ĐẠO PHẬT
ỨNG DỤNG |
Chia sẻ... |
Cơ sở am, tự, viện Phật
giáo
Thiền
viện Quảng Đức Sài Gòn hiện là Văn phòng 2 của GHPG do Nhà nước
thành lập 1981 |
Những thập niên 60 về trước, khi nhà Ngô chưa gây khó khăn cho Phật
Giáo, Tu sĩ Phật giáo chưa bị xã hội hóa, lúc bấy giờ sinh hoạt Già Lam
được bao bọc bởi Thiền môn quy củ, các cơ sở am tự viện là trung tâm
sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh truyền thống, một nét đẹp văn hóa nuôi
dưỡng mầm sống dân tộc mà quá khứ đã chứng minh tiềm năng hộ quốc an dân
của một tôn giáo như Đạo Phật .
Cho dù không được tinh tuyền như thời Lý Trần, những năm tháng Bắc thuộc
và Pháp thuộc, Phật giáo phía Bắc và Trung bộ vẫn còn giữ được nét
chuyên chính của một tôn giáo hướng nội, chuyên tu; Không thủ chứng sở
đắc rộng rãi thì kiến thức Phật học và giới đức vẫn được duy trì cơ bản
trong hàng tu sĩ tập sự cũng như Tăng sĩ hành hóa. Những phong cách đó,
tạo một ấn tượng đẹp cho quần chúng và là niềm hãnh diện cho tín đồ. Tuy
không duy trì tam y nhất bát như thuở Phật sinh tiền, tu sĩ vẫn không sở
hữu một tài sản vật chất giá trị nào để làm vướng bận con đường mà hành
giả đã chọn để thoát ly sanh tử. Lúc bấy giờ am tự viện được xem là chùa
làng, của công, hoặc ít nữa là của hội, do quần chúng thành lập và bảo
trợ để chư Tăng an trú tu tập và hành đạo.
Một thời quá khứ của Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo Nam truyền
của các quốc gia châu Á, chùa là cơ sở sinh hoạt văn hóa cho thôn làng,
nơi giải trí, học tập cho quần chúng mỗi khi lễ hội diễn ra, đồng thời
tu sĩ là một chuyên gia tâm lý giải tỏa những phiền não trong cuộc sống
của quần chúng. Khi đất nước bị ngoại thuộc, chư Tăng rút sâu vào trong
phạm vi tôn giáo thuần túy, dần dà cách ly mọi sinh hoạt xã hội, vì thế
quần chúng cũng ít tiếp cận với Đạo Phật, sự hiểu biết về Phật giáo ngày
càng vơi dần. Một số chùa có ruộng đất cũng tự lập kinh tế. Chư Tăng đã
bị chi phối trong kế sinh nhai, thời giờ cho việc tu tập cũng giới hạn.
