ĐẠO PHẬT
ỨNG DỤNG |
Pháp đàm |
Chia sẻ... |
Đức Phật chưa từng nhập diệt
Điện Đức
Bổn Sư, nơi Diệu Liên lễ lạy mỗi đêm
Chư
Tăng thường trú tại BĐĐT
Chuẩn
bị cho lễ Tripitaka
Cầu
nguyện trước khi cúng dường
Lều của
Diệu Liên và Diệu Thuận |
Thăm xứ Ấn
Sau khi hoàn tất một số công việc từ thiện ở Biển Hồ, tôi giã từ
Cam-Pu-Chia để chuẩn bị vào Ấn Độ. Vừa rời phi trường chuyển tiếp
Thái Lan được một ngày thì phi trường bị đoàn biểu tình làm tê liệt.
May quá, nếu không có lẽ tôi sẽ phải ở lại đây một thời gian khá
lâu. Lần đầu tiên đến chiêm bái xứ Phật, không một người quen, tôi
may mắn được thầy Tánh Tuệ và sư cô Liên Thật ra đón tận phi trường.
Vùng nầy thuộc tỉnh Gaya, nơi có những thánh tích Phật giáo như Bồ
Đề Đạo Tràng, Khổ Hạnh Lâm, sông Ni Liên Thuyền …. Mục đích của
chuyến đi nầy là xem lại những công việc từ thiện của “Mắt
Thương Nhìn Cuộc Đời” đã làm trong những năm qua, tìm hiểu để
làm thêm những công việc mới, mong giúp một chút cho Đạo và chia xẻ
khó khăn với những người dân giai cấp cùng đinh.
Có lẽ vì là vùng đất Thánh, nên mọi kế hoạch từ thiện của tôi tại
đây đã biến thành các Phật sự mầu nhiệm. Việc đầu tiên là tôi quyết
định không ở khách sạn, xin về lưu trú tại một ngôi chùa Việt Nam có
thời khóa tu học: tụng kinh lúc 4 giờ sáng, 5 giờ nghe thuyết pháp
và 6 giờ ăn điểm tâm. Chùa đang xây dựng nên chưa có phòng cho Phật
tử vãng lai. Chùa được dựng tạm lên bằng những tấm tolle, vách hở
nên gió và bụi bay vào, nằm bên cạnh đồng ruộng nên có nhiều chuột.
Những con mèo hoang trong làng vào chùa rượt chuột chạy rầm rầm cả
đêm. Mặc dù là tuổi chuột nhưng tôi rất sợ Chuột. Ngày đầu khi về
phòng, tôi co chân ngồi trên giường và bỏ mùng xuống để các “cô”,
“chú” ham rượt nhau không tông vào tôi. Những lúc như vậy thì tôi
trì chú Đại Bi, khi tâm dịu xuống thì tôi ngồi yên theo dõi hơi thở.
Tôi quán tưởng hình ảnh ngày xưa thái tử Tất Đạt Đa rời bỏ cung điện
vào rừng lang thang một mình, sống hòa đồng với thú dữ, chịu cảnh
màn trời chiếu đất, rừng sâu nước độc. Hình ảnh con đường tìm đạo
2.500 năm về trước của đức Phật với nhiều chông gai và thử thách
giúp tôi vượt qua được khổ thọ khi phải sống chung với mấy chú Chuột
trong chùa. Và hình như các Chú các Cô cũng cảm được cái “oán tắng
hội khổ” nên chỉ ba ngày sau, các chú mèo và chuột, rút hết ra khỏi
phòng, qua tạm cư ở những căn nhà kho không có người xử dụng.
Tôi còn nhớ vào năm 1997, cũng nhờ quán tưởng cuộc đời tu hành của
vua Trần Nhân Tông mà tôi đã leo lên được đỉnh núi Yên Tử. Lúc đó
đường lên núi chưa có dây cáp, chồng tôi và tôi được Ni sư Như Minh
cho đi tham quan núi Yên Tử. Khi leo lên giữa núi, nhìn thấy bên
trái vách núi cao chọc trời, bên phải thì vực sâu thăm thẳm. Tôi tự
trách mình sao lại tìm đến những nơi nguy hiểm, lỡ trượt chân mất
mạng thì thật là khờ khạo biết bao. Để trấn an tâm sợ hãi và những
suy nghĩ dại dột, tôi mang hình ảnh vua Trần Nhân Tông ngày xưa một
mình lên núi ra để giúp tôi có thêm năng lực tiếp tục lên đường.
