VẤN ĐỀ GIÁO HỘI
THỐNG NHỨT 10/2007 |
|
Hiện tình
GHPGVNTN/HN-HK
trong bối cảnh chung của
Phật giáo Việt nam Hải ngoại
Hình: Lý Kiến Trúc
- Văn Hóa Magazine
Nhị vị Hòa thượng Thích Tín Nghĩa (người mặc áo tràng màu vàng),
Thích Thắng Hoan (mặc áo tràng nâu) trả lời Phỏng vấn của ông Lý
Kiến Trúc - Văn Hóa magazine California :
Ht. Thích Tín Nghĩa :
Nam Mô A Di Đà Phật, trước tiên là xin cám ơn anh LKT đã có nhã ý
mời HT Thắng Hoan và tôi đóng góp một vài ý kiến về hiện tình Phật
giáo VN tại hải ngoại và đặc biệt là GHPGVNTN tại Hoa Kỳ-Văn Phòng
II Viện Hoá Đạo.
Tôi cũng xin tự giới thêm về bản thân tôi trước kia là con em của
GHPGVNTN thành lập từ năm 1964. Tôi là đệ tử của Đại Lão Hòa
Thượng Thích Mẫn Thiện, ngài là Hội đồng Giám luật của Viện Tăng
Thống, đồng thời tôi cũng là con cháu cuả Đại lão Hoà Thượng Thích
Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống.
Trước 1975, tôi là Giảng sư của hai giáo hội đó là GHPGVNTN-Quảng
Nam Đà Nẵng và GHPGVNTN-Thưà Thiên Huế; tôi cũng là giáo sư toán
cuả trường Bồ Đề và là trụ trì của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I dưới hai
thời tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Hoàng Xuân Lãm.
Đứng về mặt Thống Nhất thì tôi là con em đích thực của GHPGVNTN đi
ra hải ngoại.
Ra hải ngoại tôi và HT Thắng Hoan xây dựng GHPGVNTN, sau khi làm
việc được hai năm thì HT Đôn Hậu ra chiếu chỉ ngoài này “Đem
chuông đi đánh xứ ngươì” để làm thế nào tăng đoàn hải ngoại hợp
nhất.
Từ ý niệm đó, chúng tôi cùng với HT Thắng Hoan lên đường để lo cái
GHPGVNTN/HN tại Hoa Kỳ-Văn Phòng II VHĐ qua các ngày 21, 22, 23
tại San José năm 1992 kéo dài cho đến bây giờ…
Đùng một cái, năm nay Giáo Hội có tổ chức Đại hội thường niên tại
chùa Pháp Luân, Texas và chính bản thân tôi là trưởng ban tổ chức.
Đùng một cái, không biết lý do gì Giáo chỉ 9 đưa qua và cho chúng
tôi “về vườn”. Qua Giáo chỉ đó, tôi là trưởng ban tổ chức mà tôi
không hay biết gì hết.
Đùng một cái, qua Giáo chỉ, rồi Hướng dẫn Giáo chỉ, rồi Hoà thượng
Chủ tích Hộ Giác nhân danh Chủ tịch VP II VHĐ ra các thông tư đình
hoãn Đại hội thường niên. Sau vài tuần, Ht Hộ Giác lại nhân danh
Hội đồng Điều hành mời lại Đại hội bất thường. Chúng tôi bối rối…
trong vòng ba tuần chắc chắn chúng tôi không có thì giờ để chuẩn
bị cho công việc này. Như anh đã biết chúng tôi có lá thơ gởi đến
HT Hộ Giác để bày rõ lập trường của chúng tôi....
............
