Lời nói đầu: Trong bài nói chuyện về 20 năm thành lập Làng
Mai, Sư Ông có kể về thời gian viết cuốn sách Đường Xưa Mây Trắng.
Lúc đó Sư Ông tin rằng người đọc cũng sẽ có nhiều hạnh phúc như khi
Sư Ông viết cuốn sách đó. Sau khi được dịch ra tiếng Anh, sách tiếp
tục được dịch ra nhiều thứ tiếng khác và được phổ biến rộng rãi khắp
nơi kể cả Trung Quốc. Mười ba năm sau, Paul Williams, một nhà văn và
phê bình văn học người Mỹ, trong cuốn "The 20th Century's Greatest
Hits: A Top 40 List, what works of art should be remembered and why?
(nhà xuất bản Forge/St Martin năm 2000, ISBN 0-312-87391-3) đã chọn
cuốn Đường Xưa Mây Trắng, bản dịch tiếng Anh của Mobi Ho, làm "Hit"
thứ 12. Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ. Sư cô Hương Nghiêm dịch.

Tiếng Pháp
|

Tiếng Thái Lan
|

Tiếng Trung Hoa
|

Tiếng Việt tại Việt Nam 1
|

Tiếng Ý
|

Tiếng Anh-Mỹ
|

Tiếng Trung Hoa-
Hồng Kông
|

Tiếng Việt -Lá Bối
|

Tiếng Việt - Mỹ

Tiếng Hindi - Ấn
Độ

Tiếng Đại Hàn

Tiếng Đức

Tiếng Nga

Tiếng Việt - Việt Nam 2

Tiếng Anh-London

Tiếng Đức tái bản
|
Đây là cuốn sách viết về cuộc đời của Siddhartha Gautama, nhà triết
học và lãnh đạo Tôn giáo người Ấn, sống trong thế kỷ 500 trước Thiên
chúa. Sách được viết bằng tiếng Việt vào cuối thế kỷ hai mươi tại
Pháp Quốc và tác giả là thiền sư Nhất Hạnh, vừa là thi sĩ, học giả
và người tranh đấu cho hòa bình. Thầy đã từng qua Bắc Mỹ châu trong
thời cao điểm của chiến tranh Việt Nam để kêu gọi hòa bình, tìm cách
lên tiếng nói để phá tan những quan điểm sai lầm đã tạo ra chiến
tranh Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thầy Nhất Hạnh đã có nhiều dịp nói chuyện
với sinh viên học sinh, giáo sư, nhân viên chính phủ, và giới kêu
gọi hòa bình. Năm 1967, Thầy được mục sư Martin Luther King, Jr.,
người lãnh đạo giới kêu gọi quyền công dân, đề cử giải thưởng hòa
bình Nobel.
Cuốn sách đã được viết thật sâu sắc về cuộc đời Đức Phật, một tác
phẩm lớn của một nhà văn lớn thuộc hạ bán thế kỷ 20. Dù Thầy chưa
được nhiều người trong giới văn sĩ biết đến nhưng Thầy đã là tác giả
của hơn 30 tác phẩm quan trọng mà tôi nghĩ sẽ có giá trị lâu dài,
trong đó gồm có tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, nhiều sách dịch giảng
kinh điển Phật Giáo và rất nhiều sách dạy sự thực tập trong đời sống
hàng ngày nhắm vào quần chúng đông đảo, trong đó có hai cuốn nổi
tiếng được lưu hành rộng rãi là Peace is Every Step (An lạc từng
bước chân) và Living Buddha, Living Christ (đã tái bản nhiều lần).
Thật ra tất cả những gì Thầy Nhất Hạnh muốn chia sẻ với chúng ta
trong những tác phẩm của Thầy đều có thể được tìm thấy trong cuốn
Đường Xưa Mấy Trắng. Tôi có biết một số tác phẩm do các tác giả
người Âu kể lại về cuộc đời của Bụt như cuốn Siddhartha của Hermann
Hesse (1922) và cuốn The Light of Asia của Sir Edwin Arnold (1879),
nhưng tôi vẫn nghĩ rằng chưa có cuốn nào hay như cuốn Đường Xưa Mây
Trắng. Đó quả là một tác phẩm văn học trung thực ghi lại một cách
đầy đủ đời sống và công trình của một nhân vật lỗi lạc đã gây hứng
cảm cho biết bao nhiêu pho tượng mỹ thuật có giá trị. Dựa theo những
tài liệu hiện còn lưu trữ mà Thầy đã nghiên cứu rất kỹ càng, Thầy
