.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)
  Tin tức Phật giáo khắp nơi

Hướng vọng ngày "Về Nguồn"
của Tăng - Ni Việt Nam hải ngoại

  • Huỳnh Kim Quang | 17.09.2007

Là Phật tử, ai mà không hoan hỷ khi nghe thấy chư Tăng, Ni ngồi lại trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp! 

Xưa nay, sự ngồi lại của chư tôn đức Tăng, Ni luôn luôn mang lại những thành tựu lớn lao cho đạo Phật và lợi lạc vô biên cho nhân quần xã hội. 

Nhớ khi xưa, có lần nhóm lục quần Tỳ kheo vì thiên kiến cục bộ đã gây ra nhiều tranh chấp bất hòa trong Tăng đoàn, đức Thế Tôn can gián mà họ cũng không nghe, nên Ngài đã một mình vào rừng an tịnh.  Như voi chúa đi đứng một mình tự tại trong khu rừng vắng, đức Phật thoát ra khỏi những xôn xao, náo động của thế gian và sống những ngày tĩnh lặng ở núi rừng thanh tịnh, nơi ấy Ngài được những chú vượn, chú nai, chú voi và chim muông cung đón và hầu hạ một cách tôn kính!  Sau đó, đại chúng Tỳ kheo đã cùng nhau đến đảnh lễ cung thỉnh đức Điều Ngự trở về trú xứ để tiếp tục hướng dẫn con đường thực nghiệm Chánh pháp vi diệu.

Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn, trong đại chúng Tỳ kheo, có những vị lâu nay vì không thể tuân hành nghiêm mật theo giới hạnh đã móng khởi tâm ý vọng động buông lung, muốn nhân việc đức Phật nhập diệt mà tự tung tự tác.  Trưởng lão Đại Ca Diếp (Maha Kassapa) vì muốn bảo vệ sự toàn vẹn của bản thể thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng đoàn, và cũng vì muốn giữ gìn Pháp bảo và giới luật mà đức Thế Tôn đã một đời giáo huấn, nên triệu thỉnh chư Thánh giả A La Hán ngồi lại để trùng tuyên Tam Tạng Thánh Giáo trong lần kết tập Kinh điển đầu tiên.

Vào thời vua A Dục (Asoka), cùng với tình hình đạo Phật đang phát triển lớn mạnh, sự phân hóa trong đại chúng Tỳ Kheo cũng thật là trầm trọng, vì thế, ngài Mục Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa) đã phát tâm đứng ra vận động đại chúng Tỳ Kheo ngồi lại để củng cố đạo lực và phát huy bản thể thanh tịnh và hòa hợp của Tăng Già.  Qua đó, kỳ kết tập Kinh điển lần thứ 3 đã được thực hiện một cách viên mãn.

Phật Giáo Việt Nam, trải qua hàng thế kỷ cùng với dân tộc chịu cảnh suy vong vì ngoại xâm và nội loạn, nên đã đi vào khúc quanh lịch sử tiêu trầm.  Đến các thập niên đầu thế kỷ 20, chư tôn đức Tăng Già ở ba miền Nam Trung Bắc đã khởi xướng công cuộc chấn hưng toàn diện để phục hưng lại nội lực và phát triển nền Phật Giáo nước nhà.  Công cuộc chấn hưng đã mang lại nhiều thành quả lớn lao, bởi vì nhờ đó mà tập thể Tăng Già Việt Nam có thể cùng nhau ngồi lại để gánh vác trọng trách đối với lịch sử.  Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, rồi sau đó là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã được hình thành.  Tiếc thay, sức mạnh hòa hợp của Tăng Già ấy chỉ đủ sức để vươn lên đứng dậy mà không đủ sức kiên trì để tiếp tục bảo vệ những thành tựu quý giá đã được gầy dựng với bao nhiêu khổ công!   Nạn phân hóa và suy trầm đã bộc phát do sự chống phá của các thế lực bên ngoài, mà cũng do sự đánh mất bản thể thanh tịnh và hòa hợp bên trong nội bộ Tăng Ni!