Xem trọn bài
phỏng vấn nhị vị Hòa thượng Thích Thắng Hoan, Thích Tín Nghĩa,
Thượng tọa Thích Vân Đàm của GHPGVNTN/HK và Đại lão Hòa thượng
Thích Tâm Châu, Thượng thủ GHPGVN trên Thế Giới cùng nhiều tài
liệu khác ở đây, xin kiên nhẫn chờ đợi vì tài liệu hơi nặng KO.>>Xem
tiếp... |
PSN trân trọng gởi đến bạn đọc bài
tham luận HIỆN TÌNH GHPGVNTNHN-HK TRONG BỐI CẢNH CHUNG CỦA PHẬT
GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI đã được Thượng Tọa Thích Vân Đàm, nguyên
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục GHPGVNTN/HK trình bày trong Đại Hội
Bất Thường GHPGVNTNHNHK, ngày 11 tháng 01 năm 2008 tại Chùa Phổ
Đà thành phố Santa Ana, California, Hoa Kỳ do Hòa Thượng Chánh thư ký
Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHN/Hoa-Kỳ, Thích Thắng Hoan
triệu tâp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Kính bạch chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni,
Kính thưa quý đạo hữu,
Vào ngày 10 tháng 9 năm 1991, đại lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh
Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN đã gửi đến chư Tăng, Ni và Phật
tử hải ngoại Tâm Thư kêu gọi phát huy bản thể thanh tịnh hòa hợp của
Tăng già để phát triển nền Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Tâm Thư
có đoạn viết:
“Tôi thiết tha kêu gọi quý vị hãy
phát huy hơn nữa bản thể của Tăng già mà đoàn kết hòa hiệp, hãy cùng
nhau thể hiện tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo, tương
sám, như luật dạy. Hãy vì sự tồn tại của Giáo Hội, vì sự quang vinh
của Đạo pháp và dân tộc mà gạt bỏ những quan điểm dị biệt để cùng nhau
hoằng dương Chánh pháp.”
Tâm Thư của đại lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu nhấn mạnh đến vấn đề then
chốt và trọng yếu nhất để xây dựng và phát triển GHPGVNTN cũng như nền
Phật Giáo Việt Nam tại xứ người, đó là “phát huy bản thể thanh tịnh
hòa hợp của Tăng già.” Bản thể thanh tịnh hòa hợp ấy lấy việc nghiêm
trì giới-định-tuệ làm chất liệu nền tảng và cương yếu. Tăng gìa nếu
không hành trì nghiêm cẩn giới-định-tuệ sẽ tự mình đánh mất phẩm đức
thực chứng giác ngộ và giải thoát. Do vậy sẽ không còn giữ được vị
thế chúng trung tôn, sẽ không còn đủ tư cách là trưởng tử của đức Như
Lai để thừa tiếp sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp và tiếp độ quần sinh
của Ngài. Giáo Hội lấy Tăng già làm chủ lực điều hướng mọi công tác
Phật sự. Chính vì vậy, Tăng già thanh tịnh và hòa hợp là tấm gương
sáng cho hàng Phật tử tại gia noi theo, là thành trì kiên cố cho tín
tâm hưng phát, là tiêu chí cao cả cho đường hướng và hành hoạt của
Giáo Hội.
Thừa hành lời kêu gọi trong Tâm Thư của đại lão Hòa Thượng Thích Đôn
Hậu, chư Tăng, Ni và Phật tử tại Hoa Kỳ đã cùng nhau ngồi lại và nỗ
lực vận động cho sự thống hợp của Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, mà
thành quả là một Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã
được thực hiện vào cuối tháng 9 năm 1992 tại thành phố San Jose,
California, Hoa Kỳ. Chính trong Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam
tại Hoa Kỳ đó mà GHPGVNTNHN/HK đã được thành lập. Sự thành tựu của
Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và sự ra đời của
GHPGVNTNHN/HK phát xuất từ động lực thật mãnh liệt là chí nguyện của
Tăng Ni và Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ muốn cùng nhau ngồi lại trong
tinh thần thanh tịnh hòa hợp, để nhất tâm hướng đến công cuộc hoằng
dương Chánh pháp tại hải ngoại và công cuộc vận động cho tự do, dân
chủ, nhân quyền và phục hoạt GHPGVNTN trong nước.
