Viễn ảnh của tôi về
một Tương lai nhân ái
Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, Tenzin Gyatso, là vị lãnh đạo tinh
thần của
quốc gia Tây-Tạng. Kể từ năm 1959, ngài đã đến cư ngụ tại thành
phố
Dharamsala ở miền Bắc xứ Ấn Độ, là thủ phủ của chính quyền lưu
vong
Tây-Tạng. |
Bạo lực hung tàn sẽ không bao giờ chế ngự
được niềm khao khát căn bản nhất của con người là có được tự do. Hằng
ngàn người đã xuống đường nơi những thành phố Đông Âu trong những thập
niên qua, niềm cương quyết không hề lay chuyển của dân tôi nơi quê nhà
Tây Tạng, cùng với những cuộc biểu tình tại Miến Điện trong thời gian
gần đây - tất cả đều là những nhắc nhở hùng hồn của chân lý. Tự do
chính là căn nguyên của mọi hoạt động và phát triển của con người.
Theo lề lối suy nghĩ của chế độ cộng sản, thật là thiếu sót vô cùng
nếu nghĩ rằng chỉ cần đem đến cho người ta cơm ăn áo mặc và nơi ăn
chốn ở là đã quá đủ. Nếu chúng ta có cơm áo và nhà ở nhưng thiếu mất
bầu không khí quý báu của tự do để nuôi dưỡng bản chất sâu sắc trong
ta, thì chúng ta chỉ tồn tại
như một nửa con người.
Trong quá khứ, những người bị đàn áp thường
tìm đến bạo động trong cuộc tranh đấu của họ để tìm giải thoát. Nhưng
những người nhìn xa thấy rộng như ngài Mahatma Gandhi và Mục Sư
Martin Luther King, Jr. đã cho chúng ta thấy rằng những thay đổi tốt
đẹp vẫn có thể được thực hiện một cách bất bạo động. Tôi tin rằng, ở
mức độ căn bản nhất của con người, đa số chúng ta đều mong muốn sống
yên bình. Trong sâu thẳm tâm hồn, chúng ta khát khao sự phát triển có
tính cách xây dựng đem đến phúc lợi, và chán ghét sự tàn phá hủy hoại.
Hơn nữa, chúng ta cần phải quán xét xem mối
liên hệ giữa chúng ta và câu hỏi liên quan đến việc sử dụng bạo động
trong thế giới rất mực liên đới ngày hôm nay là một mối liên hệ như
thế nào. Lắm khi người ta cảm thấy rằng họ có thể giải quyết được một
vấn đề nào đó một cách nhanh chóng bằng vũ lực, nhưng sự thành công
dựa trên bạo lực thường xuyên phải dẫm đạp lện trên quyền lợi và an
sinh của người khác. Có thể một vấn đề nào đó được giải quyết, nhưng
hạt giống của một vấn đề khác vừa được gieo mầm, và do đó, sẽ đưa đến
một thiên sử mới trong cái
vòng lẩn quẩn của bạo động và chống trả bạo động.
Từ cuộc Cách Mạng Nhung ở Tiệp Khắc trước
đây cho đến phong trào đòi hỏi tự do dân chủ được nhiều người hưởng
ứng tại Phi Luật Tân, thế giới đã thấy rằng con đường bất bạo động có
thể đưa đến những thay đổi chính trị tốt lành. Nhưng phương pháp thực
hiện bất bạo động một cách chân thành vẫn còn đang ở trong vòng thử
nghiệm. Nếu thử nghiệm thành công thì phương thức này có thể đưa đến
một thế giới an bình hơn nhiều lắm. Chúng ta cần phải dung dưỡng một
phương thức thực tiễn hơn để có thể đương đầu với những bất đồng của
nhân loại, một phương thức gần gũi hoà hợp hơn với một thực tại mới.
Thực tại ở đây chính là sự liên đới rất sâu đậm trong một thế giới mà
những khái niệm xưa cũ như chúng ta và bọn họ không còn thích hợp
nữa.
Quan niệm cho rằng
một chiến thắng hoàn toàn cho phe ta
và một sự bại trận hoàn toàn cho phe địch là một quan niệm bất khả thi.
