Gần đây những sự kiện diễn ra cho GHTN chắc hẳn đã làm cho Tăng, Ni
và Phật tử có lòng đối với GHTN nói riêng và PGVN nói chung cảm thấy
đau buồn vô hạn! Người viết bài này đã ưu tư thật nhiều về hiện
trạng bi thương này và chính nỗi đau trĩu nặng trong tâm suốt thời
gian qua đã làm cho tôi không thể im lặng được nữa. Tôi nghĩ nếu cứ
tiếp tục im lặng thì chẳng khác gì mình ngoảnh mặt làm ngơ trước
những đau thương và mất mát lớn lao của GHTN và PGVN. Vì vậy, xin
được góp lời để nói lên cảm nghĩ của người con Phật trước cơn biến
động sâu xa của GHTN hiện nay.
Trong cuốn Người Xuất Gia, Hòa Thượng Thích Trí Quang đã viết: “Trước
hết, đừng lạc quan rằng thống nhất như vậy là độ thịnh của
Phật-Pháp. Khi một lâu đài mà người ở trong đó đã phải kêu gọi
nhau, chung lưng góp sức để chống giữ thì lâu đài ấy đã gần sụp đổ.
Phật-giáo bước đến sự thống nhất ngày nay cũng là triệu chứng đó.
Thật vậy, Phật-Giáo không sắp sụp đổ nhưng có thể sẽ sụp đổ. Mà
nguyên nhân lớn lao nhất gây ra sự sụp đổ đó là sự chia rẽ của
Phật-giáo-đồ. Một lâu đài mà kẻ ở trong đó ai cũng khẻ gạch, rút
ngói, thì không sụp đổ thế nào được. Bởi vậy, muốn tránh sự sụp đổ
có thể xảy ra cho Phật-giáo, Phật-giáo-đồ phải thống nhất. Thống
nhất, như vậy, thành một phương pháp độc nhất để duy trì Phật-giáo,
thành một mục đích vô nhị mà Phật-giáo-đồ phải hiến mình cho nó nếu
còn muốn có mặt bây giờ và mai hậu ở thế giới này.” (Thích Trí
Quang, Người Xuất Gia, nhà xuất bản Phú Lâu Na, Hoa Kỳ, 2003, trang
79-80).
Những lời trích dẫn trên, Hòa Thượng Thích Trí Quang đã viết khi
phong trào thống nhất PGVN đang tiến hành. Đó là nhận định sâu sắc
đúng với thực tế đã và đang xảy ra cho nền thống nhất PGVN. Trong
đoạn văn trích ở trên, Hòa Thượng Thích Trí Quang đã nêu rõ nguyên
nhân của sự sụp đổ của nền thống nhất PG chính là “sự chia rẽ của
Phật-giáo-đồ”, mà sự chia rẽ ấy bộc lộ ra ở hành động “khẻ
gạch, rút ngói” của chính những người trong nội bộ PGTN. Hành
động “khẻ gạch, rút ngói” là gì? Là hành động phi chánh pháp, tham
quyền cố vị, mua danh bán chức, kết bè kết đảng để thao túng và trục
lợi trong nội bộ của PGTN.
Chính vì vậy, trong cuốn Tăng Già Việt
Nam, Hòa Thượng Thích Trí Quang đã viết: “Phương tiện cần thiết
vô cùng cho nền Phật-giáo Thống-nhất. Nhưng dùng nó một cách vô ý
thức, hay không dùng nó một cách vô ý thức, tất nhiên đều làm tan rã
nền Phật-giáo Thống-nhất ấy.” (Thích Trí Quang, Tăng Già Việt
Nam, nhà xuất bản Phú Lâu Na, Hoa Kỳ, 2004, trang 34).
Nhìn lại hiện trạng đổ vỡ của GHTN ngày nay, chúng ta thấy một số ít
người đã lạm dụng “phương tiện cần thiết” để thực hiện mưu đồ
cá nhân và phe phái riêng tư của họ, chứ không phải là vì để bảo vệ
và phát triển thật sự GHTN. Họ nhân danh thống nhất, nhưng cái
thống nhất mà họ sử dụng đó đã đi ngược lại hoàn toàn tinh thần
thống nhất của truyền thống GHTN suốt từ trên bốn thập niên qua.
