Năm
ấy ở Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp giữa một vị kinh sư và một
vị luật sư tại tu viện Ghostra. Nguyên do vụ tranh chấp thật là bé
nhỏ nhưng vì lòng tự ái của một số các thầy khất sĩ mà vụ tranh chấp
đã gây nên chia rẽ trầm trọng trong đại chúng. Vị kinh sư này vì vô
ý đã không đổ nước trong chậu sau khi sử dụng. Vị luật sư cho đó là
phạm luật. Vị kinh sư nghĩ là vì không cố tình cho nên mình không có
lỗi. Nguyên do vụ tranh chấp chỉ có thế, nhưng đệ tử của hai vị ai
cũng bênh vực thầy mình và nói bên đối phương là sai lầm. Cuộc tranh
chấp vì thế mà leo thang. Bên này bắt đầu nói bên kia là vu khống.
Bên kia bắt đầu nói bên này là vọng ngữ. Cuối cùng vị luật sư tuyên
bố giữa đại chúng là vị kinh sư phạm giới, và nếu không sám hối thì
vị này sẽ không được phép tham dự các buổi bố tát tụng giới hàng nửa
tháng.
Tình trạng trở nên căng thẳng. Hai bên nói qua nói lại. Những lời
qua lại này cũng tai hại như những mũi tên độc. Các vị khất sĩ chia
thành hai phe. Cũng may là có một số các vị khất sĩ không chịu theo
phe nào. Họ than thở với nhau: “Chết mất, chết mất! thế nào cũng có
chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn".
Trong khi đó, Bụt vẫn chưa hay biết gì, tuy người đang an cư ở một
tịnh xá sát bên tu viện. Một số các vị khất sĩ đi tìm Bụt và trình
lên người hiện tình của đại chúng, và cầu Bụt can thiệp. Bụt liền đi
tìm vị luật sư. Người nói:
-
Chúng ta không nên quá tin ở quan điểm riêng của chúng ta. Chúng ta
phải lắng nghe và tìm hiểu quan điểm của người bên kia. Chúng ta
phải làm mọi cách để tránh sự chia rẽ trong đại chúng.
Rồi
Bụt đi tìm vị kinh sư. Người cũng nói với vị kinh sư những lời mà
người đã nói vị luật sư, hy vọng hai người sẽ đi tới hòa giải. Sau
đó người trở về tịnh xá.
Nhưng cuộc can thiệp của Bụt không có hiệu quả. Cả hai bên vì lời
qua lẽ lại đều đã bị thương tích trầm trọng. Các vị khất sĩ đứng ở
giữa không đủ sức để giàn xếp một cuộc hòa giải. Nội vụ được chuyền
tới tai giới đệ tử tại gia và chẳng bao lâu các giáo phái bên ngoài
đều biết tới. Uy tín của đoàn thể khất sĩ bị thương tổn nặng. Đại
đức Nagita thị giả của Bụt thấy thế, không chịu nổi nửa. Thầy lại
đem nội vụ trình lên Bụt và cầu cứu Bụt tới can thiệp một lần nữa.
Bụt
khoác áo và tới thẳng thính đường của tu viện. Người bảo đại đức
Nagita thỉnh chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi người đã tụ họp đầy
đủ, Bụt nói:
-
Xin các thầy hãy chấm dứt việc tranh chấp và cãi cọ. Xin quý thầy
hãy chấm dứt tình trạng chia rẽ trong nội bộ giáo đoàn. Xin trở về
với sự tu học. Nếu chúng ta tu học thật sự thì chúng ta không còn là
nạn nhân của tự ái, giận hờn và chia rẽ nữa.
Một
vị khất sĩ đứng lên, bạch:
-
Thế Tôn, xin Thế Tôn đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin người cứ
an trú trong niềm vui tịnh lạc của thiền định. Đây không phải là
việc của người. Chúng tôi đã lớn: chúng tôi có thể tự mình giải
quyết vụ này được, không cần đến Thế Tôn.
Vị
khất sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Bụt cũng im lặng. Một lát
sau, người đứng dậy, rời bỏ thính đường. Người trở về tịnh xá lấy
bình bát và áo, rồi người một mình đi vào Kosambi để khất thực. Khất
thực xong, người vào rừng một mình để thọ trai. Thọ trai xong người
đứng dậy, ôm y bát từ bỏ thành phố Kosambi, hướng về phía bờ sông mà
đi. Không ai được phép đi theo người, kể cả thầy thị giả, kể cả đại
đức Ananda.
