ĐẠO PHẬT
ỨNG DỤNG |
Pháp đàm |
Chia sẻ... |
Đức Phật và
nền hòa bình nhân loại
2637 năm về trước, Lumbini đã xuất hiện một nhân vật lạ thường, con của
một nhà vua, nhưng từ lúc sanh cho đến tịch đều gắn liền với thiên nhiên
cây cỏ.
Theo huyền sử, bà Maya phu nhân trên đường về quê sanh nở, ghé nghỉ chân
tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, lúc đó Thái tử Sĩ Đạt Đa được hạ sanh dưới cây
Vô Ưu. Lúc xuất gia tầm đạo, suốt hơn 6 năm Ngài sống trong rừng; lúc
nhập định đến khi thành chánh giác, ngài ngồi dưới cội Bồ Đề; khi hành
đạo hoằng pháp, ngài cũng ngự nơi rừng trúc hoặc rừng cây của ông Kỳ Đà.
Tuổi về già, chọn nơi tịch diệt, ngài nằm dưới bóng Sa la. Cả một giáo
đoàn trên ngàn người, ngài luôn khuyến cáo tránh làm tổn hại sinh vật
cây cỏ. Không thải chất bẩn xuống giòng nước. Rác sinh hoạt hàng ngày
không vứt bừa bãi. Đã bao lần ngài ngắm bình minh sông Hằng và hoàng hôn
Hy mã. Với niên đại nhân loại còn bán khai, ngài đã biết bảo vệ môi sinh
và gắn liền cuộc sống với thiên nhiên.
Ngài cũng từng hoà giải những cuộc xung đột giữa các quốc gia lân bang,
từng dùng tâm lý vấn đáp giữa ngài và Anan để cảnh giác vị vua có âm mưu
thôn tính nước khác.
Trong giáo đoàn, ngài đưa ra tinh thần Lục hoà, làm cơ sở cho sự hoà hợp
trong một tập thể.
Trong giao tiếp, ngài dạy Tứ nhiếp pháp.
Trong tương quan xã hội, gia tộc, nghiệp vụ, ngài dạy kinh Thiện sanh.
Với tự thân, ngài dạy quán chiếu và luật giới.
5 giới cơ bản của cư sĩ tại gia đã hàm tàng tính hoà bình. Cổ đức nói
Tâm bình thế giới bình. Giới luật và giáo học đã giúp cho hành giả
một trạng thái tâm bình lặng. Tự thân an bình, năng lượng từ hoà thì môi
trường chung quanh sẽ được tác hưởng.
Ngay khi Phật còn tại thế, cõi sống của ngài vẫn là cõi tịnh. Suốt hơn
25 thế kỷ, cộng đồng tu sĩ vẫn là cộng đồng an lành hòa bình nhất trong
đạo tràng tu tập của hàng Bạch y cư sĩ vẫn toát hiện tính tương trợ thân
ái.
Trong công cuộc hoằng hoá, giáo đoàn Phật giáo vẫn là giáo đoàn mang
tính hoà bình thân thiện nhất; chính vì thế, Liên Hiệp Quốc đã chọn Phật
giáo làm tôn giáo biểu tượng hoà bình của nhân loại.
Trong tính chất hoà bình tiềm ẩn lòng từ ái, chính vì thế Phật giáo Bắc
truyền đã tôn trọng sự sống mọi loài, nên lấy chay ( trai ) tịnh làm một
trong những yếu tố tối cần cho đường tu. Mình không thể sống bằng mạng
sống của kẻ khác. Không an hưởng trên sự khổ đau của sinh vật khác (Cơm
ăn chan với máu đào). Phật giáo
Tibet
ngày nay, cũng kêu gọi ăn chay; một số quốc gia
Nam
truyền, Phật giáo cũng bắt đầu kiên Tam Tịnh nhục. Ngài Narada Tích Lan
vào thập niên 1950 cũng kêu gọi tu sĩ tránh ăn thịt động vật.
Nhờ những yếu tố tình thương đó mà tinh thần Phật giáo tránh được bạo
động. Phần lớn các tôn giáo đều nói đến bác ái, nhưng cuộc sống tự thân
không nuôi dưỡng lòng nhân nên đưa đến bạo lực suốt nhiều thậrp kỷ. Qua
lịch sử tôn giáo, vùng Trung Đông khai sinh ra tam giáo Độc thần: Do
Thái giáo - Kitô giáo - Hồi giáo, cùng tin vào Thượng Đế, đấng hằng
sinh sáng tạo, tuy danh xưng gán cho Thượng đế khác nhau, nhưng cùng
một ý tưởng chung, thế mà nhiều thế kỷ đổ máu với nhau để vinh danh
Thượng đế. Giữa Vatican và Hồi giáo đã có trên 10 cuộc thánh chiến. Gần
đây, các Giáo hoàng muốn hoà giải đôi bên, nhưng trong thâm tâm vẫn xem
nhau là ngoại đạo, chính vì thế mà có những lời lẽ thường xúc phạm nhau.