cho thấy Bụt không phải là một đấng thần linh, Bụt là một người như
chúng ta, cũng đã từng khổ đau như chúng ta. Thầy rất lưu tâm đến
nội dung của từng tài liệu được nghiên cứu, Thầy so sánh, đối chiếu,
chiêm nghiệm để biết rõ ai là người ghi chép lại, những phần nào
người ghi chép muốn nhấn mạnh, muốn bỏ qua hay phóng đại. Nhờ vậy mà
Thầy đã thuật lại cuộc đời của Bụt với tất cả xúc cảm và niềm tin
của một người biết rất rõ không kém ai trong thời đại này về từng
chi tiết và cảm nghĩ đã xảy ra cho Bụt và những người đương thời.
Độc giả có thể cảm nhận được điều đó trong khi đọc cuốn sách và niềm
tin càng tăng khi theo dõi từng câu chuyện được ghi chú rất rõ ràng
trong phần phụ lục cuối cuốn sách.
Tuy nhiên cái điểm làm nổi bật cuốn Đường Xưa Mây Trắng không phải
chỉ vì nó đã diễn bày lại một cách trung thực những sự trạng dựa
theo Tạng kinh Pali, một tạng kinh đã có mặt từ hơn 2500 năm nay và
được xem là nền tảng của đạo Bụt từ xưa đến giờ. Cái giá trị lớn
nhất của Đường Xưa Mây Trắng, cũng như của các tác phẩm bạn được sắp
vào hạng có tầm vóc lớn trong mục liệt kê này, cái giá trị đó nằm ở
chỗ là đã nói lên được cái tâm thức, cái tình cảm, cái kinh nghiệm
của một con người ở thế kỷ 20. Jorge Luis Borges (bài #32), trong
tác phẩm của ông với tựa đề 'Pierre Menard, Author of the Quixote',
đã vẽ ra được một Don Quixote của thế kỷ 20 dù vẫn sử dụng một cách
trung thành nguyên bản của thế kỷ 17, bởi vì tác giả là một con
người của thế kỷ 20 với tâm thức và cá tính của một con người ở thời
đại mới.Cho nên "Không phải là điều oan uổng dù 300 năm dài đã trải
qua với bao nhiêu biến cố khốc liệt." Vì vậy mà chúng ta vẫn có thể
nhận ra được bộ mặt của chiến tranh Việt Nam trong cuốn sách ghi lại
cuộc đời của đức Bụt và tôi không khỏi giật mình khi nhìn thấy lại
qua cuốn sách này cái lý tưởng mạnh mẽ đã lôi cuốn tôi khi tôi còn
trẻ, tức là cái khoảng thời gian của những năm sáu mươi, cái thời
của ban nhạc Beattles, của Mục sư Martin Luther King và chiến tranh
Việt Nam.
Ta có thể cảm nhận được niềm tự hào của thầy Nhất Hạnh khi Thầy khám
phá ra sự thật là đức Bụt, con trai của một gia đình quý tộc Ấn, đã
cứng rắn đối đầu với mọi áp lực từ gia đình cho đến ngoài xã hội khi
Ngài cho phép người thuộc giai cấp 'tiện dân' đụng vào thân thể Ngài
và đi xa hơn nữa là nhận họ làm đệ tử của Ngài. Ngài đã dõng dạc
tuyên bố: "Con đường của chúng ta là con đường của bình đẳng. Chúng
ta không công nhận giai cấp. Dù chúng ta có gặp nhiều khó khăn khi
chấp nhận cho Sunita xuất gia, chúng ta vẫn phải có can đảm làm điều
đó; thế hệ mai sau sẽ nhớ ơn chúng ta vì lần đầu tiên trong lịch sử,
chúng ta đã dám mở cánh cửa này."
Rõ ràng mục đích của Thầy Nhất Hạnh khi viết cuốn Đường Xưa Mây
Trắng chính là để trao truyền cái tinh thần vô úy đó cho độc giả,
cũng tựa như Henry David Thoreau đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của những
lời Bụt dạy và thánh Gandhi thì chịu ảnh hưởng của Thoreau (bài #34)
và các vị Đạt Lai Lạt Ma đương thời chịu ảnh hưởng của Bụt và các đệ
tử của Ngài ( bài #38). Tôi có thể nói rằng khó có ai đọc Đường Xưa
Mây Trắng mà không cảm thấy lòng như ngây ngất say vì những tình cảm
cao thượng cứ rạt rào từ trang này sang trang khác như những đợt
