THÔNG
TIN SINH HOẠT PHẬT SỰ |
THEO DẤU THIỀN SƯ III |
Lời Cáo Bạch
Đại Trùng Tu Tổ Đình Từ Đàm
Chùa Từ Đàm
Chùa TỪ ĐÀM
Võ Văn Tường - Huỳnh Như Phương
Quê hương tôi miền Trung
Sớm hôm chuông chùa nhẹ rung?
Ôi, uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng?
Tiếng nhạc nhẹ nhàng của bài hát Từ Đàm quê hương tôi của Nguyên Thông
nhắc nhở biết bao du khách đã từng đến thăm Huế không bao giờ quên những
phút thư thái, tĩnh lặng của tâm hồn ở ngôi chùa cổ danh tiếng này.
Chùa Từ Đàm tọa lạc ở đường Từ Đàm, thuộc phường Trường An, thành phố
Huế.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung (đời thứ 34 dòng Lâm Tế) khai sơn
vào cuối thế kỷ XVII, đời vua Lê Hy Tông, trên đồi Long Sơn.
Nguyên chùa có tên là chùa Ấn Tôn. Vào đầu thế kỷ XVIII, năm 1703, Chúa
Nguyễn Phúc Chu đã ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Ấn Tôn Tự". Đến năm
Thiệu Trị nguyên niên (1841), chùa được đổi tên là Từ Đàm để tránh tên
húy của vua.
Hơn 150 năm qua, chùa Từ Đàm đã gắn bó thiết thân với đời sống tinh thần
người dân xứ Huế nói riêng, với Phật tử miền Trung nói chung.
Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng,
Qua bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn?
Chùa đã được các vị trụ trì tiền bối cho trùng tu sửa chữa nhiều lần, đó
là Hòa thượng Thiệt Vinh, Đại sư Tế Ngữ kế tục Ngài Minh Hoằng - Tử
Dung. Đến thế kỷ XIX, Hòa thượng Đạo Trung và Đại sư Từ Vân đã tổ chức
trùng kiến ngôi chùa, đúc đại hồng chung. Sang nửa thế kỷ XX. Sư bà Diệu
Không đã có thời gian trùng tu, lập chùa sư nữ năm 1932. Sau một thời
gian, Hội Phật học Trung Việt đặt trụ sở ở chùa, đã tổ chức xây ngôi
chánh điện mới theo kiểu "chùa hội".
Năm 1939, bà Karpelès, Tổng thư ký Viện Phật học Phnom-Pênh (Campuchia)
đã thỉnh một cây bồ-đề được chiết cành từ cây bồ-đề nơi đức Phật
Thích-ca thành đạo ở Ấn Độ tặng cho chùa, đem trồng ở sân trước.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, cây bồ-đề đã tạo bóng uy nghiêm cho ngôi chùa
và che mát cho hàng triệu người Phật tử, khách tham quan.
Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm,
Nơi Bắc Nam nối liền một nhà?
Vào năm 1951, chùa là nơi họp 51 đại biểu Phật giáo toàn quốc chuẩn bị
thống nhất Giáo hội Phật giáo. Tại đại hội này, Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết được suy tôn làm Hội chủ. Và cũng trong đại hội này, lá cờ Phật
giáo thế giới lần đầu tiên đã được treo ở chùa.
Đến năm 1961, chùa được Hòa thượng Thích Thiện Siêu cùng với Hội Phật
học tổ chức xây dựng các cơ sở phụ của chùa. Đây là ngôi chùa với những
công trình kiến trúc hiện đại nhưng vẫn giữ đường nét truyền thống, theo
kiểu kiến trúc "chùa hội" mẫu mực.
Quê hương tôi là đây,
Sớm hôm hương trầm nhẹ bay,
Vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy?
Ôi, thân yêu bóng chùa Từ Đàm, Từ Đàm ơi!
Lời ca vang trong tận đáy lòng của những ai còn lưu giữ những kỷ niệm về
mái chùa thân yêu này.