Khi tôi bước trên rễ lớn của những cây thông bắt ngang làm thành bậc
đi lên, tôi nghe kể lại rằng, những hàng thông nầy là do Vua Trần
Nhân Tông trồng trong thời gian ở đây, tôi bắt đầu bước những bước
chân vững chãi hơn, ý thức rõ con đường với những kỷ niệm của người
xưa để lại. Những bước chân của tôi hôm nay có lẽ đã dẫm lên những
bước chân của Ngài hơn 700 năm về trước. Bao nỗi sợ hãi trong lòng
tan biến, tôi không còn bị ảnh hưởng của địa thế núi rừng hiểm trở,
mà chỉ còn lại ý thức của mỗi bước chân đi và hình ảnh tuyệt vời của
một lão tăng, đầy dũng khí.
Trở lại câu chuyện Xứ Phật, sau khi được thoải mái vì không phải
sống chung với các chú Chuột, tôi đối đầu với thức ăn khó nuốt. Thức
ăn khô trong chùa được quý Phật tử Việt Nam cúng dường mang theo
trong các chuyến hành hương. Nhiều lần họ đem được vào Ấn Độ rồi nhờ
người chuyển về chùa, vì vậy có những thức ăn khô 2 năm sau mới đến
được chùa. Những gói mì ăn liền bị bể vụn do di chuyển qua nhiều
nơi, những lần vo gạo và nếp tôi thấy nhiều hạt nổi lên vì mọt ăn
rỗng ruột. Ngôi chùa nầy thuộc hệ phái Khất sĩ, nên mỗi ngày chỉ ăn
hai bữa: sáng và trưa, trước giờ ngọ. Khi món ăn được lập đi lập lại
mỗi ngày làm tôi bắt đầu khó nuốt, nhưng nghĩ đến sức khỏe và thời
tiết khắc nghiệt mùa Đông xứ Ấn, tôi phải nghĩ ra cách đưa thức ăn
vào cơ thể. Bài pháp ăn trong chánh niệm của Sư ông Làng Mai đến
ngay với tôi để cứu vãn tình huống. Tôi nhớ lại, trong khóa tu mùa
Đông năm 1993, trong giờ ăn sáng Sư ông dạy mọi người nhai mẩu bánh
mì ít nhất là 50 lần và chỉ nhai bánh mì thôi, vào giờ trưa Sư ông
lại nhắc nhở rằng mỗi miếng thức ăn đưa vào miệng chúng ta nhai ít
nhất là 80 lần, chúng ta đếm từng lần nhai với ý thức rõ ràng, nương
theo hơi thở nương theo số đếm, và chỉ nhai thức ăn mà thôi, không
nhai bất cứ cái gì khác. Khi cắn phải miếng đậu que thì ta biết ta
đang cắn miếng đậu que, không cắn những nỗi buồn, cơn giận, những dự
án ... Nhớ lại những lời sư ông dạy tôi đã nhai từng lát bột mì hấp
và ý thức là mình đang nhai lát bánh mì hấp cho đến lúc bánh mì dẻo
ra thành nước hòa lẫn với nước bọt mới nuốt xuống, không nhai miếng
bánh mì dở hay ngon. Sau lần thành công nhai được thức ăn trên 80
lần và nếm được hương vị ngọt lịm của miếng bánh mì hấp mà đáng ra
rất nhạt nhẽo; tôi đã tin cách ăn trong chánh niệm, giờ ăn lúc đó
không còn khó chịu nữa mà là giây phút thú vị của sự thực tập thiền
quán.
Hàng ngày, sau giờ ăn sáng tôi cùng thầy Tánh Tuệ và sư cô Liên Thật
vào các làng nghèo để kiểm tra lại các công tác từ thiện đã làm, và
tiếp tục làm thêm những công việc mới, tôi học hỏi được nhiều từ chư
Tăng Ni về kinh nghiệm từ thiện trên đất Ấn. Tôi trở về trước 11 giờ
trưa để kịp dùng cơm, rồi đến giờ nghĩ và xế chiều tôi và chị Diệu
Thuận đi bộ ra Bồ Đề Đạo Tràng hay các chùa Việt Nam lân cận để tụng
kinh chiều, ngôi chùa tôi tạm trú đi bộ đến Bồ Đề Đạo Tràng mất
khoảng 20 phút.