Chí nguyện phụng sự Phật pháp trong tinh thần thanh tịnh hòa hợp của
Tăng già Việt Nam tại Hoa Kỳ lúc ban đầu ấy đã bị mai một theo thời
gian, bởi vì những hành vi hoen ố và thao túng Giáo Hội của một vài cá
nhân càng lúc càng lộ rõ. Mọi quyết định của Văn Phòng II VHĐ và Giáo
Hội Hoa Kỳ càng ngày càng bị thâu tóm trong tay một vài cá nhân. Vì
vậy đã dẫn đến tình trạng bế tắc trong sự phối hợp Phật sự tại hải
ngoại giữa Giáo Hội Thống Nhất các châu và Văn Phòng II VHĐ. Một vị
giáo phẩm trong Giáo Hội Hoa Kỳ và Văn Phòng II VHĐ đã bị kết án về
tội vu khống và sách nhiễu tình dục tại tòa án của tiểu bang Colorado
vẫn nghiễm nhiên ngồi chiễm chệ trong cương vị lãnh đạo Giáo Hội, bất
chấp sự phản đối và bất bình của đa số các thành viên. Một cư sĩ đang
đảm nhận các vai trò quan trọng trong GHTN trong và ngoài nước lại là
người nhận tiền và làm việc cho một cơ quan chính trị của Mỹ (NED), đã
làm cho các thành viên khác trong Giáo Hội đặc biệt nghi ngờ đến lập
trường và mục đích phục vụ của vị cư sĩ này. Một vài cá nhân vì muốn
bảo vệ chức vụ bất xứng của mình đã âm mưu vận động Viện Hóa Đạo ra
hết Giáo chỉ lưu nhiệm này đến Giáo chỉ lưu nhiệm khác trong suốt các
kỳ Đại Hội Khoáng Đại của Giáo Hội.
Những vị làm hoen ố và thao túng Giáo Hội đã không từ bất cứ hành vi
hay thủ đoạn thế tục nào để vừa loại trừ thành phần không tín nhiệm
họ, vừa bảo vệ địa vị của họ trong Giáo Hội. Chính trong ý đồ như vậy
mà nhiều bài viết qua nhiều tên khác nhau đã liên tục được phổ biến
trên các diễn đàn công cộng với lời lẽ thô tục và nội dung xuyên tạc
sự thật, vu khống, chụp mũ hết vị giáo phẩm này đến vị giáo phẩm khác,
hết tổ chức Phật giáo này đến tổ chức Phật giáo kia. Đó là chiến dịch
tung hỏa mù gây hoang mang dư luận để họ thực hiện bước kế tiếp là
thanh trừng những nhân sự không tín nhiệm họ trong Giáo Hội, mà hệ quả
theo đó đã rõ ràng khi Giáo Chỉ số 9 của Viện Tăng Thống và Thông Bạch
Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Viện Hóa Đạo đã được Phòng Thông
Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris công bố khắp trên các phương tiện
truyền thông đại chúng vào giữa và cuối tháng 9 năm 2007.
Cho đến khi Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số
9 được công bố, chư tôn giáo phẩm tại hải ngoại trong Hội Đồng Giáo
Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội
Đồng Điều Hành của các GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, tại Âu châu, tại Úc châu
và tại Canada đều hoàn toàn không hay biết gì, không hề được tham
khảo, không hề được mời tham dự bất cứ cuôc họp nào. Đây là việc làm
sai trái với Hiến Chương của GHPGVNTN, với Quyết Định số 27 của Quyền
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ký ban hành vào tháng 12 năm 1992, với Quy
Chế của các GHPGVNTNHN tại các châu lục.
Vai trò các vị Tổng Ủy viên liên lạc các châu trong cơ cấu Văn Phòng
II mới theo Giáo Chỉ số 9 và sẽ là Chủ tịch HĐĐH của GHTN mới theo
Thông Bạch, trên thực tế hoàn toàn không những không thích đáng mà còn
tạo sự chia rẽ trong nội bộ các Giáo Hội tại các châu lục đó. Lý do,
các vị Tổng Ủy viên liên lạc ấy đã được chỉ định riêng của Viện Hóa
Đạo trong nước mà không hề có bất cứ một hội ý, một đồng thuận nào
giữa GH trong và ngoài nước. Khi được chỉ định mà không có sự đồng
thuận của tập thể GH tại địa phương như vậy, vị Tổng Ủy viên liên lạc
chỉ còn là người xa lạ của một tổ chức nào đó áp đặt một cách khiên
cưỡng vào trong sinh hoạt của các cộng đồng Phật giáo đã có truyền
thống hòa hợp từ trước.