Bụt
đi lần hồi tới thị trấn Balakalonakaragama. Tại đây người gặp một vị
đệ tử là đại đức Bhagu. Thấy Bụt, đại đức rất vui mừng, đại đức rước
Bụt vào một cụm rừng, mời Bụt ngồi rồi đi tìm nước và khăn cho Bụt
rửa mặt và tay chân. Bụt hỏi thăm về sự tu học của thầy Bhagu. Thầy
nói thầy rất an lạc ở đây, dù thầy ở có một mình. Bụt nói:
- Ở
một mình đôi khi mà khỏe hơn là ở với nhiều người.
Sau
khi giảng dạy thêm giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về sự tu học,
Bụt từ giã thầy để đi về phía công viên Đông Trúc cách đó không xá.
Bước vào công viên, Bụt bị người cai vườn ngăn lại, ông ta nói:
-
Sa môn, ông đừng đi vào trong công viên, sợ làm rộn các vị đang tu
hành trong ấy.
Bụt
chưa biết nói sao thì từ trong công viên đại đức Anuruddha đi ra.
Thầy vái chào Bụt và nói người cai vườn:
-
Đó là thầy của chúng tôi đấy, xin ông cứ để cho người vào.
Rồi
đại đức đưa Bụt vào phía trong công viên. Ở đây, Bụt gặp thêm hai vị
khất sĩ khác: đại đức Nandiya và đại đức Kimbila. Hai người được gặp
Bụt rất mừng. Thầy Nandiya nâng bát cho Bụt, còn thầy Kimbila thì
nâng áo sanghati của người. Họ sắp chỗ ngồi cho Bụt bên một bụi tre
vàng. Họ đem nước và khăn tới cho Bụt rửa mặt và rửa chân. Rồi cả ba
thầy chắp tay làm lễ Bụt. Bụt bảo ba thầy ngồi xuống bên cạnh:
Người hỏi:
-
Các thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu học có thuận lợi không?
Việc khất thực hành hóa có dễ dàng không?
Thầy Anuruddha đáp:
-
Bạch thầy, chúng con ở đây rất an ổn. Ở đây khung cảnh rất an tịnh.
Việc khất thực và hành hóa cũng dễ dàng. Chúng con đã đạt được nhiều
tiến bộ trong sự tu học.
Bụt
hỏi:
-
Các thầy có thương mến nhau và hòa hợp với nhau không?
-
Thưa Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa hợp với
nhau một cách dễ dàng như nước với sữa. Riêng con, được sống với hai
huynh Kimbila, và Nandiya là một điều may mắn lớn cho đời con. Con
trân quý tình bằng hữu này lắm. Mỗi khi con nói hay con làm một điều
gì, dù là khi hai huynh không có mặt, con cũng nghĩ đến hai huynh.
Con tự hỏi con: nói như thế và làm như thế thì hai huynh có vừa ý
không? Nếu con có một chút nghi ngờ rằng lời nói và việc làm ấy có
thể làm cho hai vị phật ý là con nhất định không nói và không làm.
Thưa Thế Tôn, chúng con tuy là ba người mà cũng như là một.
Bụt
gật đầu ưng ý. Người nhìn hai thầy kia. Thầy Kimbila nói với Bụt:
-
Điều sư huynh Anuruddha nói đó là sự thật. Chúng con rất hòa hợp với
nhau và rất thương mến nhau.
Thầy Nandiya nói:
-
Chúng con biết chia xẻ cho nhau đồng đều mọi thứ. Từ chỗ ăn ngủ cho
đến kiến thức và kinh nghiệm, chúng con đều sẵn lòng chia xẻ cho
nhau.
Bụt
khen:
-
Tốt lắm! Tôi rất hài lòng khi thấy các thầy ăn ở với nhau như vậy.
Có sự hòa hợp đó, một đoàn thể tu học mới thật sự là một đoàn thể tu
học. Các thầy đã thật sự tỉnh thức cho nên quý thầy mới thực hiện
được sư hòa hợp đó.
Bụt
ở lại với ba thầy một tháng. Người nhận xét như sau:
Buổi sáng sau giờ thiền tọa, ba thầy cùng đi khất thực một lần. Khất
thực xong, vị nào về trước thì đi sắp đặt chỗ ngồi đi lấy nước uống,
nước rửa và một cái chậu sạch để sẵn tại đó. Xong rồi vị ấy mới đi
rửa mặt, rửa chân, và ngồi xuống để quán niệm và thọ trai. Trước khi
thọ trai, vị ấy san bớt thức ăn trong bát vào chiếc chậu sạch. Thức
ăn này là để dành cho vị khất sĩ nào không xin được đủ một phần ăn.