Đức Phật Chưa Từng Nhập Diệt
Những sợi nắng thưa dần nhường chỗ cho bóng chiều buông xuống, tôi
đi vào bên trong Bồ Đề Đạo Tràng (BĐĐT) hoà nhập với tăng đoàn tu sĩ
và cư sĩ từ nhiều quốc gia quy tụ về đây. Đúng là thế giới Cực Lạc.
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an
lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót
chân tôi bước, lòng tôi tràn ngập niềm hạnh phúc khó tả. Thoáng nhẹ
trong không gian thênh thang tôi như thấy linh ảnh Đức Phật đang
đứng ở dưới gốc cây Bồ Đề cuối bức tường, Ngài với nụ cười nhẹ và
đôi mắt từ bi nhìn tôi khích lệ. Đó không phải là mơ, không phải là
sự tưởng tượng, mà là một cái cảm thọ của sự tiếp xúc chân thật phát
khởi từ tâm thể trong sáng. Không phải một lần mà xảy ra vài lần
trong thời gian tôi tu tập tại BĐĐT. Chỉ có những lúc tôi có sự an
lạc trọn vẹn và tỉnh thức tròn đầy thì tôi mới tiếp xúc được cảm
nhận mầu nhiệm đó. Tôi tin chắc rằng “Đức Phật Chưa Từng Nhập Diệt”,
Pháp Thân ngài tỏa sáng khắp mọi nơi, trong bước chân tĩnh lặng tôi
thấy rõ tâm thể của một người tỉnh thức; tôi đã nói câu này nhiều
lần với chồng tôi trong thời gian tôi sống tại đây. Đức Thế Tôn muốn
những đứa con Ngài tự thắp đuốc lên mà đi nên Ngài đã thị hiện Niết
Bàn, ngài mãi mãi ở khắp nơi, ngài chưa từng rời xa cội Bồ Đề, chưa
từng rời xa Khổ Hạnh Lâm, chưa từng rời xa dòng sông Ni Liên Thuyền.
Chỉ cần chúng ta có sự tỉnh thức trọn vẹn thì chúng ta có thể tiếp
xúc được với Ngài ngay trong từng bước chân.
Bồ Đề Đạo Tràng
BĐĐT mở cửa từ 4 sáng đến 9 giờ tối, lúc nào cũng tấp nập khách hành
hương và tín đồ Phật giáo. Có rất nhiều tu sĩ Tây Tạng về đây tu
học, những chiếc áo màu hỏa hoàng của quý sư chiếm đến 80% bên ngoài
và trong BĐĐT. Các thánh tích Phật giáo tại vùng Gaya thường có
những ngôi chùa Tây Tạng xây bên cạnh, những vị tu sĩ Tây Tạng sống
trong các chùa nầy vừa chuyên hành trì, vừa lo chăm sóc thánh tích.
Phật giáo Ấn Độ nếu không có hình bóng và sự đóng góp của Phật giáo
Tây Tạng thì e rằng sẽ rất nghèo nàn và buồn tẻ. Trong cái khổ nạn
mà Phật Giáo Tây Tạng phải gánh chịu trong 50 năm qua, lại sinh ra
được cái huy hoàng của nó, đó là sự chấn hưng và phát triển Phật
Giáo trên đất nước Ấn vốn đã tàn rụi từ lâu.
Vào những tháng mùa Đông, khí trời chuyển lạnh đẩy lui sức nóng khắc
nghiệt, hàng đoàn tu sĩ tụ về BĐĐT để hạ thủ công phu. Hàng ngày có
hàng ngàn khách hành hương có mặt bên trong BĐĐT. Trong số đó có
khoảng 300 đến 400 người được gọi là tu học thường trú, tu sĩ Tây
Tạng chiếm đến 90%, thời khóa mỗi ngày từ 5 giờ sáng đến 9 giờ tối,
kéo dài từ 1 đến 3 tháng. Mỗi người chọn cho mình một pháp môn tu:
trì chú, trì kinh, lễ lạy, thanh tịnh thân và tâm (purify body and
mind), thiền định…. Ví như trăm dòng sông cùng đổ về biển cả, hàng
trăm người an tĩnh hết lòng thực hành pháp môn của mình, năng lượng
tu học hòa điệu trong không gian, không còn một sự ngăn ngại nào
ngoài sự thanh tịnh tỏa rộng, thấm vào từng tế bào của cỏ cây, đất
đá và hành giả.