Tinh thần thống nhất của truyền thống GHTN là tinh thần bao dung, từ
bi và trí tuệ, là tinh thần gạt bỏ những dị biệt về tông phái, hệ
phái, quan điểm cá nhân, phe nhóm để cùng nhau hòa hợp chung lưng
xây dựng và phát triển nền Phật Giáo Việt Nam. Tinh thần thống nhất
truyền thống GHTN là tinh thần hòa bình không chủ trương thù hận,
không khích động lòng căm thù giữa những cá nhân hay phe nhóm từ
trong ra ngoài Phật Giáo. Tinh thần ấy đã bị vùi dập thẳng tay
trong các bài viết trên trang web tinparis, hoặc được phổ biến qua
email với những nickname như Thích Tín Tâm, Thích Chánh Hạnh, Thích
Tỉnh Thức, Tri An, v.v… và ngay cả trong Thông bạch của VHĐ về việc
hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 của Viện Tăng Thống.
Một số ít người, mở miệng ra là nhân danh GHTN. Nhưng tinh thần
thống nhất của họ ở đâu? Trong đợt thanh trừng nhân sự của VHĐ vào
năm 2005, họ vu khống và chụp mũ Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và chư vị
thành viên VHĐ khác là âm mưu lật đổ nhị vị đại lão Hòa Thượng Thích
Huyền Quang và Thích Quảng Độ để thành lập cái mà họ gọi là “GHTN
không Huyền Quang, không Quảng Độ.” Rồi họ tiếp tục “điên đảo mộng
tưởng” liên kết trách nhiệm của Hòa Thượng Thích Trí Quang, Thượng
Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát với Hội Thân Hữu
Già Lam để có cớ vu khống và buộc tội các vị này trong cái mà họ gọi
là âm mưu bán đứng GHTN cho CS. Họ suy diễn một cách hoang đường
mối liên hệ giữa Hội Thân Hữu Già Lam với Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại,
với Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại và việc tổ chức Ngày Về Nguồn. Để
thực hiện âm mưu thao túng GHTN trong nước và loại trừ các GHTN tại
hải ngoại, họ tung tin là sẽ có cuộc đàn áp nước lũ của CS để tiêu
diệt GHTN trong nước. Rồi chuyện gì đã xảy ra? Đàn áp nước lũ và
tiêu diệt GHTN trong nước đâu không thấy mà chỉ thấy Giáo chỉ số 9
và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ được công bố nhằm công
khai giải tán các GHTN tại Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Đại Lợi-Tân
Tây Lan. Việc CS đàn áp nước lũ để tiêu diệt GHTN trong nước, nếu
có, thì không những không liên can gì đến các GHTN ở hải ngoại mà
còn phải liên kết chặt chẽ các GHTN này lại thành một khối để hậu
thuẫn cho GHTN trong nước mới phải.
Đó có phải là tinh thần thống nhất của GHTN truyền thống mấy chục
năm qua? GHTN truyền thống đã được bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử
trong và ngoài nước từ trên mấy thập niên qua không ngừng tích cực
đóng góp máu xương và mồ hôi nước mắt để bảo vệ và phát triển. GHTN
truyền thống là nơi tụ hội của bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử tài đức
và nhiệt tâm nhiệt huyết. GHTN truyền thống đâu phải như hôm nay,
sau Giáo chỉ số 9 và Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ, chỉ còn
lại năm bảy vị trong nước và 14 vị tại hải ngoại! Thống nhất mà như
vậy sao? Thống nhất mà càng ngày càng loại trừ, gạt bỏ, giải tán,
vu khống, chụp mũ bao nhiêu Tăng Ni và Phật tử một lòng một dạ từ
trên bốn chục năm qua hay sao? Thống nhất mà từ một tổ chức có lực
lượng Tăng, Ni và Phật tử đông đảo và hùng hậu nhất của cả nước bây
giờ co cụm lại trong một nhóm nhỏ người trên ốc đảo hoang vu!
Tinh thần thống nhất truyền thống đúng nghĩa đã được đại lão Hòa
Thượng Thích Huyền Quang thể hiện đầy đủ trong chuyến đi chữa bệnh
tại Hà Nội của ngài vào năm 2003. Trong dịp này, đại lão Hòa Thượng
Thích Huyền Quang đã gọi Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ với tư cách là Tổng
Thư Ký Viện Hóa Đạo GHTN ra Hà Nội để thay mặt ngài tiếp kiến 6 vị
đại sứ các nước Âu Châu và Hoa Kỳ. Trong cuộc tiếp kiến ấy, Thượng
Tọa Thích Tuệ Sỹ đã trình bày về hiện tình pháp nạn của GHTN nêu rõ
lập trường trước sau như một của GH truyền thống đối với dân tộc và
đạo pháp. Sự kiện ấy đã làm nổi bật tư cách chính thống và tính hợp
pháp của GHTN đối với chính quyền cộng sản Việt
Nam
và các chính phủ tự do dân chủ trên thế giới. Vậy mà Phóng Thông
Tin Phật Giáo Quốc Tế và Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo đã cố tình làm
ngơ. Tại sao lại có chuyện khó hiểu như thế? Sau đó, đại lão Hòa
Thượng Thích Huyền Quang đã đi thăm viếng các chùa viện và chư Tăng,
Ni cùng Phật tử từ miền Bắc, vào miền Trung và miền Nam. Đâu đâu
ngài cũng được chư Tăng, Ni và Phật tử của hai GHTN và GHPGVN cung
nghinh long trọng. Chuyến đi ấy của đại lão Hòa Thượng Thích Huyền
Quang mang ý nghĩa gì? Đó là nỗ lực đầy trí tuệ, vô úy và từ bi bao
dung của bậc cao Tăng lãnh đạo tối cao GHTN nhằm mục đích lắng nghe,
tìm hiểu, cảm thông tâm tư và nguyện vọng của Phật giáo đồ Việt Nam
để từ đó hoạch định hướng đi cao cả và lợi ích lâu dài cho toàn thể
Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam.
