|
Trang bìa Tuần
báo
La Vie số 3174 ra ngày 29.06.2006 |
“Ở Việt Nam cũng như
khắp nơi trên thế giới, đạo Bụt phải được làm mới. Hiện nay ở Việt
Nam phần
đông thiên hạ nghĩ rằng đạo Bụt là để dành cho các vị xuất gia và
cho những ông bà cụ già. Tuy nhiên chính những người trẻ lại đang
rất cần có một nếp sống tâm linh, nếu không họ sẽ bị lạc lối. Nhưng
nếu đạo Bụt không trao truyền được cho người trẻ những phép tu tập
có thể đáp ứng lại những
nhu yếu của họ, thì họ sẽ ruồng bỏ truyền thống tâm linh của cha
ông họ” Thầy Thích Nhất Hạnh đã giải thích như thế. Sau 39 năm
sống lưu đày, vị thiền sư Việt Nam định cư trên đất Pháp đã trở về
thăm quê hương đất nước của ông, lần đầu năm vừa qua. Ông được chánh
quyền Cọng Sản cho thuyết pháp ở những nơi công cọng. Trong các
thính đường, ở các nơi trình diễn công cọng và tại các chùa, chỗ nào
thiền sư tới giảng cũng đầy ắp người. Ba trăm thanh thiếu niên, nam
và nữ đã theo thầy để xuất gia, thành lập hai tu viện ở hai nơi trên
đất nước Việt Nam, theo thể thức tổ chức tu viện Làng Mai của thiền
sư ở Pháp.
Thiền sư nói rõ thêm :
“Những điều tôi chia sẻ đã gợi hứng cho nhiều người, bởi vì tôi
truyền trao một thứ Phật giáo dấn thân trong cuộc đời, gần gũi với
những thao thức của mọi người, một loại Phật giáo đã được làm mới
lại, nhờ ba mươi năm tu tập và giảng dạy ở Tây Phương.”
“Muốn thương ai ta phải có mặt, cả thân và tâm, cho người đó”
Rõ ràng là người Việt Nam
đã không nhầm lẫn. Người Pháp cũng thế. Mùa xuân năm nay, như các
mùa Xuân mỗi năm, 700 người Pháp đã về Làng Mai để dự một khóa tu
trọn tuần lễ do Thiền Sư dạy bằng tiếng Pháp. Phần đông từ 25 đến 55
tuổi, đến từ khắp mọi miền nước Pháp. Cũng có một số đến từ Bỉ hay
Thụy Sĩ, từ Ý và Tây Ban Nha. Có những người đã chịu bay từ Montréal
Gia Nã Đại. “Nhà tôi đã biết được Thầy (tiếng Việt có nghĩa
là ông thầy dạy mình học) từ Gia Nã Đại. Những điều Thầy dạy đã
khiến cô ấy quá mến phục nên đã thuyết phục được tôi cùng đi ”
vị thiền sinh người Gia Nã Đại đã thú thật với tôi như thế khi ông
đặt chân đến Làng Mai : một góc trời Việt Nam nho nhỏ nằm ở tam biên
các tỉnh Dordogne, Lot& Garonne và Gironde. Từ năm 1982 Thầy Nhất
Hạnh cùng một số đệ tử của Thầy đã chọn làm quê hương góc trời nhỏ
giữa những ruộng nho và những đồi mận này.
|
Ông
thầy
tu danh tiếng,
tích cực
lo cho Hoà Bình, Thích Nhất
Hạnh.
Người
là hiện
thân cho một
thứ
đạo
Bụt dấn thân |
Rồi từ từ, khi mà những
điều dạy dỗ của thầy đã xuất hiện qua nhiều cuốn sách của thầy trong
các hiệu sách Pháp và các nước nói tiếng Pháp, với những quyển sách
càng ngày càng nổi tiếng ấy, số người đến tu học càng lúc càng đông,
các vị xuất gia này đã mua thêm một nông trại, rồi hai nông trại,
rồi một góc Xã cho đến cuối cùng là có bảy xóm tất cả, làm thành một
Làng. Làng có tên là Làng Mai vì họ có trồng 1250 cây mai ăn trái.
Tiền bán trái mai (mận) sẽ để dành nuôi trẻ em thiếu ăn tại Việt Nam
và các nơi khác.