Để tỏ lòng hỗ trợ sự tu trì của quý thầy, cô và đại chúng, thầy
Thích Tánh Tuệ, sư cô Liên Thật và “MTNCD” đã cúng dường tịnh tài
đến 375 vị tu sĩ thường trú. Trước giờ cúng dường, chúng tôi đứng
trước linh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện, niệm chú Đại Bi,
tụng kinh Phổ Môn. Vì có một quá trình vào ra BĐĐT mỗi ngày nên thầy
Tánh Tuệ biết vị tu sĩ nào là tu sĩ thường trú để cúng dường. Tôi lễ
lạy một cách thành kính từng vị trước khi dâng phong bì cúng dường.
Thầy Tánh Tuệ đi theo hướng dẫn để tôi không bị sót vị nào. Hai chân
tôi có lúc không còn có thể đứng lên lạy xuống, tôi quay về theo dõi
hơi thở, đưa hơi thở vào ra trong mỗi hành động, khi hơi thở và hành
động được hoà hợp với nhau thì tôi chỉ còn một việc là nhiếp hết tâm
ý cúng dường, và nhờ vậy mà tôi đã tìm được sự bình an và tập trung
cho đến lúc cúng dường vị tu sĩ cuối cùng. Dù chỉ lễ lạy trong 4
tiếng đồng hồ, vậy mà hai ngày liền cơ bắp đau nhức, từ đó tôi mới
tâm phục khẩu phục công năng hành trì pháp môn “thanh tịnh thân tâm”
của quý thầy Tây Tạng. Mỗi ngày quý sư đã lễ lạy khoảng 2500 lần từ
1 đến 3 tháng. Có một điều kỳ lạ là chẳng ăn uống bồi bổ mà quý sư
nhìn rất khoẻ mạnh và tươi vui.
Nuôi Lớn Sự Thanh Tịnh
Hàng ngàn người vào ra BĐĐT ban ngày, còn có những đạo tràng từ các
nước Á Châu, phần lớn Thái Lan, về đây đăng ký với văn phòng BĐĐT để
ở lại tu từ 9 giờ tối đến sáng hôm sau, gọi là trưởng tịnh (nuôi lớn
sự thanh tịnh). Cá nhân cũng có thể đăng ký với văn phòng, đóng lệ
phí 100 rupees để tu trưởng tịnh. Không khí thanh tịnh về đêm tại
BĐĐT hoàn toàn khác với ban ngày, những người còn lại sau 9 giờ đêm
là những người thật sự muốn tìm đến một sự im lặng tuyệt đối. Mỗi
hành giả hành trì pháp môn riêng của mình, chọn một nơi thích hợp và
nhất tâm hành trì.
Trước khi lên đường đi Ấn Độ, tôi đã sắp xếp một chương trình dày
đặc để mong được thực hiện và học hỏi. Vả lại, trên 15 năm qua chúng
ta đã có một quá trình ủng hộ chư tăng tu học ở các tu viện Tây
Tạng, nên tôi muốn biết thực trạng của vấn đề để mong điều chỉnh cho
thích hợp. Nhưng rồi, như tôi đã nói, tôi đã thật sự tiếp xúc với
năng lượng an lạc của tự thân. Những ngày ở đây trở thành những giây
phút yên tĩnh lạ thường, từ những bước chân thiền hành qua những khu
đất nghèo văng vẳng tiếng kinh chiều của các chùa Tây Tạng cho đến
những đêm thanh tịnh tọa thiền, tất cả dâng lên một khúc nhạc trầm
lắng và đầy yêu thương, làm cho người qua đây không còn nhất thiết
phải làm chi khác nửa. Tôi quyết định dành thời gian để trở về với
chính mình, tôi khao khát được tu, và được làm việc từ thiện trong
tinh thần chánh niệm.