Trường hợp bị vu khống, chụp mũ, miệt thị của Thượng Tọa Thích Tuệ
Sỹ từ lâu nay là điều đau lòng đối với Tăng, Ni và Phật tử trong và
ngoài nước. Thượng Tọa đã làm gì và VHĐ đã có cuộc họp, có mở cuộc
tìm hiểu, nghiên cứu và điều tra cặn kẽ nào chưa, mà đưa ra lời buộc
tội như vậy? Việc làm ấy có dựa trên các nguyên tắc của luật tạng
trong Tăng già, có căn cứ vào các điều khoản của Hiến Chương GHTN,
của Nội Quy Hội Đồng Viện Hóa Đạo? Trong Thông cáo báo chí phổ biến
ngày 26 tháng 9 năm 2007, ông Võ Văn Ái đã viết:
“Hai nhà học Phật Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ, vốn có công trong
việc trước tác, dịch kinh Phật giáo. Nhưng trên lĩnh vực chính trị
thì hai ngài mắc phải sai lầm trầm trọng. Năm 1981, hai ngài cố
vấn cho Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia Giáo hội Phật giáo nhà
nước, theo luận điểm hòa hiệp với nhà cầm quyền cộng sản để có thể
làm văn hóa thuần túy, làm giáo dục thuần túy và đào tạo Tăng Ni
thuần túy. Nhưng 26 năm qua cái Giáo hội mà Cố Hòa thượng Thích Trí
Thủ tham gia làm được gì cho Phật giáo Việt Nam, ngoài vai trò làm
công cụ chính trị cho Nhà nước và Đảng? Cái Giáo hội Phật giáo Nhà
nước với bao nhiêu là học viện cao cấp, trung cấp, sơ cấp Phật giáo
được Ban Tôn giáo cho phép thành lập, đào tạo được bao nhiêu cao
tăng? Đưa Phật giáo Việt
Nam
đi về đâu năm 2007 này? Phật tử trong và ngoài nước tự hỏi vì sao
hai ngài với nhóm Thân Hữu Già Lam giẫm lại vết xe cũ đã đẩy Cố Hòa
thượng Thích Trí Thủ và Phật giáo Việt Nam vào nơi tử lộ? Đáng buồn
và khó hiểu vì sao hai ngài có thể điềm nhiên tọa thị để cho nhóm đệ
tử của hai ngài, còn mặc áo tu hay đã ra đời, mở chiến dịch đánh phá
GHPGVNTN, đánh phá chư huynh đệ pháp lữ hay người đồng đạo một cách
sỗ sang, thô lỗ, thiếu văn hóa? Nhất là tỏ lời bất kính và hỗn láo
với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước?”
Viết như trên, ông VVA đã cố tình bằng ác tâm xuyên tạc và vu khống
không bằng chứng các sự việc như sau:
- Ông VVA nói Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Lê Mạnh Thát là
cố vấn cho Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ tham gia GHPGVN, bằng chứng ở
đâu? Việc Cố đại lão Hòa Thượng vì hạnh nguyện mà đứng ra gánh vác
công việc thành lập GHPGVN đó là quyết định và hy sinh của ngài,
không một ai có thể bắt ngài phải làm vậy.
- Ông VVA nói Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Lê Mạnh Thát cùng
với nhóm Thân Hữu Già Lam dẫm lại vết xe cũ. Ông lấy bằng chứng gì
để nói Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Lê Mạnh Thát cấu kết với
nhóm Thân Hữu Già Lam? Tâm Thư của Hội Thân Hữu Già Lam đã nói rõ
rằng Hội Thân Hữu Già Lam được ra đời là do tự nguyện tự phát của
những vị đã từng học tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam và trong mọi
công tác văn hóa giáo dục và từ thiện xã hội Hội THGL đều tự hoạch
định và thi hành. Ông VVA cố tình nối kết giữa Thượng Tọa Thích Tuệ
Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và Hội THGL là để có cớ tiếp tục buộc tội
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát.