Ở trong nước, suốt mấy chục năm qua, Phật Giáo Việt Nam mà đặc biệt là cộng đồng Tăng Già đã không có cơ hội ngồi lại trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp, vì sự đánh phá khốt liệt của cơ chế chính trị cầm quyền.  Chính quyền Việt Nam, vào năm 1981, thành lập GHPGVN trong ý đồ thông qua GH này để tập hợp quần chúng và kiểm soát mọi hoạt động của Phật Giáo.  Cũng vì ý đồ ấy, mà chính quyền đã ngăn cấm mọi hoạt động của các tổ chức Phật Giáo nào không chịu nằm trong sự chi phối của họ, như GHPGVNTN.  Tập thể Tăng, Ni trong hai GH, vì vậy đã không thể ngồi lại để cùng nhau góp phần xây dựng và phát triển nền Phật Giáo truyền thống dân tộc.  Điều đau buồn nhất là, chính Tăng, Ni trong hai tổ chức Phật Giáo đã tự mình không thể vượt lên trên những chướng duyên do ngoại nhân áp đặt để lắng nghe, tìm hiểu, cảm thông tâm tư và nguyện vọng của nhau, hầu xây dựng và bảo vệ bản thể thanh tịnh và hòa hợp của Tăng đoàn.  Bình tâm mà xét, Phật Giáo Việt Nam, nói chung không phân biệt Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ Phái, đều là nạn nhân của chế độ, của  thời kỳ lịch sử đen tối nhất của dân tộc và đạo pháp!   Trong Tâm Thư viết tại Quảng Ngãi, ngày 24 tháng 9 năm 1992, Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã nói:

Tất cả chúng ta đều là nạn nhân, GHPGVNTN hay là Giáo Hội gì đi nữa, nói chung các tổ chức Tôn giáo đều là nạn nhân của chế độ Cộng sản.”  

Cùng là thân phận nạn nhân, tại sao không thể thương yêu và đùm bọc lẫn nhau!  Trong ý thức và hạnh nguyện ấy, Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang vào năm 2003, đã thực hiện một chuyến đi lịch sử mà trong suốt ba thập niên Phật Giáo Việt Nam chưa hề chứng kiến.  Đó là Ngài đã đi từ Bắc, đến Trung, rồi vào Nam để thăm viếng, lắng nghe, tìm hiểu, cảm thông tâm tư và nguyện vọng của Tăng, Ni cả nước.  Đi đến đâu, Ngài cũng đều được chư Tăng, Ni cung nghinh đảnh lễ hoan hỷ!  Một hình ảnh cao đẹp và trân quý biết bao giữa những đổ vỡ và bế tắc chung của Phật Giáo Việt Nam!

Ở nước ngoài, sau năm 1975, trước sự bức hại của chính quyền đối với đại khối Phật Giáo Việt Nam, cùng với hàng triệu người Việt khác, hàng trăm Tăng Ni đã bỏ nước ra đi tìm đường tự do để tiếp tục sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp, tiếp độ quần sinh.  Từ biến cố ấy, các cộng đồng Tăng già đã được khởi sinh tại nhiều nước trên thế giới.  Tùy theo, truyền thống Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ Phái mà mình đã cưu mang, chư Tăng, Ni đã tự nguyện phát huy truyền thống ấy nơi hải ngoại.  Trong những truyền thống ấy, có truyền thống GHPGVNTN.  Suốt gần ba thập niên, các tập thể Tăng, Ni dù khác truyền thống vẫn có cùng một hoài vọng và hướng vọng đối với quê hương và đạo Pháp ở trong nước mà GHPGVNTN là tiêu biểu.  Cho nên Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam ở hải ngoại đã nỗ lực làm tất cả những gì có thể làm được để vừa kiến tạo cơ đồ nơi đất khách, vừa hỗ trợ cho Phật Giáo Việt Nam ở trong nước bằng nhiều phương thức khác nhau.  Nhưng, ngược lại, chính sự phát triển đa dạng và rộng lớn của nhiều truyền thống Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ Phái, đồng thời, những ảnh hưởng của thời cuộc, của chính kiến, của lập trường chủ quan phe nhóm ngày càng sâu nặng, đã làm cho Tăng, Ni xa dần bản thể hòa hợp và thanh tịnh của cộng đồng Tăng Già Việt Nam. 

Tình cảnh ấy đã làm cho không ít hàng Phật tử tại gia xót xa, lo lắng, đau lòng!  Chính vì vậy, mỗi khi nhìn thấy chư Tăng, Ni ngồi lại đông đủ ở bất cứ đâu, trong các dịp lễ, chư Phật tử đều cùng nhau tụ hội để bày tỏ sự kính ngưỡng và lòng hân hoan vui vẻ.  Quả thật vậy, nhìn thấy chư Tăng, Ni trong bộ y hậu vàng rực rỡ thanh khiết, qua dáng điệu từ hòa trang nghiêm, tự tại, giải thoát trong từng bước đi, từng cử chỉ, người Phật tử tại gia nào mà không cảm động tôn kính!  Chính qua lòng tôn kính ấy, người Phật tử đã phát khởi tín tâm để hướng cuộc đời mình đến mục tiêu cứu cánh an lạc và giải thoát.