Khi các vị kia về, thì nước rửa và nước uống đã có sẵn. Họ khỏi phải
đi xách nước. Họ chỉ cần ngồi xuống rửa tay, rửa mặt và rửa chân
trước khi ngồi xuống thọ trai. Sau khi thọ trai và uống nước, cả ba
người cùng đi dọn dẹp. Nếu thức ăn trong chậu còn dư, họ đem đổ ở
một khoảng đất không có cây cỏ, hoặc đổ xuống nước nơi không có loài
vật nào đang sống. Họ cùng rửa và cùng úp các chậu lại. Ai thấy bình
nước uống hết nước thì đi lấy thêm. Ai thấy vại nước rửa lưng đi thì
đi xách nước thêm. Ai thấy cầu tiêu không được sạch thì đi chùi rửa.
Việc gì cần hai hoặc ba người mới làm nổi thì họ đâu vai chung sức
lại. Họ không cần bàn cãi gì hết về công việc hàng ngày. Cứ mỗi năm
ngày họ ngồi lại một lần để cùng học hỏi giáo lý và trao đổi kinh
nghiệm tu tập.
Trước khi từ giã ba thầy, Bụt nói:
-
Các thầy, bản chất của một tăng đoàn (sangha) là sự hòa hợp. Theo
tôi, ta có thể minh định sự hòa hợp như sau:
- Thứ nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng chia xẻ vói nhau
một trung tâm tu học, một khu rừng hay một mái nhà.
- Thứ hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia xẻ với nhau
đồng đều những tiện nghi của cuộc sống.
- Thứ ba là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng hành trì với nhau
những giới và những luật đã được truyền thọ và ban hành.
- Thứ tư là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là chỉ sử dụng thứ ngôn ngữ
hòa hợp, tránh tất cả những lời nói có thể gây ra sự xích mích và
tranh cãi.
- Thứ năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là trao đổi và chia xẻ
những hiểu biết và những kiến thức với nhau, không dấu diếm cái hiểu
biết cho riêng mình, để cho mọi người cùng được học hiểu.
- Thứ sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là các ý kiến khác nhau
phải được tổng hợp lại, và không ai có thể bắt buộc mọi người khác
phải làm theo ý kiến riêng của mình như thế để tạo nên sự vui vẻ hòa
hợp trong đoàn thể.
Các
vị khất sĩ! Từ nay về sau, chúng ta phải lấy sáu nguyên tắc hòa hợp
này mà sống với nhau.
Ba
vị đại đức hoan hỷ tiếp nhận lời nhận của Bụt. Từ giã ba thầy, Bụt
lên đường. Bảy ngày sau, người tới Parileyyaka, Bụt đi vào rừng
Rakkhita, và tìm thấy một cây sala cành lá sum suê. Người đặt y bát
xuống và ngồi nghĩ dưới gốc cây đẹp đẽ này. Bụt có ý định muốn ở lại
một mình tại đây trong mùa an cư sắp tới.
Dưới cây sala, người cảm thấy có nhiều an lạc và thoải mái. Đây là
một khu rừng xanh tốt, có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Bụt
thấy dễ chịu hơn khi có đông đảo đệ tử. Ở Kosambi, hiện giờ nhiều vị
khất sĩ đang sống trong phiền não, và phiền não lan tới cả giới đệ
tử tại gia. Người cảm thấy buồn vì chính đệ tử của người cũng không
chịu nghe lời người khuyên bảo. Người biết đó là sự buồn giận đang
che mất tâm trí họ.
Trong rừng Rakkhita, Bụt gặp rất nhiều loài thú vật. Có cả một đàn
voi nữa. Con voi mẹ vốn là một con voi chúa thường hay đem những con
voi khác và đàn voi con xuống tắm dưới hồ. Nó dạy cho những con voi
con uống nước, ăn cỏ và ăn những cây bông súng. Bụt nhìn con voi mẹ
dạy đàn voi con ăn những cây bông súng. Nó lấy vòi nhổ một đám bông
súng, khỏa những cây bông súng để rửa ở mặt nước cho bùn đất trôi đi
rồi mới đưa vào miệng. Các con voi con tập một hồi rồi cũng làm được
như con voi mẹ.
Mấy
con voi con này rất có cảm tình với Bụt. Voi và Bụt rất thân cận và
yêu mến nhau. Có khi voi mẹ hái cả trái cây để cúng dường Bụt. Bụt
ưa vuốt đầu những con voi con và đưa chúng xuống bờ hồ. Con voi chúa
thường dùng tiếng rống để triệu tập đàn voi và những con voi con.
Tiếng rú của con voi chúa rất là oai vệ. Bụt đã học và bắt chước
được tiếng rú này. Có một lần sau khi con voi chúa rú lên tiếng rú
oai vệ của nó, Bụt cũng bắt chước rú lên, con voi chúa nghe tiếng rú
lập tức nhìn về phía Bụt, và nó tới trước Bụt rồi quỳ hai chân trước
xuống, Bụt vuốt ve và đỡ nó dậy.