sóng. Suốt cả tác phẩm là một thiên anh hùng ca tỏ bày lòng ngưỡng
mộ chân thành trước một lối sống gương mẫu đầy những hành vi và mục
đích cao cả, đọc thấy rất cảm động vì trong văn chương thời nay
những điều này rất ít ai đề cập tới. Đọc xong cuốn sách, tôi thấy
mình bị thu hút mãnh liệt bởi nhân cách vĩ đại của Bụt qua cái nhìn
và ngòi bút của Thầy Nhất Hạnh. Đường Xưa Mây Trắng là mối tình nồng
nàn giữa Thầy và đức Bụt, cũng như tác phẩm Autobiography of a Yogi
của Yogananda; Yogananda nói mình là người tình chung thủy của đấng
tạo hóa, Thầy Nhất Hạnh cũng cho thấy Thầy là người tri kỷ của Bụt
(chữ Thầy giống như chữ sensei tiếng Nhật). Thầy thương Bụt với tấm
lòng của một người đứng giữa một bối cảnh lịch sử phải chứng kiến
biết bao nhiêu con người đẹp của thế hệ Thầy, bao nhiêu giá trị đẹp
đều bị tiêu hủy một cách vô lý bởi chiến tranh và Thầy đã tìm thấy
được sự nương tựa nơi tấm gương trong sáng của Bụt và lấy cơ hội đó
để giúp đỡ đồng bào ruột thịt.
Dù tôi chưa hề là một tín đồ tôn giáo, tôi vẫn có thể nói rằng đạo
Bụt qua cách giảng dạy của Thầy Nhất Hạnh là một triết lý sống rất
thực tiễn dựa trên kinh nghiệm của bản thân, không phải là một tôn
giáo như bao nhiêu tôn giáo khác với những tín điều làm mình e ngại.
Đây cũng là cái thấy của tôi khi tôi nghiên cứu kinh Dịch, đời sống
tâm linh phải được hình thành từ những cố gắng cá nhân cho mình thấy
rõ cái gì là thực và có lợi lạc. Nói một cách khác, niềm tin của
mình được đặt trên căn bản của sự tự thực chứng chứ không phải do
những lời dọa dẫm gây ra. Trong chương 62 của Đường Xưa Mây Trắng,
Thầy Nhất Hạnh đã trích dẫn lời Bụt dạy một nhóm thanh niên trong
một làng nọ: "Này các bạn, các bạn hiện có đầy đủ tư cách để phán
xét những gì nên tin và nên chấp nhận, và những gì không nên tin và
không nên chấp nhận. Tôi xin nhắc lại: chỉ nên tin và chấp nhận
những gì hợp với trí xét đoán của mình, những gì được các bậc hiền
nhân chấp nhận và khuyến khích, những gì mà nếu đem ra thực hành sẽ
đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác. Những gì trái
chống lại thì nên từ chối, đừng chấp nhận." Lời dạy này đâu có
phải là cái cách mà các tôn giáo khác thường trình bày.
Là một văn sĩ người Mỹ, tôi đã từng được học về các nhà thơ như
Emerson, Clemens, Ginsberg, Dylan, Vonnegut, Faulkner, Jefferson và
nhiều vị khác nữa, tôi thấy cái triết lý sống của họ cũng chẳng khác
gì Đường Xưa Mây Trắng. Khi tôi được đọc Bản tuyên ngôn về nhân
quyền thế giới (Universal Declaration of Human Rights) tôi thấy đó
là một bài thơ diễm lệ hơn là một bản văn chính trị. Cho nên khi tôi
đọc những tác phẩm của thầy Nhất Hạnh bằng tiếng Anh hay bằng tiếng
Việt, những mẫu chuyện ghi lại từ những tài liệu bằng tiếng Pali,
Sanskrit, và Hán văn, tôi cũng thấy đó là những áng văn tuyệt hay,
thanh thoát nhẹ nhàng, không phải là những bản giáo điều khô khan.
Điều làm tôi thương Thầy hơn cả là khi Thầy quy tụ được một số ít
Phật tử giúp Thầy đối phó với tình trạng chiến tranh đang bùng nổ
chung quanh, Thầy đã soạn ra một số quy luật dựa theo những gì Bụt
dạy để giúp cho các tác viên xã hội nuôi dưỡng được lý tưởng từ bi
cứu khổ của mình trong đời sống hàng ngày. Quy luật thứ nhất mà Thầy