Benedict XVI cũng như vị Giáo hoàng tiền nhiệm, J.P II, đến đền thờ ở
thủ đô Damascus, Syria lễ bái, thì Benedict XVI cũng đến đền thờ Hồi
giáo Blue Mosque ở Istambul, Thổ Nhỉ Kỳ để chiêm bái giao tế, thế nhưng
hai bên vẫn có một khoản cách ngờ vực. Gần đây, do sáng kiến của
Vatican, mời Hồi giáo ký thư chung kêu gọi Tôn trọng tự do tôn giáo,
nghĩa là Vatican muốn kết hợp với Hồi giao để làm áp lực những quốc
gia cản trở đức tin tôn giáo. Mỹ muốn bắt tay với thế giới Hồi giáo, Nga
cũng muốn hoà hoãn với đạo Hồi, Trung quốc cũng e ngại nhóm tín đồ Hồi
giáo trong nước, và Việt nam đã xem Hồi giáo là một trong những tôn giáo
được phép sinh hoạt trên lãnh thổ mình, thế nhưng không ai an lòng khi
kết giao miễn cưỡng như vậy. Đối với Phật Giáo, không xem ai là kẻ thù
thì không nhất thiết chọn riêng ai làm bạn, ngay cả muôn thú đều có
quyền cộng sinh. Trên xứ sở Ấn Độ và Nepal, là thiên đàn cho mọi sinh
thú, bò dê, cừu, chó nằm ngủ giữa lộ mà xe và khách bộ hành có bổn phận
phải tránh, không quấy nhiễu, xua đuổi hay đánh đập chúng; bầy chim đủ
loại hoà lẫn trong đám người hành hương hay đậu bên bác nông phu để tìm
cái ăn; do tinh thần tôn trọng mạng sống sinh loại của các tôn giáo Ấn
mới có sự hài hoà như thế. So với Trung Đông chỉ có ba tôn giáo thì Ấn
Độ sản sinh ra hàng ngàn tôn giáo tín ngưỡng lớn nhỏ khác nhau, nhưng
không bao giờ xung đột, tranh chấp nhau. Hồi giáo triệt hạ Phật giáo vì
Hồi giáo không khai sinh tại Ấn độ. Ngay trên đất Việt và Trung quốc,
hàng ngàn năm qua, ba tôn giáo: Phật-Lão-Khổng, vẫn sinh tồn
trong tư tưởng Tam giáo đồng nguyên để cùng nhau đồng lưu đến ngày nay.
Dù là tôn giáo hay học thuyết, thiếu lòng nhân đối với mọi loài, không
xây dựng trên Từ bi và bình đẳng, thường đưa đến độc thần, độc tài, độc
tôn, độc đoán và sẽ là đến độc ác và độc hại, vì sự bảo thủ đưa chúng
đến bế tắt.
Với tinh thần Vô ngã, vị tha của Đức Phật, người con Phật không xem cái
gì là của riêng mình khôing có gì vĩnh cửu, vì thế thoát khỏi tính chấp
thủ làm khổ nhau. Ngược lại, cũng không vì tính vô thường giả tạm của
vạn vật mà người Phật tử thụ động, ngoảnh mặt làm ngơ trước khổ đau của
đồng loại. Với lòng từ vô điều kiện và tinh thần trách nhiệm của kinh
Thiện sanh mà hành giả đã nổ lực góp phần cải thiện xã hội, hỗ tương
cuộc sống quanh mình; chính tinh thần đó mà các triều đại lấy Đạo Phật
làm quốc giáo, đã oai hùng chiến thắng ngoại xâm.
Ngày nay, Phật giáo đã nổi trội tính hoà bình giữa những cực đoan bề bộn
trên thế giới, đó là lý do Liên Hợp quốc chọn Phật giáo làm biểu tượng
tôn giáo hoà bình. Đạo Phật cũng nhanh chóng hoà nhập và phát triển trên
các nước một thời Thần học chủ đạo, đã giúp cho người dân Tây âu tìm
được điểm tựa tâm linh, giải quyết những bất an trong cuộc sống mà họ
từng nghĩ khoa học thực dụng có thể đem lại hạnh phúc. Trong cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, quần chúng Âu Mỹ bị hụt hẩng, một số
đến với Đạo Phật đã giữ được tâm an lạc. Một nhà sư Tây Tạng
cũng đang rao giảng pháp an tâm để giúp cho cơn khủng hoảng thế kỷ đó.
