng nước khổng lồ phun lên tại các vùng hút chìm (subduction), và
từ trung tâm chỗ động đất dưới biển sẽ tạo ra những đợt sóng cao,
gọi là sóng thần, truyền đi cả ngàn cây số và với vận tốc hàng trăm
km mỗi giờ, tàn phá các bờ biển phía đông Sri Lanka, phía đông Ấn
Độ, nam Thái Lan, Miến Điện... Khi sóng thần tiến vào bờ, tạo thành
một dòng ngầm cực mạnh, khiến cho nước ven bờ rút vào khoảng 25 phút
trước khi sóng ào tới. Nước rút nhanh bất thường và rời xa bờ khá xa
là dấu hiệu của sóng thần sắp tấn công. Sóng thần di chuyển dưới
biển sâu nhưng khi gần bờ biển cạn hơn, bờ tạo thành vật cản nên
khối nước khổng lồ bị trồi lên khỏi mặt nước mỗi lúc một cao vì khi
làn sóng trước chậm lại thì nước đàng sau tụ lại, tạo thành làn sóng
có thể cao bằng cao ốc 10 tầng. Vùng Thái Bình Dương thường xuyên
xảy ra sóng thần nên Mỹ có xây dựng hệ thống báo động sóng thần
(Seismic seawawe warning system SSWS) đặt rải rác nhiều nơi trên
biển. Nạn sóng thần không những gây tang tóc cho hàng trăm ngàn
người mà còn huỷ hoại luôn môi trường sống. Thực vậy, ruộng lúa,
vườn tược đều bị nhiễm mặn khi nước biển tràn vào nên phải chờ nhiều
năm chất mặn trôi đi mới trồng tỉa lại được
6.3 Núi lửa Như
trên vừa trình bày, giữa đáy đại dương có nhiều rặng núi lửa do đá
bazan nóng chảy từ lòng đất phun ra và sự phun trào ra hai bên chỗ
nứt tạo ra các mảng kiến tạo. Ngoài ra cũng có một loại núi lửa khác
do sự va chạm của các mảng đại dương và mảng lục địa. Trong trường
hợp này, đá phun trào thường là loại andesit (do chữ Andes, giãy núi
ở Nam Mỹ ).
Núi lữa gặp nhiều tại:
- vòng đai Thái Bình Dương, tạo thành một cánh cung chạy dài từ bờ
Đông Châu Á (Nhật, Philippine, Indonesia) cho đến rìa phía Tây châu
Mỹ (như núi Saint Helen). Ở Việt Nam, cách nay khoảng 1 triệu năm,
núi lửa phun trào đã phát triển nhiều ở Pleiku, Darlac, Lâm Đồng,
Long Khánh tạo nhiều vùng đất đỏ bazan rất phì nhiêu.
- vòng đai Địa Trung Hải, chỗ tiếp xúc giữa mảng kiến tạo Phi Châu
với mảng Âu Á như các núi lửa Vesuve, Etna v.v. Núi lửa Vesuve đã
phá hủy chôn vùi thành phố Pompei ở Nam Ý.
Trên thế giới có khoảng
500 núi lửa hoạt động, tập hợp thành các đai núi lửa, thường đi cùng
với các đai động đất. Thực vậy, hai hiện tượng này đi liền nhau theo
thuyết mảng kiến tạo. Vành đai động đất quanh bờ Thái Bình Dương,
ven bờ Địa Trung Hải cũng là vành đai núi lửa !
Có nhiều loại núi lửa:
núi lửa phun nổ (explosive) và núi lửa chảy tràn (effusive)
Núi lửa khi phun nổ sẽ phóng lên không trung bụi, tro, khí, gây biến
động thời tiết và gió có thể thổi đi xa; bầu trời bị tối đen, gây
ảnh hưởng đến môi trường. Năm 1982, núi lửa ở El Chichón, Mễ Tây Cơ
phun lên không trung bụi giàu chất sunfua rồi gió cuốn tung bay khắp
thế giới cũng như hoạt động núi lửa ở Pinatubo ở Phi Luật Tân năm
1991.
Núi lửa khi chảy tràn thì
tuôn ra mặt đất dòng chảy lửa nóng bỏng nên phá vỡ mọi vật trên
đường di chuyẻn; khi ngui lại thì bị đông cứng, đất như béton rắn
chắc không trồng trọt được. Tuy nhiên vài ngàn năm sau đó, các tảng
đá núi lửa sẽ bị phong hoá tạo ra nhiều vùng đất đỏ màu mỡ như ở Cao
nguyên Pleiku, Lâm Đồng, Gia Kiệm... Cũng có thể các dung nham khi
chảy làm bít kín các thung lũng nên gây lũ lụt vùng thượng nguồn.
7. Kết luận.
Xưa kia, người ta xem các
tai biến tự nhiên như những phẫn nộ của Thượng Đế : người Hi Lạp cổ
cho rằng sóng thần do thần bion Poseidon; người các hải đảo Thái
Bình Dương cho rằng nữ thần Pele khi giận lên làm cho núi lửa phun
nổ. Nhà văn hào Voltaire (1694-1778), trong sách mang tên Candide,
có viết về trận động đất tàn phá thành phố Lisbonne ở Portugal năm
1755, cho rằng Thượng Đế trừng phạt thành phố về sự chơi bời trác
táng. Văn hoá Việt cổ cho rằng con cóc là cậu ông trời, ai mà đánh
nó thì Trời đánh cho v.v...
Ngày nay, nhờ thuyết mảng
kiến tạo, con người hiểu được các bí mật của vũ trụ, cơ chế của các
tai biến tự nhiên như do các năng lượng khổng lồ từ lòng đất đã tạo
nên những núi lửa, động đất, sóng thần, sự thành lập các rặng núi
v.v... Tri thức luận (épistémologie) đã thay đổi. Trái Đất là một hệ
thống động, thay đổi không ngừng, có tương quan nhiều chiều giữa di
chuyển các mảng đến núi lửa, động đất, hình thành non cao, biển thẳm
và ảnh hưởng không riêng gì xứ bị tai nạn mà còn lan ra khu vực.
Tuy từ nay hiểu được cơ
chế của động đất núi lửa nhưng con ngưỡi vẫn chưa tiên đoán thời
điểm chính xác của sự xuất hiện một trận động đất như chẳng hạn trận
động đất dưới biển ngoài khơi Sumatra cuối năm 2004. Nhưng một khi
hiểu được nguyên nhân, con người sẽ tìm cách quy hoạch được cách xây
dựng nhà cửa, cầu đường một cách an toàn hơn như ở Nhật, Đài Loan,
các công trình cao ốc được thiết kế với các kỹ thuật hiện đại hơn.
Chỉ ước mong khoa học kỹ thuật ngày nay dần dà khống chế được hoặc
ít nhất tiên đoán được do phòng ngừa, giảm tổn thất sinh mạng.
|