Báo động
đỏ:
Số lượng Phật tử
ngày càng giảm tại Mông Cổ
Ulan Bator, Mông Cổ, ngày
18/9/2008 Tín lý Thiên chúa giáo càng ngày càng tăng nhanh tại Mông Cổ.
Các người truyền bá Thiên chúa giáo đã dụ dỗ cải đạo hàng ngàn Phật tử,
trong khi đó Phật giáo lo sợ mất văn hóa truyền thống.
Mitch Tillman là kẻ cứu rỗi
hữu danh vô thực. Cách đây 6 năm, kẻ truyền giáo của hội thánh Baptist
này đã mòn mỏi bóc lịch trong nhà tù Alabama, đối diện với bản án buôn
bán ma túy. Ngày nay, hắn xây bệnh viện, nuôi trẻ em lang thang hè phố,
và cứu rỗi các linh hồn tại Mông Cổ.
Đối với những người truyền
giáo Thiên chúa giáo như Tillman, Mông Cổ là tân El Dorado (Mảnh đất
vàng). Từ khi sự cai trị của cộng sản kết thúc năm 1990, khoảng 60 ngàn
người Mông Cổ đã bị cải đạo theo Thiên chúa giáo - theo ghi nhận của các
hội thánh Đa Thê (Mormon) hội thánh Tin Lành ngày thứ Bảy (Seventh-day
Adventist), và các hội thánh Tin lành khác, và Cơ-đốc-giáo.
“Nhiều bạn em đang trở thành
tín đồ Thiên chúa giáo, cho nên em quyết định học một cái gì đó từ tôn
giáo này,”
L.Chimgee, 18 tuổi, một sinh viên Đại học Kỹ thuật ở thủ đô Ulan Bator,
nói: “Em vừa tham dự buổi cắm trại của Thiên chúa giáo trong ngày
nghỉ cuối tuần ở miền quê. Nó có rất nhiều trò chơi, và em cảm nhận được
ý nghĩa thực tế của cộng đồng. Vì vậy, em theo nhà thờ.”
Tillman, - kẻ được tha bổng
tội sở hữu ma túy năm 2002, tin vào những buổi cầu nguyện mà đã có được
tự do. Trước đây, khi mới ra tù, cư dân Chattanooga đã bán cửa hàng xác
ô tô của hắn và chuyển đến Mông Cổ, nơi mà cha hắn là Mục sư của hội
Baptist, đã thành lập một hội truyền giáo. “Vì Mông Cổ vừa bước vào
kỷ nguyên mới của tự do và dân chủ, nên người dân Mông Cổ đang tìm kiếm
một cái gì khác,” Tillman, 53 tuổi, cha của 6 đứa con, gia đình của
hắn có 3 đứa trẻ Mông Cổ được hắn nhận làm con nuôi, nói: “Họ đang
tìm kiếm hy vọng và một cuộc sống tốt hơn cho các con trẻ của họ. Tôi
nghĩ, chúa Ki-tô sẽ ban cho họ điều đó.”
Các
Lạt-ma bật đèn đỏ
Nhưng cuộc vận động đối
với người cải đạo đã được bấm chuông báo động trong các hành lang cổ
kính của tu viện Gandan, một khu liên hợp Phật giáo lớn nhất nước với
800 tu sỹ. Trưởng lão Khunhur Byambajav nói, ông lo rằng, người Mông Cổ
đang đến tu viện của ông ít hơn.
“Đó là một vấn đề về tiền.
Những hội truyền bá (Thiên chúa giáo) có tiền để xây trường và giáo dục
giới trẻ. Họ dụ dỗ Phật tử bằng mọi cách khác nhau, Trưởng lão
Byambajav nói, liên quan đến những món quà mà các nhà thờ dâng
tặng như thực phẩm, quần áo, và học bổng du học nước ngoài. Chúng tôi
không có đủ tài chính, nhưng chúng tôi phải cố gắng, mặt khác chúng tôi
hẳn sẽ không có đủ người trẻ để trở thành Phật tử”.