Sau 1966, Phật giáo chính thức nhập cuộc với sinh hoạt xã hội và sinh
hoạt chính trị khi đất nước chìm trong chiến tranh, các am tự viện và cơ
sở vật chất trở thành sở hữu riêng của chư Tăng mà đứng đầu là vị trụ
trì. Phía Bắc từ 1954, Phật giáo đã không còn tập thể tu sĩ trong các
già lam, tu viện. các chùa do địa phương quản lý, biến thành kho lẫm của
Hợp tác xã nông nghiệp hoặc trưng dụng cho những công ích khác. Phía Nam
trung bộ, một số chùa tuy của công, nhưng vẫn được tu sĩ sinh hoạt bình
thường, quần chúng có bổn phận giám sát tu bổ, hỗ trợ kinh tế, giúp đỡ
một số mặt xã hội như giao tế, từ thiện xã hội…
Cơ sở vật chất:
Vào thời Phật giáo cực thịnh, được xem là quốc giáo, vua chúa và quan
chức thường tạo lập tự viện, cung thỉnh chư Tăng tọa trú. Trong cung
viện, cao Tăng làm quốc sư, xây dựng Tam bảo tại Hoàng cung để vua quan
tiện bề tham vấn tu tập. Mỗi làng mạc thị trấn đều có đình chùa miếu
mạo. Tinh thần Tam giáo dung thông tạo một tiềm lực cho dân tộc và sinh
lực tâm linh cho quần chúng, tuy nhiên, Phật giáo vẫn là chủ đạo sinh
động làm cho quốc gia cực thịnh, đến khi các Nho gia chiếm vị thế ưu đãi
chính trị, Phật giáo lui vào thế giới tĩnh lặng chuyên tu. Thế kỷ thứ
16, Kito giáo thâm nhập vào đất nước qua bước chân xâm lược của Pháp,
tôn giáo nầy suốt nhiều thế kỷ vẫn bị co cụm vì quần chúng chưa sẵn sàng
tiếp nhận, do giáo lý và tín điều đi ngược lại tập quán truyền thống của
dân tộc, một phần bị vua chúa ngăn cấm khi bắt được những văn bản và bản
đồ tình báo của các cố đạo cung cấp cho Pháp và Vatican. Tuy nhiên,
Vatican rút kinh nghiệm những khó khăn do không thích ứng với tập quán
của những quốc gia Châu Á, công đồng Vaticano II đã tháo gỡ rào cản của
những tín điều vô lý, đồng thời Pháp đã thiết lập được các vua chúa Lãnh
đạo xuất xứ từ Kito hoặc thân thiện với Kito, đã nâng đỡ Giáo Hội Kito
giáo Việt Nam dần thoát khỏi những trì trệ. Khi luồng gió lạ từ tôn giáo
mới thâm nhập, xã hội tiếp cận những sinh hoạt thông thoáng của tư tưởng
phương Tây mà quân đội viễn chinh Pháp đem đến, quần chúng thị thành và
lớp trẻ tiến bộ đón nhận nhanh loại văn minh tiến bộ của khoa học vật
chất mà từ lâu thế giới tâm linh không cung ứng kịp thời; Tam giáo bắt
đầu chựng lại và chỉ duy trì trong các làng mạc, quần chúng thành thị xa
dần tín ngưỡng truyền thống khi ngả hẳn sang xu thế tiện nghi vật chất,
lúc bấy giờ, suốt nhiều thế kỷ, Phật giáo chỉ là chiếc bóng mờ giữa lòng
dân tộc. Đến khi tinh thần quật cường của các nhà ái quốc muốn khôi phục
chủ quyền đất nước, Phật giáo được các chí sĩ chọn làm sinh lực cho
phong trào như Cần Vương, các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Đông
A…và một số nhân sĩ trí thức cổ súy chấn hưng Phật giáo; Các tờ báo ra
đời như Đuốc Tuệ, Từ Quang, Từ Bi Âm… dùng mẫu tự La tinh để phổ biến
giáo lý vào mọi tầng lớp. Thập niên 1930 cũng từ đó các Thiền môn Tăng
lữ chấp nhận lối giáo dục mới, văn tự mới để tiếp nhận và truyền bá giáo
lý Đạo Phật.
Các tỉnh miền trung Nam bộ và phía Bắc, Phật giáo chấn hưng có hiệu quả.
Song song việc cung ứng kiến thức cập nhật cho Tăng Tín đồ, Bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám, ĐĐ Minh Châu và một số vị đã thành lập đội ngũ Thanh
niên nam nữ cư sĩ, một tập thể gọi là Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân
Gia Đình Phật Tử Việt Nam hiện nay, đi vào sinh hoạt có tổ chức, có kỷ
luật vừa tiếp thu kiến thức Phật học, vừa rèn luyện nhân cách, vừa học
tập thích ứng với môi trường sống, một mẫu tín đồ đạo đức và hữu
dụng.qua bao biến thiên của xã hội, ngày nay vẫn còn hình bóng sinh hoạt
các đơn vị thanh thiếu niên như thế, cả trong và ngoài nước!