- Ông VVA muốn chất vấn về thành quả hoạt động của GHPGVN thì ông
hãy viết văn thư gửi trực tiếp cho GHPGVN mà đặt vấn đề. Ông đừng
dụng tâm ác độc cố tình gán ghép chuyện làm của GHPGVN với Thượng
Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Lê Mạnh Thát. Đây đúng là cơ tâm của
một kẻ làm chính trị bá đạo. Ông còn có tư cách gì để phê phán cái
mà ông gọi là “lĩnh vực chính trị của hai ngài.”
Ai là người dùng các nickname khác nhau để viết nhiều bài trên trang
điện toán toàn cầu Tinparis với lời lẽ thô tục, hằn học, đầy hận
thù, xúc phạm một cách nặng nề đối với quý Hòa Thượng và chư tôn đức
Tăng, Ni trong và ngoài nước? Chư Tăng, Ni và tri thức Phật tử vì
không muốn nói, nhưng đều biết rõ những người kia không ai ngoài ông
VVA, TCL, TVL. Những lời lẽ, lý luận và chủ trương trong các bài
viết với nickname kia đã lộ rõ trong các văn bản của ba vị khi lấy
tên thật, làm sao có thể che dấu được gì dưới ánh sáng mặt trời!
Xin trở lại vấn đề thống nhất. Với ý thức thống nhất đúng nghĩa của
truyền thống GHTN, đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang tuyệt đối
không thể nào là vị lãnh đạo đưa ra Giáo Chỉ số 9 và đồng thuận với
Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của VHĐ. Hai văn bản
này chứa đựng nhiều điểm không phù hợp với tinh thần thống nhất
truyền thống của GHTN, đó là chưa nói đến truyền thống hòa hợp của
tăng đoàn, và vi phạm vào Hiến Chương GHTN trong nước cũng như Quy
Chế của các GHTN tại Hải Ngoại. Trong phần nhận định, Giáo chỉ viết
rằng:
“Nhận định rằng đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu
diệt GHPGVNTN, một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải
ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương,
đường hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt tiếng
nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế.”
Ai là “phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại?”
Giáo chỉ của Viện Tăng Thống mà quơ đũa cả nắm như vậy thì làm sao
nêu cao lý tưởng thống nhất với Tăng, Ni và quần chúng Phật tử?
Chứng cớ nào gọi là “gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ
trương, đường hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại,..?” Hội
Đồng Lưỡng Viện GHTN trong nước và Văn phòng II VHĐ tại hải ngoại đã
có triệu tập cuộc họp nào hay ủy cử một Ban Nghiên Cứu nào để lắng
nghe, tìm hiểu và điều tra về sự kiện được nói đến trong Giáo chỉ
chưa? Chưa có một thể thức hành chánh hợp pháp nào được thực hiện,
chưa có một bản phúc trình và nghiên cứu tình hình nào được công bố
thì căn cứ vào đâu và dựa vào nguyên tắc hành chánh nào để đưa đến
kết luận chắc như đinh đóng mà viết trong Giáo chỉ. Sự thiếu thận
trọng và nghiêm túc tương tự cũng được thấy trong Thông Bạch của VHĐ
hướng dẫn thi hành Giáo chỉ:
“Chúng tôi được biết, ở Tu viện Quảng Hương Già Lam (Gò Vấp,
Saigon) cách đây một năm đã hình thành một nhóm có tên gọi “Thân Hữu
Già Lam”. Thành viên khoảng trên dưới 40 vị gồm các thành phần Tu
sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất, có mặt trong nước, ngoài nước khắp các
châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng già, chưa dám đứng hẳn
vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981) tức Giáo hội Phật giáo Nhà
nước). Các vi quyên góp tiền gây quĩ xây dựng Đại học, Thư viện,
Hội trường, làm Văn hóa, Giáo dục Phật giáo. Đứng đầu nhóm có Giáo
sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát và học giả Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ.”
“Chúng tôi có đọc nội dung biên bản cuộc họp của các vị Thân hữu
Già Lam qua hệ thống điện thoại có nhiều người tham dự từ Việt Nam,
Úc, Canada, Mỹ.”
