.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007


Bụt dạy 6 phép hòa hợp
(lục hòa)

  • PSN - 12.10.2007
    Trích trong Đường xưa mây trắng của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Năm ấy ở Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp giữa một vị kinh sư và một vị luật sư tại tu viện Ghostra. Nguyên do vụ tranh chấp thật là bé nhỏ nhưng vì lòng tự ái của một số các thầy khất sĩ mà vụ tranh chấp đã gây nên chia rẽ trầm trọng trong đại chúng. Vị kinh sư này vì vô ý đã không đổ nước trong chậu sau khi sử dụng. Vị luật sư cho đó là phạm luật. Vị kinh sư nghĩ là vì không cố tình cho nên mình không có lỗi. Nguyên do vụ tranh chấp chỉ có thế, nhưng đệ tử của hai vị ai cũng bênh vực thầy mình và nói bên đối phương là sai lầm. Cuộc tranh chấp vì thế mà leo thang. Bên này bắt đầu nói bên kia là vu khống. Bên kia bắt đầu nói bên này là vọng ngữ. Cuối cùng vị luật sư tuyên bố giữa đại chúng là vị kinh sư phạm giới, và nếu không sám hối thì vị này sẽ không được phép tham dự các buổi bố tát tụng giới hàng nửa tháng.

Tình trạng trở nên căng thẳng. Hai bên nói qua nói lại. Những lời qua lại này cũng tai hại như những mũi tên độc. Các vị khất sĩ chia thành hai phe. Cũng may là có một số các vị khất sĩ không chịu theo phe nào. Họ than thở với nhau: “Chết mất, chết mất! thế nào cũng có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn".

Trong khi đó, Bụt vẫn chưa hay biết gì, tuy người đang an cư ở một tịnh xá sát bên tu viện. Một số các vị khất sĩ đi tìm Bụt và trình lên người hiện tình của đại chúng, và cầu Bụt can thiệp. Bụt liền đi tìm vị luật sư. Người nói:

- Chúng ta không nên quá tin ở quan điểm riêng của chúng ta. Chúng ta phải lắng nghe và tìm hiểu quan điểm của người bên kia. Chúng ta phải làm mọi cách để tránh sự chia rẽ trong đại chúng.

Rồi Bụt đi tìm vị kinh sư. Người cũng nói với vị kinh sư những lời mà người đã nói vị luật sư, hy vọng hai người sẽ đi tới hòa giải. Sau đó người trở về tịnh xá.

Nhưng cuộc can thiệp của Bụt không có hiệu quả. Cả hai bên vì lời qua lẽ lại đều đã bị thương tích trầm trọng. Các vị khất sĩ đứng ở giữa không đủ sức để giàn xếp một cuộc hòa giải. Nội vụ được chuyền tới tai giới đệ tử tại gia và chẳng bao lâu các giáo phái bên ngoài đều biết tới. Uy tín của đoàn thể khất sĩ bị thương tổn nặng. Đại đức Nagita thị giả của Bụt thấy thế, không chịu nổi nửa. Thầy lại đem nội vụ trình lên Bụt và cầu cứu Bụt tới can thiệp một lần nữa. 

Bụt khoác áo và tới thẳng thính đường của tu viện. Người bảo đại đức Nagita thỉnh chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi người đã tụ họp đầy đủ, Bụt nói:

- Xin các thầy hãy chấm dứt việc tranh chấp và cãi cọ. Xin quý thầy hãy chấm dứt tình trạng chia rẽ trong nội bộ giáo đoàn. Xin trở về với sự tu học. Nếu chúng ta tu học thật sự thì chúng ta không còn là nạn nhân của tự ái, giận hờn và chia rẽ nữa.

Một vị khất sĩ đứng lên, bạch:

- Thế Tôn, xin Thế Tôn đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin người cứ an trú trong niềm vui tịnh lạc của thiền định. Đây không phải là việc của người. Chúng tôi đã lớn: chúng tôi có thể tự mình giải quyết vụ này được, không cần đến Thế Tôn.

Vị khất sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Bụt cũng im lặng. Một lát sau, người đứng dậy, rời bỏ thính đường. Người trở về tịnh xá lấy bình bát và áo, rồi người một mình đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực xong, người vào rừng một mình để thọ trai. Thọ trai xong người đứng dậy, ôm y bát từ bỏ thành phố Kosambi, hướng về phía bờ sông mà đi. Không ai được phép đi theo người, kể cả thầy thị giả, kể cả đại đức Ananda.