CHÙA TỪ
ĐÀM
Chùa tọa lạc ở phường
Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chùa do Hòa thượng Minh
Hoằng - Tử Dung dựng vào khoảng năm 1695. Năm 1703, Chúa Nguyễn Phúc Chu
ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Ân Tôn Tự". Đến năm 1841, Vua Thiệu Trị
đổi tên chùa là Từ Đàm. Cấu trúc chung của chùa gọi là "kiểu chùa Hội".
Sau cổng tam quan, có cây Bồ-đề do bà Karpeles, Tổng thư ký Viện Phật
học Phnom-pênh (Campuchia) thỉnh từ Ấn Độ qua Việt Nam tặng, được trồng
vào năm 1939. Vào năm 1936, chùa là trụ sở của hội An Nam Phật học. Năm
1951 chùa là nơi họp 51 đại biểu Phật giáo toàn quốc chuẩn bị thống nhất
Giáo hội Phật giáo. Chùa hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
Từ Đàm là ngôi chùa cổ
mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm khai sinh, khoảng 1690. Khi chùa
khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở
phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc. Lúc
đó, chùa chỉ là tranh và nứa với tên gọi là Ấn Tôn. Đến thời Thiệu Trị,
năm 1841, chùa được trùng tu và đổi tên là Từ Đàm.
Khang trang hẳn, nhưng
chùa vẫn phải xây thêm lần nữa, mở rộng ra, cùng với phong trào chấn
hưng Phật giáo năm 1935. Bởi vậy chùa không cổ, kiến trúc 1935 không
phải là kiến trúc cổ, nhưng hợp với nhu cầu của một chùa hội trong thời
thế mới, một ngôi chùa để làm trụ sở cho Hội Phật giáo của cả xứ Trung
kỳ trong vận hội chấn hưng Phật giáo Bắc – Trung – Nam. Từ đó đến nay,
chức năng của chùa Từ Đàm vẫn thế, vẫn là chùa hội, vẫn là nơi hội họp
của đông đảo quần chúng, nhưng không gian kiến trúc của thuở chấn hưng
đã trở thành chật chội với lượng Phật tử ngày càng đông của thời phát
triển. Nhân dịp tu sửa vì dột nát, năm nay chùa mở rộng tầm vóc thêm lần
nữa, nhưng vẫn giữ duyên xưa trong khung cảnh cũ.
Từ Đàm là mây lành. Đức
Phật như mây lành, đem bóng mát đến cho thế gian. Trên bước đường Nam
tiến của dân tộc, hãy tưởng tượng đến những người đầu tiên chọn đất xây
dựng chùa. Trước mắt là đất mới, trên đầu là trời xanh. Có lẽ người đặt
tên chùa đã tưởng tượng như vậy. Trên bầu trời xanh của nắng mới phương
Nam, có đám mây lành tỏa bóng im xuống mặt đất. Đây rồi, nơi bóng im
này, tiếng lành của Đức Phật sẽ âm vang trên đất mới. Từ Đàm là nghe
được tiếng lành của mây, mây chọn đất cho người dựng chùa. Hãy tưởng
tượng nỗi vui của người vừa chọn được đất: người đó chắp tay nhìn chỗ
bóng mây in dấu khi nãy, thầm cám ơn, bỗng thấy bóng của hai bàn tay
mình chắp lại như hai tháp chuông của một ngôi chùa sẽ dựng. Từ Đàm mai
đây sẽ có hai tháp chuông như thế. Ai nghe tiếng chuông Từ Đàm sẽ thấy
trong tiếng chuông có mây, mây bay theo tiếng chuông, ngân nga trong
không trung tiếng lành từ thuở dựng chùa.