Tâm Thư của Hội Thân Hữu Già Lam đã công bố rộng rãi trên các hệ
thống thông tin báo chí và internet ngày 10 tháng 10 năm 2007 vừa
qua cho người đọc thấy rằng những điều được đề cập trong Thông bạch
đã trích ở trên là hoàn toàn sai sự thật, nếu không muốn nói là cố
tình xuyên tạc, vu khống và chụp mũ Hội Thân Hữu Già Lam. Tại sao
một Thông bạch trang nghiêm của một GH có uy tín bậc nhất của PGVN
dưới sự lãnh đạo của chư tôn đức giáo phẩm đạo cao đức trọng trong
chốn Thiền Môn mà lại có những điều không đúng sự thật như vậy diễn
ra? Từ đó tôi nghĩ rằng đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, đại
lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh không
bao giờ nghĩ đến chuyện làm như vậy chứ đừng nói là chính tay quý
ngài viết ra các sự kiện sai sự thật đó!
Trong Thông bạch thi hành Giáo chỉ có viết:
“Luận điểm tuyên truyền của họ (tức Thân Hữu Già Lam, chú của
người viết) là: “Nên làm văn hóa thuần túy, nên lo giáo dục
thuần túy, nên tu học thuần túy.” Đây là thứ lý luận đuổi chim
để thủ tiêu tranh đấu.”
Nhưng trong Giáo chỉ số 9 thì viết:
“Các cuộc cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội của Giáo hội
đã được thực hiện công khai ngày 13.7 và 17.7 tại Saigon và 23.8 tại
Hà Nội.”
Như vậy nghĩa là sao? Có phải: Thứ nhất, Giáo hội thì được quyền
làm “cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội”, còn những ai khác
thì không được làm? Thứ hai, trong Thông bạch thì công kích Hội
Thân Hữu Già Lam là “làm văn hóa thuần túy, giáo dục thuần túy…”,
còn trong Giáo chỉ thì nêu cao việc làm “cứu trợ thuần tùy từ
thiện xã hội” của Giáo hội. Thứ ba, Hội Thân Hữu Già Lam đã phủ
nhận lời xuyên tạc trên trong Tâm Thư vừa phổ biến. Đại lão Hòa
Thượng Huyền Quang và đại lão Hòa Thượng Quảng Độ sao lại đối chọi
nhau trong quan điểm được nêu ra trong hai văn bản Giáo chỉ và Thông
bạch?
Trong Giáo chỉ số 9 có viết:
“Điều 3: Văn phòng II Viện Hóa Đạo trực thuộc sự chỉ đạo và điều
hành của Viện trưởng Viện Hóa Đạo trong nước. Thành viên Văn phòng
II Viện Hóa Đạo do Viện trưởng Viện Hóa Đạo tuyển thỉnh và chỉ định;
tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các thành viên có thể được bổ sung,
hoán chuyển hay thay đổi.”
“Điều 5: Văn phòng II Viện Hóa Đạo và các thành viên được thỉnh
cử hoạt động vô thời hạn.”
Đọc qua 2 điều trên, người đọc cảm thấy ngạc nhiên vô cùng về điều
lệ của Văn phòng II VHĐ. Nều là hoạt động vô thời hạn thì khi bị
hoán chuyển hay thay đổi, một thành viên có thể nêu nguyên tắc của
điều 5 để không chấp nhận thi hành quyết định sau này. Hơn nữa, nêu
ra điều kiện “hoạt động vô thời hạn” như vậy đối với một cơ chế bao
gồm những vị xuất gia và cư sĩ là một vấn đề hoàn toàn nguy hại
trong tương lai của tổ chức này. Bởi vì, giả dụ, một cư sĩ là thành
viên trong VPII-VHĐ vì tham sân si (cư sĩ thì đương nhiên tánh tham,
sân, si vẫn còn nhiều lắm) có thể thay đổi lập trường, có thể bị mua
chuộc, bị tha hóa thì tổ chức làm sao có thể giải nhiệm vị cư sĩ
đó?
Trong Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ có viết:
“3. Giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải
ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ và GHPGVNTN-HN tại các châu được hình
thành theo Quyết Định số 27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo ban hành ngày 10.12.1992. Quyết Định này hủy bỏ và thay thế
bằng Giáo chỉ số 9/VTT/GC/TT của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền
Quang ban hành ngày 8.9.2007.”
Quyết định số 27 của VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo ký ban hành ngày 10 tháng 12 năm1992 có viết:
“Điều 2: Nay công nhận GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ do Đại Hội
ngày 15, 26, 27- 9- 1992 vừa công nhiên thành lập tại San Jose,
California, Hoa Kỳ.”
“Điều 3: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ có địa
vị như một Giáo Hội cấp quốc gia, nhưng có tư cách Đại diện toàn
quyền Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất quốc nội trong thời
gian không hạn định.”