Điều 3 của Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 nói đến việc
“giải tán các Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại (GHPGVNTNHN-HK) tại Hoa kỳ và các
GHPGVNTN-HN tại các châu được hình thành theo Quyết Định số
27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày
10.12.1992.” là một điều khoản tạo khủng hoảng cho cộng
đồng Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Về mặt tình cảm, nó nhẫn tâm
dẫm đạp lên bao nhiêu tấm lòng, bao nhiêu chí nguyện, bao nhiêu hy
sinh và đóng góp của Tăng, Ni và Phật tử hải ngoại suốt mấy thập niên
qua cho sự tồn tại và phát triển GHPGVNTN trong và ngoài nước. Về mặt
pháp lý, nó là một ý tưởng hão huyền không thực được cưỡng ép thi hành
trong một hoàn cảnh thực tế hoàn toàn khác biệt, bởi vì các GHPGVNTNHN
tại các châu lục đều có đầy đủ pháp nhân và pháp lý của họ tại các
quốc gia sở tại. Các GH này tồn tại và được bảo vệ bởi nền luật pháp
của mỗi quốc gia nơi mà GH đó có mặt. Các GHPGVNTN tại các châu lục ở
hải ngoại chỉ xem GHPGVNTN trong nước là biểu tượng tinh thần, mà
không là thế lực có thẩm quyền trên phương diện chế tài pháp lý.
Trong Giáo Chỉ số 9 cũng như Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số
9 đều đã đưa ra nhận định: “…
đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, một số
phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay phân hóa,
tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đường hướng sinh hoạt của GHPGVNTN
Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc
tế.” Lời nhận định trên nhân danh cả hai Hội Đồng Viện
Tăng Thống và Viện Hóa Đạo của Giáo Hội, nhưng hoàn toàn không dựa
trên cơ sở về thủ tục pháp lý khi xử lý các vấn đề vi phạm điều luật
của Hiến Chương hay Quy Chế của Giáo Hội nếu có. Nhận định trên cũng
chứng tỏ rằng Hội Đồng Lưỡng Viện đã không quan tâm đến tâm nguyện sắt
son của bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử tại hải ngoại vốn một lòng một
dạ với Giáo Hội từ mấy chục năm qua. Đó không những là niềm đau thấu
tận tim gan đối với những tấm lòng hy sinh vì Giáo Hội, mà còn là cách
hành xử đi ngược lại tinh thần thanh tịnh hòa hợp và từ bi trí tuệ của
đạo Phật!
Theo chương trình đã định, vào ngày 5, 6 và 7 tháng 10 năm 2007,
GHPGVNTNHN/HK sẽ tổ chức Đại Hội Thường Niên tại thành phố Houston,
bang Texas. Tuy nhiên, sau khi Giáo chỉ số 9 và Thông bạch hướng dẫn
thi hành Giáo chỉ số 9 được công bố, Hòa Thượng Thích Hộ Giác, nhân
danh Chủ tịch Văn phòng II VHĐ mới đã ký và ban hành Thông Tư Khẩn
ngày 27 tháng 9 năm 2007 đình hoãn vô thời hạn Đại Hội Thường Niên của
GH. Nhưng, đến ngày 9 tháng 10 năm 2007, Hòa Thượng Thích Hộ Giác
lại nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN/HK ký và ban hành
Thông Tư triệu tập Đại Hội Bất Thường tại thành phố Port Arthur, bang
Texas, vào ngày 10 tháng 11 năm 2007.
Trong Đại Hội Bất Thường ngày 10 tháng 11 năm 2007 nói trên, mặc dù số
lượng thành viên của Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Điều Hành tham dự
không đủ quá bán, Đại Hội đó cũng đã ngang nhiên quyết định mọi Phật
sự quan trọng, trong đó có việc tự ý loại trừ quá bán thành viên của
hai Hội Đồng Giám Phẩm và Điều Hành, vì phản đối tính hợp pháp của Đại
Hội nên đã không tham dự, và tiếp tục cưỡng chiếm danh nghĩa của
GHPGVNTNHN/HK bất chấp điều lệ của Quy Chế và Nội Quy.