Tinh thần của Đức Phật gần ba ngàn năm vẫn còn lưu truyền, hy vọng khi
năm châu đều thắm đượm Phật giáo thì Hoà bình không còn ngoài tầm tay
của nhân loại. Đó là ý nghĩa và giá trị về sự hiện diện của Đức bổn sư
nơi cỏi ngũ trược ác thế nầy. Mùa Đản sinh là mùa tôn vinh Đức Phật ra
đời cũng có nghĩa mùa tôn vinh tinh thần hoà bình cho nhân loại.
MINH MẪN
09/01/09
Thắc
mắc - Chia sẻ hạnh phúc - Kinh nghiệm tu tập - v.v...
mời các bạn gửi về địa chỉ
phusaonline@gmail.com
trang
mục PHÁP ĐÀM cám ơn các bạn! |
|
Pháp
thân
Có
một thi sĩ trẻ tên là Quách Thoại. Quách Thoại cùng với Trụ Vũ đã từng
sống ở chùa Giác Nguyên. Quách Thoại chết trẻ, để lại một bài thơ rất
hay là bài Bông Thược Dược:
‘‘Đứng yên ngoài hàng dậu
Em
mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng
nhìn em kinh ngạc
Vừa
thoáng nghe em hát
Lời
ca em thiên thâu
Ta
sụp lạy cúi đầu.’’
Bông
thược dược đứng ở ngoài hàng rào và đang mỉm cười một cách mầu nhiệm. Có
thể nhiều thiền sư cũng không làm thơ hay bằng thi sĩ trẻ này. Tại vì
trong giây phút đó, thi sĩ may mắn tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của
bông hoa thược dược, thấy bông hoa thược dược là biểu hiện nhiệm mầu của
pháp thân Bụt. Thấy bông hoa thược dược chưa bao giờ ngưng hát ca, chưa
bao giờ ngưng thuyết pháp.
‘‘Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa
thoáng nghe em hát
Lời
ca em thiên thâu
Ta
sụp lạy cúi đầu.’’
Đứng
trước một sự biểu hiện nhiệm mầu như vậy, tiếp xúc được với pháp thân
của Bụt thì thái độ của ta chỉ là sụp lạy và cúi đầu trước bông hoa
thôi. Tại vì bông hoa đó là pháp thân của Bụt. Năm 1966, trong khi đi
diễn thuyết bên Úc, tôi có tá túc tại một tu viện Thiên Chúa giáo. Tôi
đang ngồi ở ngoài sân cỏ thì có một bà sơ đem ra cho tôi một chén nước
trà. Rồi bà rút lui để đi thỉnh chuông. Tôi ngồi yên trên bãi cỏ uống
trà và làm được bài thơ Tiếng Gọi sau đây:
‘‘Sáng hôm nay,
tới
đây
Chén
trà nóng
Bãi
cỏ xanh
Bỗng
dưng hiện bóng hình Em ngày trước
Bàn
tay gió
Dáng
vẫy gọi
Một
chồi non xanh mướt
Nụ
hoa nào
Hạt
sỏi nào
Ngọn
lá nào
Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh.’’
Ngồi đó và an trú trong giây phút hiện tại, nên tôi thấy được một chồi
cây xanh đang vẫy tay chào gọi. Đó là biểu tượng của pháp thân. Và khi
thấy được sự mầu nhiệm đó rồi, ta nhận thấy rằng bất cứ nụ hoa nào, hạt
sỏi và ngọn lá nào cũng đang thuyết pháp và đang thuyết pháp đại thừa,
thuyết kinh Pháp Hoa.
Bàn
tay gió
Dáng
vẫy gọi
Một
chồi non xanh mướt
Nụ
hoa nào
Hạt
sỏi nào
Ngọn
lá nào
Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh.
Bài thơ này, cũng như bài thơ của Quách Thoại, nói tới sự kiện pháp thân
của Bụt hiện đang thuyết pháp. Nếu chúng ta chăm chú, sống có giới và có
định thì chúng ta tiếp xúc được với pháp thân và được liên tục nghe
thuyết pháp.
(Trích trong THIẾT LẬP TỊNH ĐỘ, tức kinh Di Đà thiền giải của Hòa thượng
Nhất Hạnh)
|