“Điều 5: Văn Phòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại
tại Hoa Kỳ cấp Liên bang được coi như Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
GHPGVNTN quốc nội.”
Như thế, Quyết Định số 27 của VHĐ ký ban hành ngày 10/12/1992 không
đề cập gì đến việc công nhận hay trao quyền gì của VHĐ cho các GHTN
tại Canada, Âu Châu và Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan cả. Vậy thì, VHĐ, qua
Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ, có đủ tư cách và thẩm quyền
để tuyên bố giải tán các GHTN tại Canada, Âu Châu và Úc Đại Lợi-Tân
Tây Lan? Ngay cả đến việc VHĐ tuyên bố thành lập VPII-VHĐ mới và
giải tán GHTN tại Hoa Kỳ cũng đã không hợp tình và hợp lý, như trong
bức Thư của Hòa Thượng Thích Thắng Hoan, Chánh Thư Ký Hội Đồng Giáo
Phẩm, đệ trình Đức Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã có thỉnh
hỏi.
Theo dõi cuộc họp báo của VPII-VHĐ mới tại phòng sinh hoạt thành
phố Westminster, California, Hoa Kỳ vào trưa ngày 13 tháng 10 năm
2007, tôi thấy có mấy điều lạ và nghịch lý xin nêu ra sau đây để chư
độc giả tham tường.
Trước câu hỏi liên quan đến Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ
số 9 về việc giải tán các GHTN tại Canada, Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Đại
Lợi và Tân Tây Lan, Pháp sư Giác Đức đã trả lời một cách mập mờ rằng
đây không phải là việc giải tán các GHTN cũ, mà là tái cấu trúc cơ
cấu để điều chỉnh chính sách của GHTN trong nước trước tình hình
nguy ngập của GHTN có thể bị đàn áp nước lũ và bị tiêu diệt. Trả
lời như vậy cho thấy mấy điểm nghịch lý:
1. Nếu khẳng định là không phải “giải tán”, tức là đi ngược lại
Thông bạch, trong đó có nói rõ là “Giải tán các Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ và GHPGVNTN-HN tại các
châu…”
2. Vì trong Thông bạch ghi rõ là “giải tán các GHPGVNTN-HN tại Hoa
Kỳ và các châu”, cho nên giải thích như vậy chứng tỏ rằng VPII-VHĐ
đã cố tình giải thích khác đi Thông bạch. Với mục đích gì? Đơn
giản mà nói là bởi vì sau khi Thông bạch công bố thì phản ứng mạnh
mẽ của chư Tăng, Ni và Phật tử hải ngoại đối với việc giải tán này,
vì vậy cần phải làm dịu công luận bằng giải thích khác đi.
3. Điều ấy cho thấy rằng Thông bạch tuyên bố giải tán các GHTN tại
hải ngoại là có vấn đề, nếu không muốn nói là hoàn toàn sai, sai từ
nguyên tắc pháp lý đến nguyên tắc đạo tình trong tinh thần thống
nhất truyền thống của GHTN. Vì vậy, mới có chuyện mấy ngày qua, Hòa
Thượng Hộ Giác gửi văn thư đến các thành viên của GHTN Hoa Kỳ cũ để
triệu tập cuộc họp. Hành động này là đã sai còn tiếp tục sai thêm.
Bởi vì, GHPGVNTNHN-HK đã bị giải tán rồi, theo Thông bạch, thì ai
còn tư cách thành viên chính thức để mà ký văn thư mời và đi tham dự
cuộc họp? Nếu người ký văn thư mời và người được mời tham dự còn có
tư cách là thành viên chính chức thì hiệu lực và thẩm quyền của
Thông bạch để đâu? Qua sự kiện trên, người biết chuyện cảm thấy
giống như đang ngồi xem một màn bi hài kịch. Điều đau lòng là màn
kịch thì do một vài người soạn ra theo tư kiến của họ, nhưng khi
trình diễn thì lại gây ra bao nhiều hoang mang, mất mát cho GHTN nói
riêng và PGVN nói chung!
Trước câu hỏi liên quan đến việc đàn áp nước lũ và tiêu diệt GHTN
trong nước, ông Võ Văn Ái đã giải thích bằng cách đưa ra mấy luận
chứng sau đây để cho thấy rằng việc đó không dễ gì xảy ra, và chính
quyền CS Việt Nam cũng không dễ gì thực hiện một việc như vậy trong
hoàn cảnh ngày nay. Mấy luận chứng đó là:
- Mười mấy năm trước, khi chỉ có nhị vị lãnh đạo GH là đại lão Hòa
Thượng Thích Huyền Quang (bị câu lưu tại Quảng Ngãi) và Hòa Thượng
Thích Quảng Độ (bị câu lưu tại Thái Bình) mà GHTN cũng không bị
chính quyền CS tiêu diệt được. Ngày nay, sau Đại Hội Bất Thường tại
Tu Viện Nguyên Thiều vào tháng 10 năm 2003, GHTN đã có đủ Lưỡng Viện
với trên 40 vị Giáo phẩm và trên 20 BĐD/GHTN trong nước thì CS làm
gì có thể tiêu diệt đươc.