Đúng ra trong tình hình bất ổn của Giáo Hội như vậy, Đại Hội Thường
Niên phải được tiếp tục tổ chức để qua đó Giáo Hội có cơ hội giải
quyết những Phật sự trọng đại hầu hóa giải những dị biệt, tạo sự hòa
hợp trong nội bộ và cùng nhau hỗ trợ tích cực cho GHPGVNTN trong
nước. Nếu cho rằng vì khâm tuân theo Giáo chỉ số 9 và Thông bạch
hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9, cho nên phải giải tán Giáo Hội thì
Đại Hội Thường Niên lại càng phải được thực hiện để qua đó bàn bạc về
một phương thức giải tán Giáo Hội theo đúng luật pháp Hoa Kỳ và pháp
lý của Giáo Hội về việc thành lập và giải tán. Việc giải tán Giáo Hội
không thể được thực hiện bằng một lời tuyên bố suông mà phải có lý do
chính đáng và Đại Hội Khoáng Đại với đầy đủ thành viên và đại biểu có
thẩm quyền quyết định thì mới đúng pháp. Thực tế, chính Đại Hội Bất
Thường ngày 10 tháng 11 năm 2007 tại Port Arthur, Texas đã xác minh rõ
ràng là các thành viên tham dự trong Đại Hội đó, mặc dù đã tuyên bố
khâm tuân Giáo chỉ và Thông bạch, nhưng sự thật quý vị ấy đã hoàn toàn
không khâm tuân. Lý do là vì, Đại Hội Bất Thường đó đã không tiến
hành đúng theo thủ tục pháp lý của Giáo Hội và quốc gia Hoa Kỳ trong
việc giải tán Giáo Hội. Đại Hội Bất Thường đó chỉ là một thứ Đại Hội
Thường Niên nấp dưới tên gọi là Bất Thường để nhằm mục đích loại trừ
tất cả các thành viên không tín nhiệm thành phần thiểu số thao túng
Giáo Hội mà thôi. Như vậy, cho đến nay đã không có Giáo Hội nào thể
hiện sự khâm tuân đối với Giáo chỉ và Thông bạch. Chính thực tế đó đã
nói lên một thực trạng hiển nhiên rằng Giáo chỉ số 9 và Thông bạch
hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 là hai văn bản đã không đáp ứng đúng
đắn nguyện vọng của tất cả tăng ni và Phật tử hải ngoại và bởi vì vậy
hai văn bản đó không có giá trị thi hành.
Chính vì không đáp ứng đúng nguyện vọng của Tăng Ni và Phật tử hải
ngoại và không có giá trị thực thi, cho nên Giáo chỉ số 9 và Thông
bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 một khi công bố đã gây nên bao
nhiêu hậu quả tai hại cho Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại trong giai
đoạn hiện nay. Những hậu quả tai hại đối với Phật Giáo Việt Nam tại
hải ngoại như thế nào? Sau đây xin đưa ra ba hậu quả nghiêm trọng
nhất:
1. Vì một vài cá nhân thao túng Giáo Hội để mưu đồ riêng tư đã lôi
cuốn GHPGVNTN nói riêng và Phật Giáo Việt Nam nói chung đi vào khuynh
hướng sinh hoạt mang sắc thái thế tục và phi Chánh pháp. Bằng chứng
cụ thể là thành phần thao túng Giáo Hội thường xuyên núp dưới danh
nghĩa Giáo Hội Thống Nhất, nhưng sử dụng những thủ đoạn thế gian và
mánh khóe chính trị. Chẳng hạn dùng biện pháp mà họ gọi là “thanh
trừng nội bộ” giống như các đảng phái chính trị để giải quyết vấn đề
nhân sự trong Giáo Hội; trước khi “thanh trừng nội bộ” thì mở chiến
dịch vu khống, chụp mũ, buộc tội không bằng chứng; lợi dụng danh nghĩa
và uy tín của nhị vị đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích
Quảng Độ để loại trừ người này bảo vệ người kia, ra hết Giáo chỉ lưu
nhiệm này đến Giáo chỉ lưu nhiệm khác; khích động tinh thần chống
cộng của người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại để đánh phá và hãm
hại chư Tăng, Ni và Phật tử không tín nhiệm những vị thao túng Giáo
Hội; cổ võ lòng thù hận trong Phật giáo để triệt tiêu mọi thành phần
đi ngược lại đường lối thao túng Giáo Hội của họ; biến Giáo Hội trở
thành tổ chức hay thế lực chỉ biết làm duy nhất mỗi một việc là chống
cộng cho đến một mất một còn, mà không quan tâm để thực hiện những
Phật sự trọng đại khác như hoằng pháp, đào tạo Tăng, Ni và hướng dẫn
Phật tử tu học, v.v…; giải thích xuyên tạc và thế tục hóa tinh thần
của Chánh pháp như đưa ra luận điểm “biến tướng Bát chánh đạo” hay gọi
“chế độ cộng sản là Tập đế trong Tứ đế”, v.v… Chính vì những phương
thức hành đạo sai Chánh pháp và thế tục hóa Phật giáo như vậy, cho
nên, ngày nay, ngay cả đến chư Tăng, Ni đạo hạnh và Phật tử thuần
thành phát nguyện chuyên tu cầu giác ngộ giải thoát hay không muốn
tham gia sinh hoạt Giáo Hội cũng bị đánh phá và chụp mũ.