Trong những bất đồng có tính chất bạo động, những người vô tội thường
xuyên là những nạn nhân đầu tiên, giống như cuộc chiến tại Iraq cũng
như cuộc khủng hoảng tại Sudan Darfur đã nhắc cho ta nhớ về điều đau
lòng này. Ngày nay, giải pháp khả thi để giải quyết các bất đồng của
nhân loại là con đường xuyên
qua đối thoại và hoà giải dựa trên tinh thần hoà hiệp.
Rất nhiều những vấn đề chúng ta phải đối
đầu ngày hôm là những sản phẩm do chính chúng ta tạo ra. Tôi tin rằng
một trong những căn nguyên của những vấn đề nhân tạo này là do
con người không có khả năng kềm chế
được tâm trí và con tim dễ bị khích động của mình - và
đây là một lãnh vực mà giáo lý của những nền tôn giáo lớn trên thế
giới có thể đóng góp đắp bồi.
Một lần kia, một nhà khoa học gia ở Chile
đã nói với tôi rằng nếu các nhà khoa học gia cảm thấy bám chấp vào một
lãnh vực nghiên cứu đặc biệt nào đó của riêng họ thì điều này không
thích hợp [cho vấn đề nghiên cứu] vì việc ấy sẽ làm giảm đi tính khách
quan trong họ. Cá nhân tôi là một hành giả theo gót chân Phật, nhưng
nếu tôi trộn lẫn lòng tín tâm của tôi đối với đạo Phật cùng với sự bám
chấp của tôi về tôn giáo này thì tâm tôi sẽ trở nên thiên vị đối với
tôn giáo ấy. Tâm thiên vị sẽ không bao giờ giúp ta thấy được một bức
tranh toàn diện, và bất cứ một hành động nào xuất phát từ tâm thiên vị
ấy cũng sẽ không đi đôi với thực tại. Nếu những tín đồ của các tôn
giáo khác nhau có thể lưu ý đến lời cố vấn của nhà khoa học gia trên
đây và cố gắng đừng để cho tâm bám luyến vào chính truyền thống tín
ngưỡng của họ thì điều này có thể ngăn chặn được sự phát triển của chủ
nghĩa chính thống cực đoan (fundamentalism). [Sự khách quan] cũng có
thể giúp cho những tín đồ này có thể phát khởi được lòng tôn kính chân
thành đối với những truyền thống tu tập khác với truyền thống tu tập
của riêng họ. Tôi thường lên tiếng nói rằng
trên bình diện tín ngưỡng cá nhân, ta
có thể tuân theo nguyên tắc một chân lý, một tôn giáo nhưng đồng thời,
trong khung cảnh của một xã hội rộng lớn hơn thì chúng ta nên dung
dưỡng nguyên tắc nhiều chân lý, nhiều tôn giáo. Tôi
không thấy có điều gì nghịch lý giữa hai nguyên tắc này.
Tôi không có ý phát biểu đề nghị cho rằng
tôn giáo là điều không thể thiếu để đưa đến một đời sống đức hạnh vững
bền, hoặc nói cho cùng, để đưa đến một hạnh phúc chân thực. Cuối
cùng, cho dù ta là một người có niềm tin [vào tín ngưỡng] hay không có
niềm tin [vào tín ngưỡng] thì điều cần thiết là
ta phải là một con nguời tốt,
có lòng nhân hậu và có một trái tim từ ái ấm áp. Dựa trên tương quan
của mối liên hệ tương tức (interconnection) sâu sắc, ta sẽ có được
lòng quan hoài sâu đậm dành cho người khác, và đây mới chính là tinh
túy của giáo lý của tất cả những nền tôn giáo lớn trên thế giới.
Trong những cuộc du hành của tôi, tôi luôn luôn quan niệm rằng trọng
trách đầu tiên nhất của tôi là cổ võ làm cho tăng trưởng những đức
hạnh tốt lành căn bản nhất của loài người - (1) sự cần thiết và sự quý
trọng giá trị của tình yêu thương, (2) khả năng tự nhiên của chúng ta
[để phát triển] lòng từ bi nhân ái, và (3) sự cần thiết của một tình
cảm chân thành dành cho đồng loại. Cho dù khuôn mặt kia có mới lạ đến
mấy chăng nữa, bộ quần áo và cung cách hành xử kia có khác biệt đến
đâu chăng nữa thì cũng không có một hố ngăn cách nào đáng kể giữa
chúng ta và những người khác.