cho là quan trọng nhất là: "Không được thờ làm thần tượng bất cứ
một chủ nghĩa hay một lý thuyết nào, kể cả những chủ nghĩa và lý
thuyết Phật giáo. Những hệ thống giáo lý trong đạo Bụt phải được
nhận thức như những pháp môn hướng dẫn tu tập mà không phải là những
chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng." Đó là châm ngôn mà
tôi nghĩ tất cả các tôn giáo khác cần nêu cao.
Thầy Nhất Hạnh đã chứng kiến ngay trên quê hương của mình bao nhiêu
đồng bào già trẻ lớn bé đã bị tiêu hủy một cách thảm khốc bởi chiêu
bài ý thức hệ, cho nên khi Thầy ghi lại cuộc đời của Bụt, Thầy không
đưa ra một loạt những ý niệm để mình thờ phụng hoặc phải sống chết
vì nó. Thầy đã rất ý thức về sức tàn phá của những chiêu bài ý thức
hệ. Do đó Thầy đã tạo cơ hội để cho độc giả được nhìn thấy Bụt là
một con người như mọi người, chỉ vì Ngài biết cách quán sát mọi sự
mọi việc với một nhãn quan mới, Ngài đã giác ngộ và giải thoát mình
ra khỏi mọi sai lầm của gia đình hay thầy bạn, đưa mình tới con
đường tự do an lạc theo đó mình biết phải sống như thế nào cho chính
bản thân mình và những người chung quanh. Và điều này, theo lời Bụt
dạy, không ai mà không làm được và dù ở trong tình huống nào, ta
cũng biết cách để tạo ra hạnh phúc.
Lối kể chuyện của Thầy thật hấp dẫn làm độc giả say mê dù không nhất
thiết phải chọn con đường tu đạo. Chỉ cần để chút thì giờ và để hết
tâm ý theo dõi và thưởng thức câu chuyện cho trọn vẹn là đủ. Không
có gì phải ràng buộc, "không có gì phải lưỡng lự" đúng như John
Lennon đã nói.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại bàn thêm về khía cạnh nghệ thuật của
tác phẩm, về kỹ thuật dựng chuyện của tác giả, câu chuyện thường bắt
đầu từ đâu, đó là điểm quan trọng nhất; tôi vẫn thường tự hỏi Thầy
đã học được ở đâu cái bí quyết sở trường này. Ai đang nói, ai đang
trình bày sự kiện, dĩ nhiên là tác giả, nhưng Thầy thường dùng lối
kể chuyện dựa trên quan điểm của một nhân vật phụ, thường là một
nhân vật trẻ tuổi như trong Đường Xưa Mây Trắng, chúng ta được gặp
chú bé chăn trâu Svastika trước tiên, chú bé thuộc giai cấp tiện dân
và sau này là một thầy tỳ khưu trẻ tuổi.
Khi tìm hiểu về cuộc đời của chính Thầy Nhất Hạnh, mình mới hiểu rõ
vì sao cuốn Đường Xưa Mây Trắng bắt đầu với một nhân vật trẻ tuổi,
chú bé Svastika, lúc đầu mình tưởng Thầy làm thế để lôi cuốn giới
độc giả trẻ tuổi. Sự thật là khi Thầy được chín tuổi, tức là nhỏ hơn
chú bé Svastika hai tuổi, Thầy đã thấy trên bìa một tạp chí hình của
đức Bụt ngồi tọa thiền trên cỏ thật là thanh thản và hình ảnh này đã
làm Thầy xúc động mãnh liệt. Sau đó Thầy có dịp được cùng thầy cô
giáo và các bạn đi du ngoạn trên núi; Thầy đã tách khỏi đám bạn và
trèo lên núi một mình vì Thầy nghe nói có một đạo sĩ ẩn tu trên núi
đó và Thầy phải tìm cách gặp vị đó cho bằng được dù có thể vì thế mà
bị lạc trong rừng hay bị thầy cô giáo la rầy. Cho nên mình đã hiểu
vì sao thầy Nhất Hạnh đã kể cuộc đời của Bụt qua cái nhìn của một
chú bé chăn trâu, mà theo truyền thuyết chú đã bất ngờ gặp Bụt lúc
đó là một đạo sĩ đang tọa thiền dưới một gốc cây bên mé rừng; chú bé
đã bị thu hút bởi nụ cười hiền hậu của vị đạo sĩ cũng như cách tiếp