Vị sư phụ ngôi chùa Việt Nam, nơi tôi xin tá túc, có Phật sự đi xa,
nên từ đó mỗi ngày tôi vào BĐĐT lúc 6 giờ chiều, ngồi nhìn mọi người
qua lại, hay cùng các bạn đạo chia xẻ những mẩu chuyện, rồi xế tối
tôi vào điện chính lễ lạy đức Bổn Sư, tụng kinh Phổ Môn và niệm chú
Đại Bi. Chị Diệu Thuận kể lại rằng khi tôi nhiếp tâm tụng kinh thành
tiếng rặt giọng Huế thì các sư Tây Tạng chung quanh ngưng tụng, họ
nhìn tôi rồi nhìn nhau mỉm cười. Sau 9 giờ tối tôi dựng lều ngồi
thiền, và bắt đầu tĩnh tọa, đến gần nữa đêm, rồi đi thiền hành đến
lúc bước chân tôi đưa tôi về lều nghỉ ngơi. Thời gian vô tận và
không gian thênh thang luôn có mặt nơi đây, không có việc gì cần
làm, không có mục đích cần đạt, không cần rong ruổi với thời gian.
Tôi đã mở tung ra được nhiều sợi dây ràng buộc trong thời gian ngắn
ngủi này mà hương hoa của sự vắng lặng đó vẫn còn ảnh hưởng trong
cuộc sống hàng ngày của tôi cho đến hôm nay.
Cái lều của tôi được dựng chơ vơ ngoài trời ngay bên lề đường, khí
trời về đêm xứ Ấn lạnh lắm, sương rơi thấm ướt tấm khăn tôi trải che
gió trên đỉnh lều, khí lạnh từ lớp đá hoa cương dưới nền tỏa ra được
làm ấm lại bằng một tấm chăn mỏng. Lều được thiết kế tránh muỗi,
dành cho ngồi thiền chứ không phải để nằm, nhưng cũng may là tôi nhỏ
xíu, nằm co lại như mình đang nằm trong bào thai mẹ trước khi ra
đời, tôi hạnh phúc mỉm cười từ từ đi vào giấc ngủ một cách dễ dàng,
thỉnh thoảng tôi nghe tiếng những con chó hoang rượt và cắn nhau
trong đêm tối. Tờ mờ sáng lúc chưa nhìn rõ được mặt nhau, những bước
chân đi mạnh mẽ, những tiếng niệm chú xì xào từ các sư Tây Tạng vào
BĐĐT lúc 4 giờ sáng mở đầu cho một ngày mới tu tập, đánh thức tôi
dậy. Tôi lấy chăn đắp lên người, ngồi yên trong lều, theo dõi hơi
thở và “thiền quan sát” sinh hoạt buổi sáng tại BĐĐT.
Thức dậy mỉm miệng cười
Hai bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời
Năm giờ sáng, sương còn rơi và khí trời se se lạnh, vậy mà tiếng
chân người mỗi lúc một rộn ràng hơn, số người thưa thớt ban đầu dần
dần trở thành từng đoàn nối chân nhau tìm đến địa điểm hành trì mỗi
ngày của mình. Mặt trời từ từ hé dạng, vén nhẹ màn sương khuya, đem
hơi ấm ôm ấp lên muôn vật, tôi bước ra khỏi lều và xếp gọn hành
trang chuẩn bị đi ăn điểm tâm. Tại khuôn viên trước BĐĐT, dù người
sang hay kẻ hèn thì cũng chỉ có hai món để điểm tâm đó là trà sữa và
bánh bột mì hay bột chapatti (lúa mì). Mỗi ly trà sữa là 5 rupees,
một cái bánh bột chỉ 10 rupees (0.25 usd), đây cũng là một sinh hoạt
đáng nhớ, cái thế giới mà ai cũng như ai, ngồi trên thành lề đường,
sưởi ấm hai tay bằng ly trà sữa nóng và lót dạ một miếng bánh mì để
chuẩn bị cho một ngày sinh hoạt mới.