Rải rác đây đó là những
hồ sen, những tượng Bụt được dựng lên và những tháp chuông, dưới mỗi
tháp mái cong là một quả chuông thật to. Tiếng chuông trầm hùng
thỉnh lên mỗi giờ một lần, suốt cả ngày. Khi chuông thỉnh lên thì
mọi người dừng lại, từ ánh mắt đến cử chỉ đến lời nói. Nhìn cỏ cây,
lắng nghe chim hót hay cảm nghe làn gió nhẹ mơn man trong không
gian. Rồi sự sống lại tiếp tục diễn tiến. Những điều dạy của Thầy
Nhất Hạnh nằm nơi bí quyết đó. Sự có mặt thật tình trong phút
giây hiện tại mà Thầy gọi là “chánh niệm” và mọi người -
người tới tu tập hay người chỉ mới bước chân tới thăm Làng Mai lần
đầu - tất cả đều nếm được sự dừng lại với hình ảnh đó.
Các thiền sinh về đây tu
học được chia làm thành từng nhóm, – đây không phải là nhóm người
chỉ mê sống theo thiên nhiên, họ cũng không là những người hoài niệm
thời híp pi – bất cứ ai về đây, tất cả đều phải chấp nhận hay tạm
chấp nhận sống chung cùng phòng với những người lạ chứ không còn
cách nào khác. Tất cả đều phải chấp nhận ăn những bữa ăn chay chung,
theo lối Việt Nam, chấp nhận tham dự những buổi thiền làm việc, có
khi gọi là chấp tác, lặt rau hay xắt gọt dưa, khoai... hay lau nhà
vệ sinh v.v... Nhưng không ai than phiền cả. Không khí thật bình an
và tươi vui, rất xa với những mẫu mực có sẵn của những nhóm Phật tử
nghiêm nghị và khắc khổ. Suốt một tuần lễ, mọi người đều phải thức
dậy từ lúc 5 giờ 00 sáng để ngồi thiền sáng vào lúc 5g 30, hướng dẫn
bởi một thầy hay một sư cô của Chùa thuộc xóm mình ở - mỗi xóm có
khoảng 50 sư cô và vài trăm thiền sinh trong đó có mươi sư cô Tây
phương. Các sư cô mặc áo nâu, đầu cạo nhẵn, ngồi trên những chiếc
gối tọa thiền, hướng dẫn thiền sinh định tâm vào hơi thở vào... hơi
thở ra.., ý thức toàn thân / buông thư toàn thân..., an trú thâm sâu
trong phút giây hiện tại. Vào chín giờ sáng tất cả từ trẻ con đến
người lớn đều tập trung vào đại thiền đường. Mọi người ngồi yên cho
tới nổi người ta có thể nghe cả tiếng ruồi bay. Họ ngồi để chuẩn bị
nghe pháp thoại của Thầy.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
diễn giảng với giọng nói thật nhẹ nhàng, bằng một thứ tiếng Pháp
tuyệt hảo, thanh lịch, không cần chêm những chữ chuyên môn khó hiểu,
cũng không cần dùng những từ đặc biệt Phật giáo cầu kỳ.
|
“...Muốn
thương thì phải “có mặt”, cả thân và tâm. Bằng hơi thở chánh
niệm. Để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra, cái tâm nhờ thế không
đi lung tung, được đưa trở về lại với thân, và do đó ta có mặt
cho chính ta và cho người ta thương..."
Thích Nhất Hạnh |
Thầy nói : “Muốn
thương thì phải “có mặt”, cả thân và tâm. Bằng hơi thở chánh niệm.
Để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra, cái tâm nhờ thế không đi lung
tung, được đưa trở về lại với thân, và do đó ta có mặt cho chính ta
và cho người ta thương. Món quà quý nhất cho người mình thương là sự
có mặt thật tình cho người đó : Mẹ (hay Ba) thương ơi, con có mặt
cho mẹ (ba) đây ! Hay là : Anh thương ơi, em có mặt cho anh đây.
Hay là : em thương ơi, anh có mặt cho em đây. Hay là : con của mẹ
ơi, con của cha ơi, (cha hay mẹ) đang có mặt cho con đây!” Không
bị thời gian tàn phá, gương mặt thanh lịch của ông thầy tu tỏa rạng
sự bình an.
Suốt một tuần lễ, nữ luật
gia Nathalie, trong những bộ áo có vẻ thời trang, đến từ miền Alpes
Maritimes, đã bỏ hẳn văn phòng luật sư của cô, chồng cô và đứa con
tám tuổi để đến đây tu học. Chúng tôi ngồi đàm đạo trong thiền đường
với câu bút pháp : “Lắng nghe để hiểu, nhìn kỹ để thương”.