xử ân cần của Ngài đối với chú là một người thuộc giai cấp 'tiện
dân'. Svastika liền đi cắt cỏ đem về cho vị đạo sĩ làm gối ngồi
thiền và lót chỗ ngủ. Vì thế, chú bé là người đầu tiên được gặp Bụt
và hầu chuyện với Bụt sau khi Ngài thành đạo.
"Thưa Thầy, hôm nay con trông Thầy rất khác lạ." Đúng là một chứng
nhân độc đáo! Trong khoảnh khắc đó, chú bé Svastika thay mặt tất cả
chúng ta, cái thế giới được gọi là không Bụt để chứng kiến sự hình
thành của một đức Bụt. Đến năm Svastika được hai mươi mốt tuổi, anh
được Bụt mời đi xuất gia và anh đã rụt rè chấp nhận. Sau đó, theo sự
sắp xếp khéo léo của Thầy, Svastika có cơ hội thuật lại cho bà
Gotami nghe về những gì mà anh đã được tận mắt thấy hồi Bụt vừa
thành đạo; Thầy còn công nhận rằng chính Svastika và các bạn trẻ
trong làng đã gọi Bụt là Bụt, tức là 'người tỉnh thức'. Sau đó thì
bà Gotami kể cho Svastika nghe từng chi tiết về thời thơ ấu của Bụt.
Svastika được làm bạn với Rahula, con trai của Bụt, cũng đã được
xuất gia. Và câu chuyện về cuộc đời của Bụt cứ theo vậy mà từ từ
diễn tiến qua cái nhìn của Svastika. Ta thấy được sự thành đạt của
Bụt trong khi đi hoằng pháp, đi đâu Bụt cũng tiếp nhận được rất
nhiều đệ tử, gồm nhiều giới trẻ và giới thương gia giàu có, cũng
giống như các nghệ sĩ nhạc Rock nổi tiếng ngày nay đi đâu cũng có
người hâm mộ. Ta cũng thấy được những khó khăn của Bụt khi Tăng đoàn
thiếu hòa khí, khi có những mưu toan chống lại Bụt, những đố kỵ hiềm
khích từ những đạo sĩ của các môn phái khác. Thầy cũng kể rõ xuất xứ
của từng bài pháp của Bụt mà sau này trở thành những kinh quan trọng
và những đoạn văn này Thầy viết thật là xuất sắc.
Lâu lâu nhân vật Svastika lại xuất hiện để nhắc lại quan điểm của
mình, cho ta thấy người thầy tu trẻ này là một người rụt rè khiêm
tốn và rất trung thành với Bụt; đôi khi Svastika cũng hơi thất vọng
về sự thực tập của mình, thấy mình còn nhiều vụng về và thiếu sáng
suốt.
Nói tóm lại, cuốn sách được viết thật nhẹ nhàng dễ đọc và rất lôi
cuốn, vì người viết đã không viết nó với tư cách của một giảng sư.
Dĩ nhiên là trong nhiều tác phẩm khác, Thầy có hướng dẫn độc giả
cách thiền tập khi điện thoại reo hay khi bắt đầu cho máy xe nổ, và
lúc nào lời dạy của Thầy cũng nhẹ nhàng ôn tồn và đầy tình thương.
Trong Đường Xưa Mây Trắng Thầy chỉ muốn mời chúng ta đi gặp bậc giác
ngộ qua sự hướng dẫn của một chú bé thật dễ thương, thật hồn nhiên
và giản dị, người đã tình cờ may mắn được gần gũi đức Bụt trong
những ngày trước và sau khi Ngài thành đạo và cho đến khi Ngài nhập
diệt bốn mươi lăm năm sau.
Cô Mobi Ho đã dịch tác phẩm từ tiếng Việt sang tiếng Anh một cách
xuất sắc và chắc là sách đã hoặc sẽ được dịch ra nhiều thứ tiếng
khác. Có thể đó sẽ là một trong những tác phẩm có giá trị nhất, có
giá trị không phải do số lượng sách bán được mà do ở mức độ ảnh
hưởng của tác phẩm đó trong tương lai. Các độc giả tương lai không
cần phải chuẩn bị gì cả. Bạn có đủ sáng suốt để biết những điều nào
có thể tiếp nhận được hay không tiếp nhận được trong khi đọc tuyệt
tác này cũng như những tuyệt tác khác được liệt kê trên danh sách 40
tác phẩm có giá trị trong thế kỷ 20. Cái đẹp nó nằm trong mắt và
trong tâm của mỗi độc giả.
|