Cúng Dường Ba La Mật
Một buổi sáng vào mùa lễ hội Tripitaka, BĐĐT đông nghẹt người về
tham dự. Đang đi thiền hành sau thời khóa trưởng tịnh, tôi dừng lại
khi nghe tiếng xôn xao khác thường từ phía cổng chính của BĐĐT. Tôi
thấy nhiều Phật tử nói tiếng Hoa, có lẽ là người Đài Loan, thuê
những em bé người Ấn đem bánh mì và trà sữa vào cúng dường cho bất
cứ người nào đang có mặt trong BĐĐT. Họ làm việc nhanh nhẹn để kịp
đem đến tặng từng người như sợ người ta đi mất khỏi tầm nhìn của họ,
người nhận muốn bao nhiêu thì họ tặng bấy nhiêu, không phân biệt tu
sĩ hay khách hành hương, không tính toán, không kỳ thị, không phân
tích, họ trao tận tay những miếng bánh mì tươi mềm và ly trà sữa
nóng hổi vừa mới rót ra. Họ đến trước mặt tôi để “cúng dường”, tôi
lặng yên tiếp nhận, hơi ấm từ ly trà nóng chuyền qua lòng bàn tay
theo dòng nước mắt lăn dài trên đôi má, tôi nói thầm “hạnh phúc thay
… hạnh phúc thay” khi thấy con người biết sống với nhau trong biển
tình thương bao la.
Chó Hoang
Buổi sáng tôi chia xẻ phần điểm tâm cho vài chục con chó. Đây là
những con chó hoang, không có nhà để về, không có chủ cho ăn, bãi
rác là nơi các “em” tìm thức ăn và ngủ từng bầy với nhau. Rất nhiều
chó hoang. Tôi và chị Diệu Thuận mua hàng chục miếng bánh mì, xé nhỏ
ra và thảy cho từng em một.
Một hôm khi đi qua làng, tôi thấy một con chó con từ đằng xa, cái
đuôi ve vẫy, cái mồm sủa oang oang, “em” thuộc giống Pomerine nên
rất đẹp và được nuôi đàng hoàng. Tôi đến gần, ngồi xuống chơi với
“em” thì con chó bỗng nhiên ngưng sủa, ngửi quanh người tôi, rồi
nhảy chồm lên liếm vào tay vào mặt tôi. Tôi thương quá, ôm “em” vào
lòng, và hôn lên đầu lên má “em”, chị Diệu Thuận bảo tôi: “thôi đi
mau kẻo tối”. Những hôm đầu tôi nhờ chị Diệu Thuận giúp tôi cho chó
ăn bánh mì chị không nhiệt tình cho lắm.
Thế rồi mỗi ngày hai chị em cùng đi tu học với nhau, và thường có
những chú chó hoang theo gót chân tôi. Một hôm tôi phát hiện có một
con chó màu đen, tôi đặt tên là “Mực” đã theo tôi từ lâu lắm, tận
ngoài BĐĐT. Cứ mỗi góc đường Mực lại đứng chờ, tôi rẽ về hướng nào
là nó quẹo về hướng đó. Thương quá! tôi nói với chị Diệu Thuận: “Lát
nữa về chùa em đứng ngoài giữ nó chị vào tìm thức ăn cho nó giúp em
nghe”. Chị Diệu Thuận cản: “thôi, đừng lấy thức ăn cho chó, trong
chùa không thích đâu”. Ngay sau câu nói của chị Diệu Thuận, tôi thấy
Mực đến trước cổng chùa rồi quây lưng đi ra lại đầu xóm. Tôi không
nói gì hết, chạy nhanh vào bếp lấy mấy miếng bánh mì cũ chạy ra thì
Mực đã đi mất, tôi cầm miếng bánh mì đi tới đi lui quanh xóm, tôi
gọi thầm trong tâm: “Mực ơi! con đi đâu rồi? ra đây với cô đi con”
nhưng mãi mãi em không trở lại. Tôi về kể lại cho chị Diệu Thuận
nghe và tỏ lòng xót xa. Từ hôm đó chị Diệu Thuận không còn ngăn cản
tôi “thương chó”, chị đã phụ tôi xé bánh mì và ném ra cho từng con
một. Tôi rất vui vì có lần các “em” đến đông quá, chị bảo tôi mua
thêm ít miếng nữa vì còn một số “em” ăn chưa no.