- Uy tín của GHTN trong chính giới Âu-Mỹ đang lên rất cao.
- Áp lực quốc tế đối với chính quyến CS Việt Nam ngày càng mạnh qua
vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền.
- Xu thế dân chủ toàn cầu đang được phát triển mạnh mẽ sẽ làm cho
chính quyền CS Việt Nam không thể đi ngược lại.
Mấy luận chứng nêu ra của ông VVA để trấn an công luận rằng GHTN
trong nước sẽ không bị tiêu diệt như thời kỳ cách nay mười mấy năm
trước đây nữa. Nhưng, chính luận chứng ấy đã quật ngã các tuyên bố
gần đây của PTTPGQT và Phát Ngôn Nhân VHĐ rằng sẽ có cuộc đàn áp
nước lũ và tiêu diệt GHTN trong nước. Tại sao lại có nghịch lý
này? Lý do thật đơn giản, khi đưa ra tuyên bố GHTN trong nước sẽ bị
đàn áp nước lũ và tiêu diệt bất cứ lúc nào là để tạo lý cớ cho việc
“giải tán” các GHTN tại hải ngoại. Sau khi âm mưu giải tán các GHTN
hải ngoại thành công rồi, ông VVA liền quay trở lại ca tụng thành
quả đấu tranh của ông trên trường quốc tế, rằng CS sẽ không dám đàn
áp nước lũ!
Trong lời phát biểu, ông Lý Đại Nguyên đã biện hộ cho việc thành lập
VPII-VHĐ. Ông giải thích rằng trong tổ chức GH vì không có ứng cử
nên không có bầu cử như các tổ chức thế gian. Các chức vụ trong
GHPG cũng giống như bên Công Giáo La Mã là tuyển thỉnh trong hàng
giáo phẩm. Rồi ông lại nhập nhằng giải thích về tính dân chủ của
GHTN nói rằng mọi đường lối chính sách đều được đưa ra trước Đại Hội
để thảo luận và quyết định. Ông Lý Đại Nguyên là người gần gũi quý
Thầy, có cơ duyên với đạo Phật từ lâu, nhưng đáng tiếc là ông không
hiểu gì về nền tảng của cơ cấu Phật Giáo. Cơ cấu và hoạt động của
tập thể Tăng già khác với cơ cấu và hoạt động của GH, như GHTN. Vì
GH là cơ cấu tổ chức được thành lập nhắm đến mục đích đi sâu vào các
hoạt động có tính quần chúng, xã hội. Cho nên, trong cơ cấu GH bao
gồm hai giới xuất gia và tại gia. GH như vậy không thể ứng dụng
đúng theo quy tắc của Tăng đoàn lấy giới luật, đạo hạnh, hạ lạp làm
chuẩn mực điều hành. GH là cơ cấu tổ chức mang tính quần chúng và
xã hội cho nên, bắt buộc phải ứng dụng theo các nguyên tắc hoạt động
của xã hội, của quần chúng, của luật pháp thế gian. Chính vì thế,
GH trong thời đại ngày nay là phải tuân hành theo các nguyên tắc
sinh hoạt tự do, dân chủ. Lẽ tất nhiên, các vị Phật tử tham gia
trong GH lúc nào cũng kính trọng chư Tăng, Ni như là thành phần của
Tam Bảo. Nhưng, thứ nhất, chư Tăng, Ni phải đóng đúng vai trò, chức
năng và đạo đức của mình; thứ hai, vai trò của Phật tử tại gia phải
được tôn trọng như là chức năng mà họ đang gánh vác trong GH. Vì
vậy, trong GH có mấy Hội đồng với vai trò và nhiệm vụ khác nhau để
đáp ứng sinh hoạt có tính quần chúng và xã hội. Chẳng hạn, Hội Đồng
Giáo Phẩm là chỉ dành riêng cho chư Tăng, Ni mà không có cư sĩ, cho
nên, sinh hoạt của Hội Đồng Giáo Phẩm không giống sinh hoạt của Hội
Đồng Điều Hành và Hội Đồng Giám Sát. VPII-VHĐ là một cơ quan GH có
nhiệm vụ như một Hội Đồng Điều Hành, vì vậy mới có cư sĩ (VVA) và
nửa cư sĩ nửa tu sĩ (GĐ) tham gia. Như vậy, sinh hoạt của VPII-VHĐ
cần phải được ứng dụng tinh thần sinh hoạt có tính quần chúng và xã
hội, bao gồm tự do và dân chủ. Thế nên các chức vụ của VPII-VHĐ đều
phải được công cử bởi một Đại Hội khoáng đại của cơ cấu VPII, giống
như cơ cấu của các GHTN.