Lần đầu tiên khi tôi được nhìn thấy một tấm
hình chụp Trái Đất này từ bên ngoài không gian, hình ảnh đó đã đánh
động tâm thức tôi và đem tôi trở về nhà để thấy rằng hành tinh này
mới thật nhỏ bé và mỏng manh biết bao và những tranh chấp của ta mới
thật hèn mọn biết bao. Sống trong những dị biệt do vọng tưởng, chúng
ta dường như quên mất đi rằng những nền tôn giáo khác nhau của thế
giới, những chủ thuyết và những hệ thống chính trị được ra đời cốt là
để phục vụ nhân loại chứ không
phải để hủy hoại nhân loại. Khi tôi đi du hành đến xứ
Cộng Hoà Liên Bang Nga-Xô trước đây vào cuối thập niên 1970, tôi đã
gặp phải một tâm lý sợ hãi hoang tưởng lan rộng, ngay cả giữa những
người dân Nga bình thường cũng vậy, họ đều mang mối sợ hãi là thế giới
Tây Phương thù ghét họ nhiều đến nỗi có thể sẵn sàng xâm lăng đất
nước họ. Lẽ dĩ nhiên, tôi biết rằng đây chỉ thuần tuý là [sản phẩm
của] vọng tưởng.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta nên có
một nhận thức căn bản về tính nhất thể (oneness) của nhân loại và phải
xem đây là nền tảng cho tất cả những quan niệm của chúng ta về thế
giới này và về những thử thách của thế giới ấy. Từ tình trạng tăng
nhiệt toàn cầu (global warming) rất nguy ngập, cho đến sự cách biệt to
lớn giữa người giàu và người nghèo, từ sự leo thang của tình trạng
khủng bố toàn cầu cho đến những khủng hoảng tranh chấp theo vùng miền,
chúng ta đều cần đến một sự chuyển đổi căn bản trong thái độ và trong
tâm thức của chúng ta -- [chúng ta cần] một cái nhìn rộng lớn bao quát
và toàn diện hơn.
Là một tập thể xã hội, chúng ta cần phải
chuyển đổi thái độ căn bản của chúng ta đối với cách thức chúng ta
giáo dục những thế hệ non trẻ hơn ta. Trong hệ thống giáo dục hiện
đại, có một điều gì đó thật thiếu sót từ ngay trong trứng nước khi
nói đến việc giáo dục một trái tim nhân bản (a human heart). Trong
khi tất cả mọi người đang đào xới câu hỏi quan trọng này thì tôi có
niềm hy vọng rằng chúng ta có thể cải đổi lại tình trạng mất quân
bình hiện nay giữa sự phát triển của bộ óc với sự phát triển của con
tim của chúng ta.
Để có thể khuyến khích giúp tăng trưởng tấm
lòng từ bi nhân ái to lớn hơn, chúng ta cần phải quan tâm một cách đặc
biệt đến vai trò của phụ nữ. Những bà mẹ đã phải mang thai nhi trong
nhiều ngày tháng ngay trong cơ thể của mình, và từ một góc nhìn dựa
trên sinh vật học thì người phụ nữ nói chung có thể mang trong người
một sự nhạy cảm sâu sắc hơn trong con tim và một khả năng thấu cảm
(empathy) mạnh mẽ hơn. Người
thầy đầu tiên dạy cho tôi về tình yêu thương và lòng từ bi chính là mẹ
của tôi, là người đã ban cho tôi tình yêu thương cực
độ. Tôi không có ý củng cố bằng cách này hay cách khác quan niệm
truyền thống cho rằng vị trí của người đàn bà hạn chế đóng khuôn trong
căn nhà [gia đình]. Tôi tin rằng hiện nay đang là thời điểm mà người
phụ nữ có thể dấn thân nhiều hơn trong tất cả những lãnh vực của xã
hộ nhân loại, trong một thời đại mà định nghĩa về lãnh đạo được dưa.
trên giáo dục và khả năng liên hệ đến tâm trí, chứ không phải dựa trên
sức mạnh của cơ thể. Điều này có thể giúp thiết lập một xã hội bình
đẳng và từ bi nhân ái hơn.