Sau khi đất nước chia đôi từ vĩ tuyến 17, phía Bắc theo Chủ Nghĩa Xã
Hội, mọi sinh hoạt trong xã hội đều nằm trong sự quản lý của Mặt trận,
kể cả tôn giáo, có bổn phận đóng góp, phát huy XHCN và theo định hướng
CNXH. Và mục đích thống nhất hai miền, các tôn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng phải lột xác để cùng nhà nước thực hiện ước mơ giải
phóng. Phía Nam, các cao Tăng thạc đức cố gắng phục hoạt chấn hưng Phật
giáo từ hạ tầng, phong trào chấn hưng từ thập niên 1930 đã gây tiếng
vang và kết quả khả quan, đào tạo những Tăng sĩ có năng lực và có kiến
thức, chính vì thế mà quần chúng được củng cố đức tin và sinh hoạt từ
khuôn, vức trở lên Tỉnh Thành hội khá ổn định. Nhờ hiệu quả đó mà Phật
giáo đương đầu với bạo quyền nhà Ngô để bảo vệ Đạo Phật trước ý đồ Kito
hóa dân tộc, một cách có hiệu quả.
Sau 1981, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành hình, các tổ chức giáo
hội riêng lẻ trước đây giải thể, một tổ chức Phật giáo duy nhất và quyền
hạn của vị trụ trì mỗi am tự viện cũng thể hiện rõ nét được sự hỗ trợ
pháp lý của chế độ hộ khẩu, chuyển hệ thống sinh hoạt truyền thống thiền
môn, già lam, tự viện sang một nét mới. Ban hộ tự, ban bảo trợ, ban quản
trị không còn quyền hạn như trước, biến thành thừa sai của vị trụ trì,
nghĩa là mỗi cơ sở thờ tự của Phật giáo biến thành tài sản riêng tư của
vị tọa chủ đương nhiệm. Chế độ hộ khẩu đã hợp thức hóa quyền hạn của vị
trụ trì; những Tăng chúng không được lòng trụ trì thì khó mà xin nhập
hộ. Lúc bấy giờ tu sĩ một cổ hai tròng, vừa gặp khó khăn về hành chánh
chuyển khẩu, vừa qua ải của vị trụ trì. Vì thế, đa số Tăng ni sinh các
tỉnh về Thành phố tu học phải ở tư gia hoặc nhà trọ. Những cơ sở tự viện
còn dính líu đến sở hữu của vị tiền nhiệm đã bỏ nước ra đi, tọa chủ
đương kim bằng mọi cách hợp thức hóa quyền sử dụng đất và giấy bổ nhiệm
trụ trì khi đã là chủ hộ, những môn đệ của vị tiền nhiệm không thể nhập
hộ cho dù họ ở trước đó khá lâu, ngược lại những đồ đệ của vị đương
nhiệm sẽ dễ dàng được nhập hộ với sự đồng ý và bảo lãnh của đương kiêm
tọa chủ trụ trì. Đó là nội tình, ngoài ra các vị trụ trì chạy theo phong
trào tái thiết xây dựng theo đồ án quy mô, cho dù cơ sở còn xử dụng vài
mươi năm nữa. Có những chùa vừa xây dựng, nhưng không tương xứng với
những chùa khác, lại đập bỏ! cứ như thế mà thi đùa xây chùa to Phật lớn
tốn bạc tỷ trong khi quần chúng, trong đó có những Phật tử đói ăn thiếu
chỗ ở! Và những chùa to Phật lớn như thế đôi khỉ nhất Tăng nhất tự, một
sự hoang phí vô lý! Giáo hội tỏ ra bất lực trước việc phân bố cơ sở am
tự viện. Rất nhiều nơi chùa sát vách, đâu mặt hoặc gần nhau không tới
100m, chính vì thế mà có nơi gọi là xóm chùa. Có lẽ Phật giáo là tôn
giáo duy nhất có sự phân bố am tự viện không tương xứng với mật độ quần
chúng tín đồ tại Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng tùy tiện như thế kèm
theo thiếu mỹ quan đô thị;
Phần lớn quần chúng ngày càng xa cách với đạo Phật; Một người lạ hỏi
thăm một ngôi chùa, biết là cách đó không xa lắm, thế mà người dân không
biết, vì chẳng ai quan tâm. Một Việt Kiều hỏi thăm tượng đài Bồ Tát
Thích Quảng Đức trên đường Cách Mạng Tháng Tám, cách một ngã tư mà người
dân tại đó cũng không rõ; Điều đó chứng tỏ Phật giáo không được phổ cập,
quần chúng không được gần gủi với nhà chùa, như thế chư Tăng và Ban
Hoằng pháp đã làm được gì cho những nơi vùng sâu vùng cao? Việc giáo
dục, đào tạo nhân sự đã bị xem nhẹ và làm việc kém hiệu quả thì tạo dựng
chùa cao Phật lớn để làm gì nếu không là mục đích thu hút khách du lịch?