Bụt đi lần hồi tới thị trấn Balakalonakaragama. Tại đây người gặp một vị đệ tử là đại đức Bhagu. Thấy Bụt, đại đức rất vui mừng, đại đức rước Bụt vào một cụm rừng, mời Bụt ngồi rồi đi tìm nước và khăn cho Bụt rửa mặt và tay chân. Bụt hỏi thăm về sự tu học của thầy Bhagu. Thầy nói thầy rất an lạc ở đây, dù thầy ở có một mình. Bụt nói:

- Ở một mình đôi khi mà khỏe hơn là ở với nhiều người.

Sau khi giảng dạy thêm giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về sự tu học, Bụt từ giã thầy để đi về phía công viên Đông Trúc cách đó không xá. Bước vào công viên, Bụt bị người cai vườn ngăn lại, ông ta nói:

- Sa môn, ông đừng đi vào trong công viên, sợ làm rộn các vị đang tu hành trong ấy.

Bụt chưa biết nói sao thì từ trong công viên đại đức Anuruddha đi ra. Thầy vái chào Bụt và nói người cai vườn:

- Đó là thầy của chúng tôi đấy, xin ông cứ để cho người vào.

Rồi đại đức đưa Bụt vào phía trong công viên. Ở đây, Bụt gặp thêm hai vị khất sĩ khác: đại đức Nandiya và đại đức Kimbila. Hai người được gặp Bụt rất mừng. Thầy Nandiya nâng bát cho Bụt, còn thầy Kimbila thì nâng áo sanghati của người. Họ sắp chỗ ngồi cho Bụt bên một bụi tre vàng. Họ đem nước và khăn tới cho Bụt rửa mặt và rửa chân. Rồi cả ba thầy chắp tay làm lễ Bụt. Bụt bảo ba thầy ngồi xuống bên cạnh:

Người hỏi:

- Các thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu học có thuận lợi không? Việc khất thực hành hóa có dễ dàng không?

Thầy Anuruddha đáp:

- Bạch thầy, chúng con ở đây rất an ổn. Ở đây khung cảnh rất an tịnh. Việc khất thực và hành hóa cũng dễ dàng. Chúng con đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học.

Bụt hỏi:

- Các thầy có thương mến nhau và hòa hợp với nhau không?

- Thưa Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa hợp với nhau một cách dễ dàng như nước với sữa. Riêng con, được sống với hai huynh Kimbila, và Nandiya là một điều may mắn lớn cho đời con. Con trân quý tình bằng hữu này lắm. Mỗi khi con nói hay con làm một điều gì, dù là khi hai huynh không có mặt, con cũng nghĩ đến hai huynh. Con tự hỏi con: nói như thế và làm như thế thì hai huynh có vừa ý không? Nếu con có một chút nghi ngờ rằng lời nói và việc làm ấy có thể làm cho hai vị phật ý là con nhất định không nói và không làm. Thưa Thế Tôn, chúng con tuy là ba người mà cũng như là một.

Bụt gật đầu ưng ý. Người nhìn hai thầy kia. Thầy Kimbila nói với Bụt:

- Điều sư huynh Anuruddha nói đó là sự thật. Chúng con rất hòa hợp với nhau và rất thương mến nhau.

Thầy Nandiya nói:

- Chúng con biết chia xẻ cho nhau đồng đều mọi thứ. Từ chỗ ăn ngủ cho đến kiến thức và kinh nghiệm, chúng con đều sẵn lòng chia xẻ cho nhau.

Bụt khen:

- Tốt lắm! Tôi rất hài lòng khi thấy các thầy ăn ở với nhau như vậy. Có sự hòa hợp đó, một đoàn thể tu học mới thật sự là một đoàn thể tu học. Các thầy đã thật sự tỉnh thức cho nên quý thầy mới thực hiện được sư hòa hợp đó.

Bụt ở lại với ba thầy một tháng. Người nhận xét như sau:

Buổi sáng sau giờ thiền tọa, ba thầy cùng đi khất thực một lần. Khất thực xong, vị nào về trước thì đi sắp đặt chỗ ngồi đi lấy nước uống, nước rửa và một cái chậu sạch để sẵn tại đó. Xong rồi vị ấy mới đi rửa mặt, rửa chân, và ngồi xuống để quán niệm và thọ trai. Trước khi thọ trai, vị ấy san bớt thức ăn trong bát vào chiếc chậu sạch. Thức ăn này là để dành cho vị khất sĩ nào không xin được đủ một phần ăn. Khi các vị kia về, thì nước rửa và nước uống đã có sẵn. Họ khỏi phải đi xách nước. Họ chỉ cần ngồi xuống rửa tay, rửa mặt và rửa chân trước khi ngồi xuống thọ trai. Sau khi thọ trai và uống nước, cả ba người cùng đi dọn dẹp. Nếu thức ăn trong chậu còn dư, họ đem đổ ở một khoảng đất không có cây cỏ, hoặc đổ xuống nước nơi không có loài vật nào đang sống. Họ cùng rửa và cùng úp các chậu lại. Ai thấy bình nước uống hết nước thì đi lấy thêm. Ai thấy vại nước rửa lưng đi thì đi xách nước thêm. Ai thấy cầu tiêu không được sạch thì đi chùi rửa. Việc gì cần hai hoặc ba người mới làm nổi thì họ đâu vai chung sức lại. Họ không cần bàn cãi gì hết về công việc hàng ngày. Cứ mỗi năm ngày họ ngồi lại một lần để cùng học hỏi giáo lý và trao đổi kinh nghiệm tu tập.