Chẳng hạn, Hội Truyền bá Phúc
âm Quốc tế của Tillman hoạt động tại hai bệnh viện, một trại trẻ mồ côi,
một địa điểm phát chẩn, và một chương trình phục hồi sức khỏe cho người
nghiện rượu trong một quốc gia, nơi mà rượu uống thay nước, thậm chí vài
tu sỹ Phật giáo cũng uống, - vài người quan sát nói.
“Các tự viện Phật giáo của
chúng tôi quá yếu, L. Odonchimed, nguyên nghị sỹ quốc hội, nói:
“Họ thu tiền của nhân dân, nhưng họ không cho lại nhiều. Các hội truyền
bá Phúc âm phát đồ miễn phí và giúp nhân dân – đó là cái mà một tổ chức
tôn giáo nên làm”.
Những
nhóm chưa đăng ký
Trưởng lão Byambajav nói, ông
lo lắng nhất là những nhóm Thiên chúa giáo chưa đăng ký, ý muốn nói là
những thanh niên nam nữ tình nguyện truyền giáo, thuyết phục Phật tử đốt
báo tôn giáo, và thậm chí phá hủy cả các bảo tháp (kiến trúc giống như
ngọn núi, biểu tượng của giác ngộ). “Không có quyền điều khiển những
nhóm này, và không ai để tâm chú ý đến cái mà chúng đang làm”.
Trong một quốc gia tách rời
giữa giáo hội và nhà nước như Hoa Kỳ, Lạt-ma Byambayav đề nghị chính phủ
làm cho Phật giáo trở thành quốc giáo. Ngài lý luận rằng, đất nước cần
một giới luật của tu sỹ, nên nhà nước tài trợ và cho phép giảng dạy Phật
Pháp trong các trường công. “Chúng tôi đã gửi thư đến chính phủ để
thay đổi luật về tôn giáo, nhưng các tổ chức tôn giáo hải ngoại rất mạnh
và giàu có”, Byambajav nói: “Họ chi phối các quyết định của các
nhà chính trị bởi vì họ cho các nhà chính trị ấy tiền. Vì vậy, nó đặt
chúng tôi vào vị thế bất lợi”.
Trở lại
vấn đề Phật giáo
Odonchimed, cựu nghị sỹ
quốc hội, nhất trí rằng, nhiều người Mông Cổ bị các dịch vụ biếu xén của
các nhóm nhà thờ thu hút. Nhưng ông tiên đoán, cuối cùng người dân sẽ
phớt lờ nó khi kinh tế đất nước phát triển. “Khi thời gian trôi qua,
người dân sẽ có nhu cầu ít hơn đối với các hội truyền giáo này, và họ
sẽ bị bỏ quên”, ông nói. “Hầu hết mọi người sẽ quay về theo Phật
giáo”.
Trong khi chờ đợi, Liên đoàn
Bảo tồn Truyền thống Đại thừa (FPMT), một tổ chức Phật giáo bất vụ lợi
trụ sở tại Oregon đang vận dụng lối tiếp cận Tây phương để thu hút tín
đồ. Liên đoàn này đã khai giảng các khóa học trong các tu viện và tại
trung tâm thủ đô Ulan Bator. “Tôn giáo Mông Cổ cần phải thích nghi
với thời đại,” Ueli Minder, lãnh đạo Liên đoàn tại Thụy Sỹ, nói:
Giới trẻ Mông Cổ có ít kiến thức về Phật giáo bởi vì các tự viện không
giảng dạy giáo lý cho cư sỹ. Mục đích của chúng tôi là giúp cho mọi
người hiểu nguồn cội văn hóa và tôn giáo”.
Phương
pháp Tây phương
Trưởng lão Byambajav nói, tu
viện Gandan cũng vận dụng phương pháp Tây phương, như một chương trình
phát thanh, các kế hoạch mở vài trường tư thục và khai trương một kênh
truyền hình.