Bụt
ở lại an cư tại đây. Đây là mùa an cư thứ mười của Bụt sau ngày
thành đạo. Đây là lần thứ hai người an cư một mình. Suốt này người ở
trong rừng. Chỉ buổi sáng vào giờ khất thực người mới rời khỏi khu
rừng xanh tốt của người để đi vào tụ lạc mà thôi.
Sau
mùa an cư, Bụt từ giã đàn voi và khu rừng xinh đẹp. Người đi về
hướng Đông Bắc. Nửa tháng sau người về tới tu viện Cấp Cô Độc ở
Savatthi. Đại đức Sariputta thấy Bụt về mừng lắm. Rahula cũng có mặt
tại đó. Nhiều vị đại đệ tử cũng có mặt tại đó: các đại đức
Mahamoggallana, Mahkassapa, Mahakunda, Upali, Mahakotthiya,
Mahakappina, Mahakunda, Revata, và Devadatta ... Các đại đức
Anuruddha, Kimbila, Nandiya từ công viêng Rừng Trúc ở Karagama cũng
đã về tới. Ni sư Gotami cũng có mặt tại Savatthi. Thấy Bụt ai nấy
đều mừng rỡ.
Bước vào tịnh xá, Bụt gặp thầy Ananda đang sắp đặt và quét dọn lại
tịnh xá. Một năm và bốn tháng trời, Bụt đã vắng mặt tại đây. Thấy
Bụt, đại đức Ananda mừng quá. Thầy buông chổi vái chào Bụt, Bụt hỏi
thăm thầy về tình trạng ở Kosambi. Thầy nói:
-
Sau khi Bụt bỏ đi, một số huynh đệ đến tìm con và nói: “Này sư
huynh, Thế Tôn đã bỏ đi rồi, người đi một mình. Tại sao sư huynh
không tìm theo Bụt để làm thị giả cho người. Nếu sư huynh không đi
thì chúng tôi đi vậy”. Con trả lời: “Nếu Bụt đi mà không cho ai biết
mà cũng không từ giã huynh đệ chúng ta, đó là vì người muốn đi một
mình. Chúng ta không nên làm phiền người". Sau đó khoảng sáu tháng,
một số huynh đệ lại tới nói với con: “Này sư huynh, lâu nay chúng
mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp trực
tiếp từ miệng của bậc thầy nói ra. Chúng ta nên đi tìm người”. Chúng
con đã lên đường tìm Bụt nhưng không được gặp. Không ai biết Bụt ở
đâu. Cuối cùng chúng con tìm về Savatthi. Về tới đây chúng con cũng
không thấy Bụt. Chúng con tự bảo nên kiên nhẫn chờ Bụt tại đây. Thế
nào người cũng về. Thế nào người cũng không bỏ các đệ tử xứng đáng
của người.
-
Khi thầy rời Kosambi, tình trạng như thế nào? Các vị khất sĩ còn cãi
cọ nhau nhiều không?
-
Thế Tôn, hồi ấy tình trạng còn căng thẳng lắm. Căng thẳng hơn ngày
Thế Tôn ra đi nhiều, không bên nào chịu thua bên nào. Không khí thật
là khó thở. Mỗi lần đi vào thành phố khất thực là chúng con lại bị
giới cư sĩ hỏi nhau về vụ tranh chấp. Chúng con nói: “Có nhiều vị
khất sĩ đứng ngoài vụ tranh chấp. Xin quý vị biết cho điều đó”, và
đó là điều duy nhất mà chúng con có thể làm. Dần dần giới cư sĩ bắt
đầu phản ứng. Họ tìm tới tu viện và nói với các vị khất sĩ trong vụ
tranh chấp: “Quý thầy đã không nghe lời Bụt để cho Bụt phải buồn
lòng mà bỏ đi. Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Giới tại gia của
chúng tôi đã mất rất nhiều niềm tin. Xin quý thầy xét lại”. Thưa Thế
Tôn, ban đầu thì các thầy không chú ý tới lời cảnh cáo của giới tại
gia, nhưng sau đó, giới tại gia cương quyết bảo nhau không cúng
dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Hỏi tại sao không
cúng dường tăng bảo, họ trả lời: “Quý vị không xứng đáng với Bụt,
bởi vì quý vị không có sự hòa hợp. Nếu quý vị nghe lời Bụt mà hòa
giải được với nhau, rồi sau đó đi tìm Bụt để sám hối, thì chúng tôi
sẽ khôi phục được niềm tin. Lúc đó chúng tôi mới hành trì lại phép
cúng dường với tất cả tâm thành của chúng tôi được". Thưa Thế Tôn,
giới tại gia ở Kosambi cương quyết lắm. Họ nói thì họ làm. Ngày rời
Kosambi, con nghe nói là hai bên định ngày tập hợp để đi tới sự hòa
giải. Con nghĩ là họ sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về
tới đây để xin sám hối với Bụt.
|