Trước khi từ giã ba thầy, Bụt nói:

- Các thầy, bản chất của một tăng đoàn (sangha) là sự hòa hợp. Theo tôi, ta có thể minh định sự hòa hợp như sau:

- Thứ nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng chia xẻ vói nhau một trung tâm tu học, một khu rừng hay một mái nhà.

- Thứ hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia xẻ với nhau đồng đều những tiện nghi của cuộc sống.

- Thứ ba là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng hành trì với nhau những giới và những luật đã được truyền thọ và ban hành.

- Thứ tư là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là chỉ sử dụng thứ ngôn ngữ hòa hợp, tránh tất cả những lời nói có thể gây ra sự xích mích và tranh cãi.

- Thứ năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là trao đổi và chia xẻ những hiểu biết và những kiến thức với nhau, không dấu diếm cái hiểu biết cho riêng mình, để cho mọi người cùng được học hiểu.

- Thứ sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là các ý kiến khác nhau phải được tổng hợp lại, và không ai có thể bắt buộc mọi người khác phải làm theo ý kiến riêng của mình như thế để tạo nên sự vui vẻ hòa hợp trong đoàn thể.

Các vị khất sĩ! Từ nay về sau, chúng ta phải lấy sáu nguyên tắc hòa hợp này mà sống với nhau.

Ba vị đại đức hoan hỷ tiếp nhận lời nhận của Bụt. Từ giã ba thầy, Bụt lên đường. Bảy ngày sau, người tới Parileyyaka, Bụt đi vào rừng Rakkhita, và tìm thấy một cây sala cành lá sum suê. Người đặt y bát xuống và ngồi nghĩ dưới gốc cây đẹp đẽ này. Bụt có ý định muốn ở lại một mình tại đây trong mùa an cư sắp tới.

Dưới cây sala, người cảm thấy có nhiều an lạc và thoải mái. Đây là một khu rừng xanh tốt, có đồi, có suối lại có hồ. Sống một mình, Bụt thấy dễ chịu hơn khi có đông đảo đệ tử. Ở Kosambi, hiện giờ nhiều vị khất sĩ đang sống trong phiền não, và phiền não lan tới cả giới đệ tử tại gia. Người cảm thấy buồn vì chính đệ tử của người cũng không chịu nghe lời người khuyên bảo. Người biết đó là sự buồn giận đang che mất tâm trí họ.

Trong rừng Rakkhita, Bụt gặp rất nhiều loài thú vật. Có cả một đàn voi nữa. Con voi mẹ vốn là một con voi chúa thường hay đem những con voi khác và đàn voi con xuống tắm dưới hồ. Nó dạy cho những con voi con uống nước, ăn cỏ và ăn những cây bông súng. Bụt nhìn con voi mẹ dạy đàn voi con ăn những cây bông súng. Nó lấy vòi nhổ một đám bông súng, khỏa những cây bông súng để rửa ở mặt nước cho bùn đất trôi đi rồi mới đưa vào miệng. Các con voi con tập một hồi rồi cũng làm được như con voi mẹ.

Mấy con voi con này rất có cảm tình với Bụt. Voi và Bụt rất thân cận và yêu mến nhau. Có khi voi mẹ hái cả trái cây để cúng dường Bụt. Bụt ưa vuốt đầu những con voi con và đưa chúng xuống bờ hồ. Con voi chúa thường dùng tiếng rống để triệu tập đàn voi và những con voi con. Tiếng rú của con voi chúa rất là oai vệ. Bụt đã học và bắt chước được tiếng rú này. Có một lần sau khi con voi chúa rú lên tiếng rú oai vệ của nó, Bụt cũng bắt chước rú lên, con voi chúa nghe tiếng rú lập tức nhìn về phía Bụt, và nó tới trước Bụt rồi quỳ hai chân trước xuống, Bụt vuốt ve và đỡ nó dậy.

Bụt ở lại an cư tại đây. Đây là mùa an cư thứ mười của Bụt sau ngày thành đạo. Đây là lần thứ hai người an cư một mình. Suốt này người ở trong rừng. Chỉ buổi sáng vào giờ khất thực người mới rời khỏi khu rừng xanh tốt của người để đi vào tụ lạc mà thôi.