Tuy nhiên, Minder thừa nhận
rằng, giới tu sỹ Phật giáo đang đối diện với một thách thức nản lòng khi
bị buộc chống lại các hội truyền giáo. Sự cải đạo là một khái niệm xa lạ
đối với hầu hết trong số họ.“Phật giáo không nên trở thành một tôn
giáo truyền bá, nhưng chúng tôi cần phải có can đảm vượt qua lối hoằng
pháp thụ động trong quá khứ, và phổ cập công tác hoằng pháp,” Minder
nói: “Các Lạt-ma (tu sỹ Tây Tạng/Mông Cổ) cần phải học để bảo vệ đức
tin của họ, và để lấy lại niềm tin của mọi người.”
Tín lý
Thiên chúa giáo nằm trong đất nước Mông Cổ của Phật giáo
Cho đến khi tôn giáo bị
chế độ cộng sản cấm năm 1921, hầu hết người dân Mông Cổ theo đạo Phật
của Tây Tạng. Tự do mới từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản năm 1990 đã
hợp thức hóa Phật giáo và các tự viện đã mở cửa trở lại. Nhưng đồng
thời, nó cũng mở rộng các cửa cho các tôn giáo khác.
Hiện nay, 50% người dân Mông
Cổ là Phật tử theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, 6% là tín đồ của
Hoàng giáo (Shamanism) và Thiên chúa giáo, và 4% là tín đồ Hồi giáo.
Khoảng 40% nói, họ thực hành phi tôn giáo, theo số liệu của CIA.
Thách thức để giữ Phật tử đầy
niềm tin từ sự cải đạo sang Thiên chúa giáo là chướng ngại về ngôn ngữ.
Các tu sỹ tụng kinh tiếng Tây Tạng, thứ ngôn ngữ mà phần đông người Mông
Cổ không hiểu. Các bài giảng và Phúc âm của Thiên chúa giáo đã được đọc
và viết bằng tiếng Mông Cổ.
Theo ghi nhận của các đoàn
thể hội thánh hoạt động ở Mông Cổ, có 60 ngàn tín đồ Thiên chúa giáo,
gia tăng 20% trong 8 năm qua. Chính phủ không nắm các số liệu thống kê
về tình trạng sáp nhập tôn giáo này.
Tại thủ đô Ulan Bator, nơi mà
một nửa tín đồ Thiên chúa giáo sinh sống, theo báo cáo của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ, các nhà thờ tọa lạc nổi bật ở các vùng ngoại ô, bao gồm một nhà
thờ của hội thánh Đa thê Năm chuyện (Five-story Mormon) nằm cạnh khách
sạn sang trọng nhất của thành phố. Khách trọ có thể xem chương trình
Thiên chúa giáo qua kênh truyền hình Đại Bàng (Eagle TV), một kênh
truyền hình vệ tinh được tài trợ bởi các tín hữu Tin lành giáo.
Quay về với lối sống Mỹ cũng
là ‘chuyện thường ngày ở huyện’, kể cả những Mục sư danh tiếng giảng
những bài giảng sinh động cho các sảnh đường ắp đầy lối sống ấy. Các
dịch vụ này bao gồm nhạc rock, ánh sáng đèn chói chang, và video kỹ
thuật cao chiếu qua màn ảnh rộng. Những chai nước trắng bố thí tràn
ngập, và các cô cậu choai choai có thể đăng ký tham gia “cắm trại Thiên
chúa” ở nông thôn.
“Nó là một sự giải thoát
nguyên trạng”,
Mitch Tillman, Mục sư Tin lành Baptist Mỹ nói: “Vì quá nhiều năm rồi,
người dân Mông Cổ sống theo đạo Phật, và lúc ấy họ bị đàn áp bởi cộng
sản. Họ muốn một cái gì mới và họ tìm thấy nó trong chúa Ki-tô.
Tác giả: Michael Kohn
Thích Minh Trí
dịch
(Theo sfgate.com)
|
|
|