Hôm nay ghi lại đây một vài kỷ niệm của những ngày hạnh phúc bên Bồ
Đề Đạo Tràng như một sự chia xẻ nồng ấm với mọi người. Nhân mùa Phật
đản Phật lịch 2553, xin dâng một đóa tâm hương với tất cả lòng thành
kính lên đức Thế Tôn. Nguyện cầu cho chúng ta có đủ hùng lực để cùng
nhau vững tiến trên con đường giác ngộ. Kính chúc các bật tôn túc,
cùng chư tăng ni vô lượng an lành.
Tôn Nữ Diệu Liên
Mùa Phật đản – PL. 2553
Thắc
mắc - Chia sẻ hạnh phúc - Kinh nghiệm tu tập - v.v...
mời các bạn gửi về địa chỉ
phusaonline@gmail.com
trang
mục PHÁP ĐÀM cám ơn các bạn! |
|
Pháp
thân
Có
một thi sĩ trẻ tên là Quách Thoại. Quách Thoại cùng với Trụ Vũ đã từng
sống ở chùa Giác Nguyên. Quách Thoại chết trẻ, để lại một bài thơ rất
hay là bài Bông Thược Dược:
‘‘Đứng yên ngoài hàng dậu
Em
mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng
nhìn em kinh ngạc
Vừa
thoáng nghe em hát
Lời
ca em thiên thâu
Ta
sụp lạy cúi đầu.’’
Bông
thược dược đứng ở ngoài hàng rào và đang mỉm cười một cách mầu nhiệm. Có
thể nhiều thiền sư cũng không làm thơ hay bằng thi sĩ trẻ này. Tại vì
trong giây phút đó, thi sĩ may mắn tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của
bông hoa thược dược, thấy bông hoa thược dược là biểu hiện nhiệm mầu của
pháp thân Bụt. Thấy bông hoa thược dược chưa bao giờ ngưng hát ca, chưa
bao giờ ngưng thuyết pháp.
‘‘Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa
thoáng nghe em hát
Lời
ca em thiên thâu
Ta
sụp lạy cúi đầu.’’
Đứng
trước một sự biểu hiện nhiệm mầu như vậy, tiếp xúc được với pháp thân
của Bụt thì thái độ của ta chỉ là sụp lạy và cúi đầu trước bông hoa
thôi. Tại vì bông hoa đó là pháp thân của Bụt. Năm 1966, trong khi đi
diễn thuyết bên Úc, tôi có tá túc tại một tu viện Thiên Chúa giáo. Tôi
đang ngồi ở ngoài sân cỏ thì có một bà sơ đem ra cho tôi một chén nước
trà. Rồi bà rút lui để đi thỉnh chuông. Tôi ngồi yên trên bãi cỏ uống
trà và làm được bài thơ Tiếng Gọi sau đây:
‘‘Sáng hôm nay,
tới
đây
Chén
trà nóng
Bãi
cỏ xanh
Bỗng
dưng hiện bóng hình Em ngày trước
Bàn
tay gió
Dáng
vẫy gọi
Một
chồi non xanh mướt
Nụ
hoa nào
Hạt
sỏi nào
Ngọn
lá nào
Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh.’’
Ngồi đó và an trú trong giây phút hiện tại, nên tôi thấy được một chồi
cây xanh đang vẫy tay chào gọi. Đó là biểu tượng của pháp thân. Và khi
thấy được sự mầu nhiệm đó rồi, ta nhận thấy rằng bất cứ nụ hoa nào, hạt
sỏi và ngọn lá nào cũng đang thuyết pháp và đang thuyết pháp đại thừa,
thuyết kinh Pháp Hoa.
Bàn
tay gió
Dáng
vẫy gọi
Một
chồi non xanh mướt
Nụ
hoa nào
Hạt
sỏi nào
Ngọn
lá nào
Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh.
Bài thơ này, cũng như bài thơ của Quách Thoại, nói tới sự kiện pháp thân
của Bụt hiện đang thuyết pháp. Nếu chúng ta chăm chú, sống có giới và có
định thì chúng ta tiếp xúc được với pháp thân và được liên tục nghe
thuyết pháp.
(Trích trong THIẾT LẬP TỊNH ĐỘ, tức kinh Di Đà thiền giải của Hòa thượng
Nhất Hạnh)
|