2. Vì chủ trương và giải thích xuyên tạc của một vài cá nhân thao
túng Giáo Hội đối với tinh thần “trung kiên”, đối với ý nghĩa đích
thực của sự việc “khâm tuân hay không khâm tuân” theo Giáo chỉ và
Thông bạch, và vì sự vu khống và chụp mũ đối với Tăng, Ni và Phật tử
là “thân Cộng, tiếp tay cho Cộng sản, làm lợi cho Cộng sản, muốn hòa
hợp và hòa giải với GHPGVN và cộng sản” v.v…của thành phần thao túng
này, cho nên đã tạo ra sự hoang mang, nghi ngờ, phân hóa và khủng
hoảng sâu nặng từ trong nội bộ Giáo Hội Thống Nhất ra đến cộng đồng
Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Sự phân hóa và khủng hoảng này là
một biến cố tàn hại đối với Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại chưa từng
diễn ra từ ba thập niên qua, và chắc chắn di chứng của thảm trạng này
sẽ còn tiếp diễn và gây tai hại lâu dài cho Phật Giáo Việt Nam tại
hải ngoại.
3. Từ sự phân hóa và khủng hoảng của Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại
dẫn đến sự suy kiệt nội lực hòa hợp và thống nhất của đại khối Phật
Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Qua đó đưa tới hệ quả tất yếu là làm tổn
thương nghiêm trọng sức mạnh hỗ trợ hữu hiệu cho công cuộc vận động tự
do, dân chủ, nhân quyền và phục hoạt GHPGVNTN trong nước. Điều tệ hại
hơn nữa là thành phần thao túng Giáo Hội và các thế lực ngoại đạo, các
cá nhân và tổ chức cực đoan đã lợi dụng tình hình khủng hoảng và nhân
danh tự do, dân chủ, nhân quyền và phục hoạt GHPGVNTN trong nước để
trục lợi và đánh phá một cách không khoan dung tất cả những ai bị họ
vu khống và chụp mũ, dù trên thực tế đó chỉ là sự vu khống và chụp mũ
không bằng chứng.
Kính bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Qua phần trình bày một cách tổng quát hiện tình của GHPGVNTNHN-HK nói
riêng và Phật Giáo Việt Nam nói chung ở trên, chúng ta có thể đi đến
mấy điểm đúc kết chính yếu như sau:
1. Vì Giáo chỉ số 9 và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9,
dù có ấn ký của Đức Tăng Thống và Hòa Thượng Viện Trưởng, nhưng thực
chất chỉ là hình thức và phương cách mà một vài cá nhân âm mưu thao
túng Giáo Hội cho ý đồ riêng tư đã dàn dựng, mà qua đó đã vi phạm Hiến
Chương của Giáo Hội, vi phạm Quyết Định số 27 của Quyền Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo ký ban hành tháng 12 năm 1992, hơn nữa Giáo chỉ và Thông
bạch đó đã không đáp ứng được đúng đắn tâm nguyện của Tăng, Ni và Phật
tử lại còn tạo ra sự khủng hoảng và phân hóa trầm trọng cho cộng đồng
Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại, cho nên, chúng ta không thể cúi đầu
khâm tuân.