Quần chúng Phật tử rất cần học hỏi giáo lý và hướng dẫn tu tập chứ không
hãnh diện tôn giáo mình có nhiều chùa to Phật lớn. Có những chùa một năm
tổ chức hai ba cuộc lễ huy động hàng ngàn tín đồ về tham dự để buôn bán
băng đĩa kinh sách mà không mở những khóa tu học để họ hiểu đạo, không
dám mời các giảng sư về giảng trong khi chính vị trụ trì đó cũng hiểu
giáo lý một cách lệch lạc. Những trụ trì có năng lực, tổ chức các đạo
tràng để hậu thuận cho danh vị, tự xem là giáo chủ một tông môn biệt
lập, dĩ nhiên đi kèm theo là lợi nhuận đổ về từ những tín đồ nhẹ dạ,
nhiệt thành…
Một khi cơ sở tôn giáo được xem là tư hữu của vị tọa chủ thì kéo theo
nhiều động thái cậy quyền, xem nhẹ tín đồ, vì đó là cơ ngơi riêng chứ
không phải trung tâm tu học của tôn giáo. Và có đôi khi, nơi thờ tự biến
thành kinh doanh bất động sản vì quyền hạn và quyền lợi của một trụ trì
đã được bảo chứng hợp pháp.
Quyền lực:
Khi trụ trì nắm toàn bộ quyền lực về tài sản Tam bảo, biến thành cơ ngơi
riêng; nếu là bậc chân tu thì lấy luật Đạo mà cư xử trên tinh thần công
bằng và tương kính, nếu vị tọa chủ quên mình là một bậc xuất trần, cách
cư xử sẽ nhuốm màu thế tục, kéo theo nhiều tính toán hoàn toàn thế tục
mà đại chúng nội trú cũng như quần chúng Phật tử sẽ ngán ngẫm, xa lìa và
cách ly. Có những vị tế nhị hơn, biết bao bọc bằng lớp sơn mỹ miều, có
thể đánh lừa được một số quần chúng nhẹ dạ cả tin, nhưng rồi lúc nào đó
cây kim trong bọc lâu ngày cũng cũng lộ ra!