Khi tin Ngày Về Nguồn của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại tổ chức tại Chùa Pháp Vân ở Canada được phổ biến cách nay mấy tháng, từ đó đến nay trong giới Phật tử đâu đâu cũng nghe nói đến sự kiện này với một tấm lòng an lạc và tin tưởng.  Vì trong lòng người Phật tử, đã từ lâu chứng kiến sự trầm trệ và manh mún của tập thể Tăng Già hải ngoại, đều nghĩ rằng Phật Giáo Việt Nam sẽ hưng thịnh khi nào chư Tăng, Ni ngồi lại trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp.  Như trong Thông Báo đầu tiên của Ban Điều Hợp Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại công bố ngày 18 tháng 01 năm 2007 đã nêu ra tôn chỉ và mục đích:

Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại cần tiến đến một sinh hoạt Tăng đoàn mở rộng, hòa hợp và nhịp nhàng, không phân biệt hệ phái, tông môn, giáo hội, hỗ trợ nhau thực hiện các sinh hoạt Tăng sự nhằm hoằng dương Phật đạo, phổ độ chúng sinh.  Sự tồn tại và phát triển của Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại nên đặt nền tảng nơi bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng đoàn, vì Tăng đoàn là gốc rễ cho mọi sinh hoạt tổ chức cành-nhánh của Phật giáo khắp nơi và mọi thời đại.

Đoạn văn trên đã thẩm định một điều rất xác đáng mà lịch sử hai mươi lăm thế kỷ tồn tại của Phật Giáo đã chứng thực, đó là “Tăng đoàn là gốc rễ cho mọi sinh hoạt tổ chức cành-nhánh của Phật giáo khắp nơi và mọi thời đại.”  Tăng đoàn là Tăng Bảo, một trong Tam Bảo mà người con Phật luôn luôn quay về để nương tựa.  Tăng bảo lấy thanh tịnh hòa hợp làm bản thể, vì thanh tịnh hòa hợp chính là thành quả thắng diệu của quá trình thực nghiệm Giới, Định và Tuệ.  Chính bản thể thanh tịnh và hòa hợp ấy đã làm cho Tăng Già thành Tăng Bảo, chỗ quay về của chúng sinh, làm cho Tăng Già thành tai mắt của trời và người.  Trong ý nghĩa đó, khi Tăng đoàn đánh mất bản thể thanh tịnh hòa hợp tức là đánh mất nội lực tự thân, và do đó, ảnh hưởng đến sự tồn vong của vận mệnh Phật Giáo.  Vì vậy, chúng ta hiểu tại sao các thế lực chống phá Phật Giáo luôn luôn nhắm vào bản thể thanh tịnh hòa hợp ấy của Tăng Già để phá hoại. Tăng Già ngồi lại trong tinh thần thanh tịnh hòa hợp tức là vận dụng sức mạnh nội lực tự thân để chuyển hóa những chướng duyên, những chống phá của các thế lực ma quân, và cùng lúc để xây dựng nền tảng vững chắc cho tất cả mọi sinh hoạt của Phật Giáo Việt Nam.  

Ngày Về Nguồn của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại sắp tổ chức tại Chùa Pháp Vân, Canada (từ 21-23 tháng 9 năm 2007) mang đầy đủ ý nghĩa vừa trình bày ở trên.   Đây là một biến cố trọng đại hiếm thấy suốt gần ba chục năm có mặt của Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.  Đây cũng chính là ngày thành tựu tâm nguyện và thao thức mà mọi người Phật tử Việt Nam đã hằng hướng vọng từ bao lâu nay! 

Con xin đốt nén tâm hương đê đầu kính lễ mười phương Tam Bảo và hiện tiền Đại Chúng Tăng Già vân tập trong Ngày Về Nguồn tại trú xứ Pháp Vân, Canada, và nhất tâm cầu nguyện Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại thành tựu đại nguyện phát huy bản thể thanh tịnh hòa hợp để tiến hành mọi Phật sự mang lại lợi lạc vô biên cho nhân quần xã hội. 

 

BBC NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

Thích Nhất Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một  văn nhân, một thi nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán chạy nhất“ (bestsellers)  như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự  Tỉnh thức (The Miracle of Mindulness), Chúa  ngàn  đời, Bụt ngàn đời (Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger)

Thầy Nhất Hạnh  sanh năm 1926, Thầy xuất gia năm 16 tuổi. Chỉ 8 năm sau Thầy dựng lên Trung tâm  Phật giáo  Ấn quang (An Quang Buddhist Institute) tại Sài Gòn. Năm 1961 Thích Nhất Hạnh -người được những  môn đồ  gọi là Thầy- đã xuất ngoại du học tại Hoa Kỳ và giảng dạy môn Tôn giáo đối chiếu tại các đại học Columbia và Princeton. Hai năm sau Thầy quay trở về quê hương để góp phần hướng dẫn  nỗ lực hòa bình của Phật giáo.