Nói chung, tôi cảm thấy lạc quan về tương
lai. Trước đây ngay từ những thập niên 1950 và 1960, người ta đã tin
rằng chiến tranh là một tình trạng không thể tránh được của nhân loại
và những tranh chấp chỉ có thể được giải quyết qua việc sử dụng bạo
lực. Ngày hôm nay, cho dù những tranh chấp và mối đe doạ khủng bố vẫn
tiếp tục xảy ra, nhưng phần lớn con người đều có một lòng quan tâm
chân thành về hoà bình thế giới, ít để tâm hơn vào việc đề ra những
chủ thuyết và có những cam kết gắn bó hơn vào sự chung sống hoà đồng
(coexistence).
Những thay đổi nhanh chóng trong thái độ
của chúng ta đối với Trái Đất này cũng là một nguồn hy vọng. Cho đến
mới gần đây, chúng ta đã tiêu dùng nhiên liệu của quả địa cầu này một
cách hết sức vô tâm giống như là những nhiên liệu đó sẽ vĩnh viễn
không bao giờ hết. Ngày nay, không những cá nhân mỗi người mà ngay cả
các cơ quan chính quyền cũng đều tìm kiếm một hệ thống kiến trúc thái
sinh học mới (a new ecological order). Tôi vẫn hay nói đùa rằng mặt
trăng và những vì tinh tú nhìn thấy rất đẹp, nhưng nếu có ai trong
chúng ta phải thử sinh sống ở trên trăng sao thì chúng ta sẽ vô cùng
khốn khổ. Hành tinh xanh của chúng ta là môi trường sống tuyệt vời
nhất mà ta biết đến. Sự sống
của hành tinh xanh ấy là sự sống của chúng ta, tương lai của hành tinh
ấy là tương lai của chúng ta. Bây giờ Bà Mẹ Thiên
Nhiên đang lên tiếng cho chúng ta biết là chúng ta phải hợp tác với
bà. Đối diện với những vấn đề toàn cầu như vậy khi mà hậu quả của
căn nhà kính (greenhouse effect) và sự suy hoại của lớp hoá học o-zon
(ozone layer) đang xảy ra thì những cơ quan tự trị hay tự mỗi một quốc
gia sẽ trở thành bất lực. Bà mẹ của chúng ta đang dạy cho chúng ta
bài học về một trách nhiệm hoàn vũ (universal responsibility).
Thế kỷ thứ 20 đã trở thành một thế kỷ của
tranh chấp đổ máu; trái với cái khởi đầu băng hoại này, thế kỷ 21 có
triển vọng trở thành một thế kỷ của đối thoại, khi mà lòng từ bi nhân
ái, hạt mầm của bất bạo động, có thể trổ hoa. Nhưng chỉ những lời cầu
chúc tốt lành sẽ không thể đủ. Một cách hết sức nghiêm cẩn, chúng ta
phải toàn tâm toàn ý tìm câu trả lời cho câu hỏi liên quan đến sự leo
thang của vũ khí và có những cố gắng khắp nơi trên thế giới để đưa
đến một hình thức giải trừ quân bị rộng lớn hơn (greater external
disarmament).
Những phong trào nhân loại to lớn phát xuất
từ những đề xướng của những cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Nếu
bạn cảm thấy là bạn không thể tạo được một ảnh hưởng gì [trong những
phong trào này] thì người ngồi kế bên bạn cũng sẽ có thể chán nản ngả
lòng, và một cơ hội to lớn quý báu có thể sẽ bị đánh mất. Ngược lại,
mỗi nguời trong chúng ta có thể tạo cảm hứng cho người khác chỉ thuần
bằng cách cố gắng phát khởi những tác ý vị tha trong chính chúng ta --
và bước vào thế giới này bằng một trái tim và một tâm trí được tôi
luyện bởi lòng từ bi nhân ái.
---------------------------------
(Trích nhật báo Washington Post, Chủ Nhật,
ngày 21 tháng 10, 2007; Trang B01:
http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2007/10/17/AR2007101701140.html)
Tâm-Bảo-Đàn chuyển Việt ngữ để kỷ niệm ngày
17 tháng 10, 2007 nhân dịp đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Huy Chương
Vàng Quốc Hội Hoa Kỳ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Điện thư:
tam_bao_dan@yahoo.com; Trang nhà:
http://www.vietvajra.org