Trong đời sống bình dị
như thế của Từ Đàm, bống nhiên lịch sử chọn nơi này làm khởi điểm cho
một phong trào quật khởi, chống kỳ thị tôn giáo. 1963! Lịch sử thế giới
bùng lên ngọn đuốc Việt Nam, và Từ Đàm là đốm lửa xuất phát. 1963 để lại
cho Phật tử một bài học lớn: khi uất ức của Phật giáo cũng là uất ức của
quần chúng, khi tiếng nói của Phật giáo vang lên tiếng nói từ mọi trái
tim, khi đó Phật giáo mới thật là xứng đáng với lịch sử. Ba trăm năm
trước, mây Từ Đàm để lại bóng im; ba trăm năm sau, trăng tròn Phật đản
hiện ra trên mái chùa. Trăng nói gì? Hãy hành động, hãy dũng cảm, nhưng
đừng quên dũng cảm là một với từ bi, cho nên bất bạo động là thái độ duy
nhất đúng. Bởi vậy, hãy đọc lại những biểu ngữ trương ra trên sân chùa
năm ấy, hãy nghe lại lời hiệu triệu rắn rỏi của người chỉ huy: trong
quắc thước của quyết tâm, lời nói vẫn là lời nói lành, vì phương châm
vẫn là bất bạo động. Cho nên “lửa từ bi” đã đi vào văn thơ Việt Nam, đã
làm thế giới bàng hoàng sực tỉnh. Suốt mùa tranh đấu, Từ Đàm nằm trong
dây kẽm gai, nhưng tuyệt thực trong chùa vẫn làm xôn xao bát cơm của
người dân trong thành phố. Trong tiếng chuông Từ Đàm hôm nay, có mây bay
qua, có trăng hiện ra, cả mây và trăng đều nói lên lời lành, trong bình
thường của cuộc sống cũng như trong bất thường của biến động. Nơi đây
vẫn lưu dấu hai vầng nhật nguyệt của sử sách Từ Đàm: Hòa thượng Thiện
Siêu và Hòa thượng Trí Quang.
Chùa không phải là cổ
tự, kiến trúc không phải là nét độc đáo của Từ Đàm so với các ngôi của
lớn khác ở Huế. Đặc điểm của Từ Đàm, lạ thay, chính là cái sân chùa và
cây bồ đề giữa sân. Sân chùa là nơi hàng ngàn quần chúng đã tụ họp trong
ngày Phật đảm 1963 để bắt đầu viết lên một trang sử lớn. Cây bồ đề cổ
thụ, to bằng cả bốn, năm vòng tay, tỏa bóng mát xuống sân, vững hơn cột
đồng Mã Viện, tượng trưng cho sức sống Phật giáo giữa lòng dân tộc. Hai
biểu tượng đó của chùa Từ Đàm phải giữ, để kỷ niệm 1963 không phai với
thời gian. Cùng với hai biểu tượng đó, một phòng lưu niệm phải được
thiết kế trong kiến trúc mới, có chức năng như một viện bảo tàng, để gìn
giữ và trưng bày tất cả những kỷ vật, dù lớn dù nhỏ, dù chỉ là một bài
báo, một tranh ảnh, một băng ghi âm, một bài nhạc, một trái lựu đạn, một
băng tang, tất cả những gì có liên quan đến một thời đứng dậy. Từ Đàm là
như vậy, là tinh thần 1963 phải giữ, không phải chỉ là tường vách ngày
xưa.
Từ Đàm là như vậy. Du
khách đến viếng Từ Đàm sẽ thấy Huế của 1963, nhỏ nhắn, hiền lành, nhưng
khi quật khởi thì cả cái đèo Hải Vân cũng chỉ là chiếc cầu rửa chân cho
một cô công chúa. Ai nghe trong tiếng chuông Từ Đàm sẽ thấy mây bay ba
trăm năm trước, trăng tròn Phật đản ba trăm năm sau, và tiếng gió đong
đưa trong lá cây bồ đề trước sân, như gieo tiếng an vui vào lòng mọi
người. Từ Đàm thay đổi để Từ Đàm còn mãi.
(Tạp chí Văn hóa Phật giáo 20)
30.09.2006
|
|