Rằm tháng hai năm 1964 Thầy thành lập Dòng tu Tiếp hiện (the Order of Interbeing), vào đúng giai đoạn chiến tranh leo thang khốc liệt tại Việt Nam, lúc mà  giáo lý của Đức Thế Tôn cần thiết vô cùng để đối đầu lại với hận thù, bạo động và chia rẽ đang bao phủ khắp quê nhà. Vào giai đoạn này. Dòng tu bao gồm một số nhỏ những thành viên chí nguyện dấn thân vào những công tác xã hội và hành trì theo lý tưởng của Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời. Dòng tu được xây dựng trên căn bản của 14 giới Tiếp Hiện, cũng còn được gọi là những phương pháp thực tập chánh nhiệm. Cũng trong năm ấy với một nhóm những giảng sư và sinh viên đại học tại Việt nam ngài thành lập nên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo những nhóm tác viên trẻ tuổi dấn thân vào những làng mạc xa xôi giúp xây cất  những trường học, những bệnh xá và gầy dựng lại những thôn xóm đã bị hủy diêt vì đạn bom. [ Tháng 2 năm 1964 Thầy thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học tại Sài Gòn, và chỉ non 14 tháng sau nó được Thầy nâng lên thành Viện đại học Vạn Hạnh (bổ túc của Phù Sa) ].

Hai năm sau, vào năm 1966, Thầy rời Việt nam ra xứ ngoài để vận động kêu gọi hòa bình. Nhà cầm quyền  đương thời vì thế cấm cửa không cho phép Thầy  hồi hương. Năm 1967 khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy, ông Martin Luther King đã phát biểu:  "Ông thầy tu mãnh khảnh xuất thân từ Việt nam này, ngài là một học giả uyên thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng nên một tượng đài cho tinh thần  hòa đồng, tình huynh đệ  và nhân bản".

Năm 1969 Thầy hướng dẫn Phái đoàn Hòa bình Phật giáo tham dự Hội nghị Hòa bình Paris và thành lập Unified Buddhist Church (UBC) tại Pháp quốc. Lúc khởi đầu Giáo hội đặt cơ sở tại Thiền Đường Sweet Potatoes năm 1975. Pháp Từ của Thầy được truyền bá mỗi lúc một rộng rãi và tăng đoàn phát triển mạnh mẽ. Năm 1982 Làng Mai (Plum Village) được thành lập. Tọa lạc tại miền nam nước Pháp, Làng Mai là một Trung tâm Thiền tập và là cơ sở của Dòng tu Tiếp hiện. Mỗi năm hàng ngàn người khắp nơi trên thế giới từ những truyền thống tâm linh khác nhau khắp nơi đổ về Làng Mai để nghe pháp thoại và tu tập. Đây là trú xứ thường xuyên của Tăng đoàn (đoàn thể của những người tu tập) gồm khoảng 150 các thầy, các sư cô cùng các cư sĩ thường trú (Số thiền sinh gia tăng theo thời gian, tính đến nay thì đã vượt xa con số 150 / PS bổ túc).

Điểm nổi bật của pháp môn thầy Nhất Hạnh trao truyến là việc nhấn mạnh đến yếu tố hạnh phúc, hạnh nguyện  dấn thân vào đời và áp dụng được phương pháp thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Chánh niệm là có mặt trong phút giây hiện tại để có thể có thể nhận diện được những gì đang xẩy ra trong thân, trong tâm ta và cả trong thế giới chung quanh ta. Pháp môn Thầy dạy chú trọng đến thực tập hơi thở và tỉnh thức đầy chánh niệm từng hơi thở một. Thầy vẫn thường nhắc nhở đệ tử, bất cứ một việc gì xẩy ra đều có thể là cơ hội ngàn vàng để ta có thể tiếp xúc được với thực tại nhiệm mầu, cả đến như chuyện rửa bát hay lái xe. Thầy dạy chúng ta cần nên chấm dứt cuộc nội chiến trong tâm mình, lắng dịu lại cái bung xung trong tâm mình và trở về với giây phút hiện tại. Khi ta được an lành, khi ta hạnh phúc thì ta có thể mỉm nụ cười và ai ai trong gia đình, trong toàn thể xã hội quanh ta đều được hưởng lợi lạc từ niềm an lành của ta. Nhờ thế ta có thể  thực chứng ý nghĩa câu "Không có con đường đẫn tới hạnh phúc – Hạnh phúc là Con đường".

thichnhathanh.shtml

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.