2. Vì là những Tăng, Ni và Phật tử đã từng phục vụ hay được trưởng
dưỡng trong ngôi nhà GHPGVNTN suốt trên bốn mươi năm qua từ trong nước
ra đến hải ngoại, tất cả chúng ta đều vẫn một lòng một dạ sắt son với
lý tưởng phụng sự Đạo pháp và Dân tộc của GHPGVNTN. Chính trong tâm
nguyện ấy, tất cả chúng ta vẫn luôn luôn giữ vừng lập trường trước sau
như một là tranh đấu cho một đất nước Việt Nam tự do, dân chủ, nhân
quyền và thịnh vượng, cũng như sẽ tiếp tục không ngừng góp phần vào
công cuộc vận động cho nền tự do tôn giáo tại Việt Nam.
3. Vì Đại Hội Bất Thường ngày 10 tháng 11 năm 2007 tại thành phố Port
Arthur, Texas của GHPGVNTNHN-HK đã vi phạm Quy Chế, đã đi ngược lại
nguyện vọng của quá bán thành viên trong Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội
Đồng Điều Hành, và là một âm mưu loại trừ các thành viên không tín
nhiệm thành phần thao tùng Giáo Hội, cho nên, hôm nay tất cả chúng ta
gồm quá bán thành viên của Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Điều Hành
của GHPGVNTNHN-HK đồng thanh xác định rằng:
a. Chúng ta không thừa nhận tư cách hợp pháp và chính thống của
GHPGVNTNHN-HK được duy trì qua Đại Hội Bất Thường ngày 10 tháng 11 năm
2007 tại thành phố Port Arthur, Texas;
b. Vì để tránh sự tái diễn đau thương của lịch sử về một thảm trạng
có hai Giáo Hội cùng danh nghĩa song song hoạt động và dẫn đến sự phân
hóa bất lợi cho cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại, chúng ta
sẽ tự nguyện chấm dứt vai trò và nhiệm vụ của mình đối với
GHPGVNTNHN-HK, dù trên thực tế pháp lý và nhân sự chúng ta có thẩm
quyền tiếp tục với danh nghĩa của Giáo Hội ấy.
4. Qua cơn biến động sâu xa hiện nay, Phật Giáo Việt Nam tại hải
ngoại cần phải nhìn rõ vào bản chất của vấn đề để từ đó rút tỉa ra bài
học bổ ích hầu góp phần kiến hiệu vào việc vạch định hướng đi tới tươi
sáng hơn. Bản chất của vấn đề là, Phật Giáo sở dĩ có thể tồn tại và
phát triển trên khắp thế giới trải qua một quá trình lịch sử lâu dài
trên hai mươi lăm thế kỷ là vì không bao giờ đánh mất hay làm chệch
hướng con đường cao rộng thực chứng giác ngộ và giải thoát, dù phải
ứng xử trong bất cứ môi trường hành hoạt nào, nhập thế hay xuất thế,
thời bình hay thời loạn, chánh pháp hay mạt pháp. Đó cũng chính là
nội lực thâm sâu và sở trường căn bản nhất của Phật Giáo. Đánh mất nó
hay làm chệch hướng đi đó, Phật Giáo sẽ tức khắc rơi vào con đường nhỏ
hẹp, bế tắc và khủng hoảng! Hiện tình của GHPGVNTN nói riêng và Phật
Giáo Việt Nam tại hải ngoại nói chung chính là bắng chứng cụ thể nhất
mà chúng ta ai cũng cảm nhận được.
Trân trọng kính chào và thành kính cảm ơn chư Tôn Đức cùng liệt quý
vị.
|
|
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT |
Ngày 31 tháng
XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội
đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã
khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.
Đại biểu đại
hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT
VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT
GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống
và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.
Đại hội suy
tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa
thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích
Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.
Ngày
12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các
tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã
Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của
giáo hội đã qui định.
Dưới đây bản
HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517.
HIẾN
CHƯƠNG
GIÁO
HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
LỜI
MỞ ĐẦU
Công
bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc
tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự
đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường
thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá
biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.
Quan
niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều
hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như
của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ
lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc
biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam.
|