Sau mùa an cư, Bụt từ giã đàn voi và khu rừng xinh đẹp. Người đi về hướng Đông Bắc. Nửa tháng sau người về tới tu viện Cấp Cô Độc ở Savatthi. Đại đức Sariputta thấy Bụt về mừng lắm. Rahula cũng có mặt tại đó. Nhiều vị đại đệ tử cũng có mặt tại đó: các đại đức Mahamoggallana, Mahkassapa, Mahakunda, Upali, Mahakotthiya, Mahakappina, Mahakunda, Revata, và Devadatta ... Các đại đức Anuruddha, Kimbila, Nandiya từ công viêng Rừng Trúc ở Karagama cũng đã về tới. Ni sư Gotami cũng có mặt tại Savatthi. Thấy Bụt ai nấy đều mừng rỡ.

Bước vào tịnh xá, Bụt gặp thầy Ananda đang sắp đặt và quét dọn lại tịnh xá. Một năm và bốn tháng trời, Bụt đã vắng mặt tại đây. Thấy Bụt, đại đức Ananda mừng quá. Thầy buông chổi vái chào Bụt, Bụt hỏi thăm thầy về tình trạng ở Kosambi. Thầy nói:

- Sau khi Bụt bỏ đi, một số huynh đệ đến tìm con và nói: “Này sư huynh, Thế Tôn đã bỏ đi rồi, người đi một mình. Tại sao sư huynh không tìm theo Bụt để làm thị giả cho người. Nếu sư huynh không đi thì chúng tôi đi vậy”. Con trả lời: “Nếu Bụt đi mà không cho ai biết mà cũng không từ giã huynh đệ chúng ta, đó là vì người muốn đi một mình. Chúng ta không nên làm phiền người". Sau đó khoảng sáu tháng, một số huynh đệ lại tới nói với con: “Này sư huynh, lâu nay chúng mình không được nghe Thế Tôn dạy bảo, không được nghe giáo pháp trực tiếp từ miệng của bậc thầy nói ra. Chúng ta nên đi tìm người”. Chúng con đã lên đường tìm Bụt nhưng không được gặp. Không ai biết Bụt ở đâu. Cuối cùng chúng con tìm về Savatthi. Về tới đây chúng con cũng không thấy Bụt. Chúng con tự bảo nên kiên nhẫn chờ Bụt tại đây. Thế nào người cũng về. Thế nào người cũng không bỏ các đệ tử xứng đáng của người. 

- Khi thầy rời Kosambi, tình trạng như thế nào? Các vị khất sĩ còn cãi cọ nhau nhiều không?

- Thế Tôn, hồi ấy tình trạng còn căng thẳng lắm. Căng thẳng hơn ngày Thế Tôn ra đi nhiều, không bên nào chịu thua bên nào. Không khí thật là khó thở. Mỗi lần đi vào thành phố khất thực là chúng con lại bị giới cư sĩ hỏi nhau về vụ tranh chấp. Chúng con nói: “Có nhiều vị khất sĩ đứng ngoài vụ tranh chấp. Xin quý vị biết cho điều đó”, và đó là điều duy nhất mà chúng con có thể làm. Dần dần giới cư sĩ bắt đầu phản ứng. Họ tìm tới tu viện và nói với các vị khất sĩ trong vụ tranh chấp: “Quý thầy đã không nghe lời Bụt để cho Bụt phải buồn lòng mà bỏ đi. Quý thầy có trách nhiệm rất lớn. Giới tại gia của chúng tôi đã mất rất nhiều niềm tin. Xin quý thầy xét lại”. Thưa Thế Tôn, ban đầu thì các thầy không chú ý tới lời cảnh cáo của giới tại gia, nhưng sau đó, giới tại gia cương quyết bảo nhau không cúng dường cho các vị có mặt trong cuộc tranh chấp. Hỏi tại sao không cúng dường tăng bảo, họ trả lời: “Quý vị không xứng đáng với Bụt, bởi vì quý vị không có sự hòa hợp. Nếu quý vị nghe lời Bụt mà hòa giải được với nhau, rồi sau đó đi tìm Bụt để sám hối, thì chúng tôi sẽ khôi phục được niềm tin. Lúc đó chúng tôi mới hành trì lại phép cúng dường với tất cả tâm thành của chúng tôi được". Thưa Thế Tôn, giới tại gia ở Kosambi cương quyết lắm. Họ nói thì họ làm. Ngày rời Kosambi, con nghe nói là hai bên định ngày tập hợp để đi tới sự hòa giải. Con nghĩ là họ sẽ hòa giải được và sớm muộn gì họ cũng tìm về tới đây để xin sám hối với Bụt. 

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.