Tình trạng sang nhượng mua bán chùa chiền hiện nay, trở thành thị trường
bất động sản phổ biến. Dưới danh nghĩa chuyển nhượng lấy lại vốn để xây
dựng nơi khác và giúp cho những vị có nhu cầu về cơ sở hành đạo; Vị thừa
kế không những tốn kém để có một cơ sở thờ tự hợp pháp mà còn phải chi
phí một khoản riêng để lo giấy “quyết định bổ cử trụ trì và làm lễ nhập
tự”; hẳn nhiên mọi chi phí đều do quần chúng Phật tử cúng dường. Cũng có
trường hợp một vị có quyền lực trong Ban Trị sự, có thể truất quyền trụ
trì để bổ nhiệm vị khác nếu vị đó đủ khả năng đáp ứng trị giá ngôi chùa
mà xét thấy có thể thu nhập khá về sau! Bằng biện pháp hành chánh và
pháp chế, họ có thể làm được mọi thứ mà chỉ có những ai chân thật và cô
thế mới bị thiệt thòi. Trụ trì có quyền của một trụ trì, Ban Trị sự hay
Ban đại diện có quyền trong phạm vi chức năng của mình, đôi khi có sự
câu kết để ảo thuật mọi vấn đề; Nhưng hạ tầng cơ sở vẫn là trụ trì. Một
trụ trì chân chánh thì quần chúng ủng hộ, hậu thuẫn, những trụ trì thiếu
trung thực, quần chúng không những tẩy chay mà ngay cả nội tự cũng không
có đạo chúng, và hình như họ cũng không cần phải sống nhờ vào hậu thuẫn
đó mà họ có những cách làm ăn khác như tổ chức hành hương hoặc những
thương vụ mang tính thế tục;
Trong tổ chức Phật giáo Việt Nam hiện nay có quá nhiều kẻ hở và có quá
nhiều biệt đãi cho những quan chức, chức sắc Phật giáo; họ nương tựa lẫn
nhau để củng cố quyền lực và sẳn sàng gây khó trấn áp những ai không
đứng về cùng phía với họ. Một Liên đoàn Thanh thiếu niên, hậu thân của
câu lạc Bộ Hoằg Pháp trẻ, do ĐĐ T. Nhật Từ sáng lập, hoạt động được ba
năm, gặp không it khó khăn, chỉ vi trâu cột ghét trâu ăn, người bất tài
thường đố kỵ kẻ làm được việc. Một vài nhân sự trong văn phòng 2, bất
tài cậy thế đã thao túng cả một guồng máy Giáo hội, cản trở Tăng ni trẻ
có khả năng hoạt động xã hội. Họ chỉ biết thể hiện tính đố kỵ và quyền
lực mà không thấy mối đe dọa ngày càng phát triển của ngoại giáo; chính
vì thế, những bậc chân tu ngán ngẫm, rút lui về ẩn cư tĩnh lặng và những
tài năng thường bị thui chột. Đây là những độc trùng phá hoại Phật giáo.
Cơ sở 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa tức thiền viện Quảng Đức đường Công Lý cũ,
nay là văn phòng 2 TW GHPGVN. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo cũng là một bộ
phận của Giáo Hội, do Giáo Hội chỉ định tọa lập v/p tạp chí VHPG tại góc
lầu một, thế mà cách cư xử đối với Tạp chí VHPG cứ như kẻ ăn nhờ ở đậu,
thiếu tôn trọng và không lắng nghe nguyện vọng chính đáng của một bộ
phần công tác văn hóa cho Phật giáo. Mỗi người có chức danh là có quyền
hạn, cho dù quyền hạn trong phạm vi tôn giáo, cũng mang tính thế tục,
tranh chấp, phe nhóm, đè ép lẫn nhau để củng cố hư vị của mình. Tuy đất
nước thái bình, nhưng từ xã hội đến tôn giáo đều mang mầm móng loạn
quyền. Thực trạng trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày nay còn nhiều
vấn đề không đủ thì gian để nêu lên chỉnh đốn.
Đến bao giờ Phật giáo là một tổ chức nghiêm chỉnh và trong sáng, chuyên
về tu học hơn nặng về hư danh, để làm điểm tựa và niềm tin cho quần
chúng! Phật giáo mạnh thì đất nước mạnh. Phật giáo mạnh không phải cơ sở
vật chất phát triển nhiều hay quyền lực tu sĩ mạnh, mà nội lực chuyên tu
phát triển , trí tuệ trong sáng và uy tín được quần chúng chấp nhận. Đòi
hỏi tu sĩ có giới đức tinh ngiêm, thân giáo và khẩu giáo song hành, đó
là cơ sở phát triển của Phật giáo xưa nay.
MINH MẪN
22/6/2010 |