Khi chia sẻ với các bạn thiền sinh khác, cô Nathalie cảm động nói :
“Các điều Thầy dạy sáng nay tiếp tục âm vang trong tôi. Đơn giản
vô cùng nhưng thật thâm sâu và không dễ thực tập để mà sống được như
vậy. Thầy đang thật tình có mặt cho chúng ta; tôi cảm nghe như Thầy
đang hướng dẫn từng bước cho chúng ta đi. Thầy dạy ta nhìn kỹ, nhận
diện từng chiếc bóng của chính chúng ta tận mặt, mà không cần có mặc
cảm tội lỗi. Như thế ta tiếp xúc được với phần thương tích của chính
mình bằng tất cả lòng từ bi, khi nhận diện sự có mặt của thương tích
trong ta thì ta có thể hiểu và thương được cách hành sử của người
khác vì họ cũng đã từng bị thương tích như mình.”
Như phần đông nhiều người
tu tập ở Làng Mai, Nathalie không tự nhận cô là Phật tử. Nhưng từ
khi khám phá được sách của Thầy, cô đã tới Làng Mai học với Thầy để
có thể có nếp sống đẹp, lành mạnh và hạnh phúc hơn. Những người khác
thì xin quy y với Thầy. Là đệ tử tại gia của Thầy, họ tự hứa và hứa
với tăng thân Làng Mai trong một buổi lễ quy y là sẽ sống đời sống
hằng ngày theo tiêu chuẩn năm giới, trình bày theo cách của Thầy. Họ
sẽ tập tìm hiểu sâu thêm giáo lý Bụt dạy và tập thiền quán. Đó là
trường hợp cô Marianne 52 tuổi, cố vấn về quản trị xí nghiệp nên
biết rất rõ những nhịp độ công tác và những đòi hỏi cấp bách, những
điều kiện bức xúc trong các hãng xưởng. “Pháp môn dạy dỗ của
Thầy, giúp tôi biết nắm lấy những gì thiết yếu nhất” Cô Marianne
tới tu học ở Làng Mai từ nhiều năm nay. Lần này cô mời được mẹ cô
cùng về. Bà cụ là người theo đạo Thiên Chúa rất thuần thành. Bà cụ
nói “Tôi rất may mắn mà thuộc về một giáo xứ rất cởi mở và nhờ
vậy đã được phép thuật cho giáo dân nghe những gì tôi học được khi
đi tu học ở Làng Mai về. Giáo lý đạo Bụt mà Thầy dạy không có gì
chống đối với những điều tôi học trong Thánh Kinh. Ngược lại, những
ngày sống ở Làng Mai giúp tôi có nhiều bình an khiến tôi thấy con
tim mình mở ra, hiểu Chúa Ky Tô và những người khác nhiều hơn.”
“Ban đầu người Pháp tưởng
là họ cần phải mặc áo ki mô nô...”
Nhóm quần chúng đủ màu
sắc này, thiền sư Nhất Hạnh đã hiểu khá rõ tâm tư họ nên Thầy đã
giúp họ được rất nhiều.
Sư Cô Chân Không, tới
Pháp vào những năm cuối thập niên 1960 để phụ giúp thiền sư lo các
chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh và kêu gọi hòa bình, đã
vui vẻ nhắc : “Ban đầu người Pháp tưởng là họ cần phải mặc áo ki
mô nô, ăn cơm bằng đũa thì mới trở nên Phật tử được ! Thầy mới bảo
với họ là những điều Bụt dạy là một nghệ thuật sống trong bình an
và sâu sắc. Với nghệ thuật sống đẹp đó quý vị là người Pháp thì nên
xây dựng một đạo Bụt Pháp có màu sắc văn hóa Pháp”. Thiền Sư
Thích Nhất Hạnh là một trong những vị thầy hiếm có, rất lão thông
văn hóa Pháp. Trong những bài thuyết giảng, ông hay hóm hỉnh thuật
về triết gia Pháp Descartes hay đọc thơ của thi hào Victor Hugo.
Người cũng rất giỏi Thánh Kinh. Thiền Sư xác nhận như sau : “Khi
đọc Thánh Kinh hay khi tiếp xúc với các bạn Ky Tô Giáo, tôi nhận
thấy rằng thỉnh thoảng hai đạo này giao thoa rất kỳ diệu với nhau
và ngó cho kỹ thì một số tín hữu Ky Tô lại có nhiều Phật tính hơn
một số Phật tử. Bởi vì khi bạn hành sử với lòng bao dung và từ bi
thì bạn đã là Phật tử rồi !”
Isabelle Francq
----------------------
Xin mời đọc :
Thương Yêu theo phương pháp Bụt dạy và Understanding our
mind (Hiểu rõ sự vận hành của tâm ta) cùng một tác giả. |