Khi được hỏi về trường hợp lá thư của Hòa Thượng Thích Thắng Hoan đệ
trình lên Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, pháp sư Giác Đức và ông
VVA đã nhấn mạnh đến ba điều:
1) Một vị cấp dưới mà viết thư cho người cấp trên mình mà chỉ trích
thượng cấp là tham sân si, thì là phạm thượng, vô lễ, không thể chấp
nhận.
Thực tế thư của Hòa Thượng Thích Thắng Hoan đệ trình Đức Tăng Thống
không có gì là chỉ trích Đức Tăng Thống là tham sân si cả. Hòa
Thượng Thích Thắng Hoan chỉ nêu một sự kiện trong Giáo Chỉ là có
chứa đựng lời lẽ đầy tham sân si. Nhưng Hòa Thượng Thích Thắng Hoan
cũng đã xác định rằng Hòa Thượng không nghĩ là Đức Tăng Thống đã
viết và đồng thuận với Giáo chỉ đó (hàm nghĩa rằng tác giả Giáo chỉ
là phát ngôn nhân VHĐ cùng thiểu số thời cơ tham quyền cố vị). Cho
nên, không thể buộc tội Hòa Thượng Thích Thắng Hoan là vô lễ với Đức
Tăng Thống được.
2) Đã là Giáo chỉ thì tất cả Tăng, Ni và Phật tử trong GHTN đều
phải khâm tuân. Không khâm tuân tức là không muốn bảo vệ GHTN trước
tình hình nguy ngập.
Nói như vậy thì có vẻ cưỡng bức quá đáng! Nếu đúng là Giáo chỉ được
viết và ký ban hành từ một vị lãnh đạo tối cao của GH thì đúng là
không khâm tuân không được. Nhưng, nếu biết rằng Giáo chỉ ấy không
phải là do vị lãnh đạo tối cao của GH viết và ký ban hành thì làm
sao có thể cúi đầu khâm tuân được? Đừng khiên cưỡng cho rằng những
ai không khâm tuân Giáo chỉ là không muốn bảo vệ GH. Nói vậy thì
chẳng lẽ phải đi ép các tôn giáo khác, các hội đoàn thế gian khâm
tuân theo Giáo chỉ để họ ủng hộ và hậu thuẫn cho công cuộc vận động
của GHTN hiện nay?
3) Việc phổ biến bức thư của Hòa Thượng Thích Thắng Hoan rộng rãi
là điều trái với nguyên tắc sinh hoạt của GH.
Vậy, ông VVA và một vài Thầy như TCL, TVL, nắm quyền thao túng GHTN
trong và ngoài nước có bao giờ suy nghĩ đến việc chính quý vị đã phá
bỏ nguyên tắc hành chánh, nguyên tắc sinh hoạt GH? Quý vị tự ý
thành lập lại cơ cấu VPII-VHĐ, tự ý tuyên bố giải tán các GHTN các
nước Canada, Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan, có thông qua
một cuộc họp, một văn thư giải thích, một trưng cầu ý kiến với đa số
thành viên trong các cơ cấu GH này không? Chưa có một cuộc trưng cầu
ý kiến hay đại hội nào, mà cũng chưa có một cuộc điều tra, hội ý,
thảo luận với các Hội đồng thuộc các GH, là đã ra Thông cáo báo chí,
phổ biến Giáo chỉ và Thông bạch khắp các cơ quan truyền thông đại
chúng bất kể thuộc Phật giáo hay không, bất kể thuộc tổ chức tôn
giáo hay chính trị! Quý vị phá bỏ nguyên tắc, phá bỏ giềng mối kỷ
cương rồi, bây giờ quý vị trở lại hạch hỏi nguyên tắc của các thành
viên khác, như vậy là đúng hay sao?
Tôi nghĩ chư Tăng, Ni và Phật tử phải mở lòng ra mà tiếp nhận sinh
hoạt mở cửa của thời đại tin học ngày nay. Mọi việc đều có thể được
công bố rộng rãi trước công luận. Ngày nay, ngay cả các bộ luật của
Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni cũng đã được phổ biến trong các websites Phật
Giáo, thì không còn gì có thể giữ kín được nữa. Nhìn trên mặt tích
cực, thì đây không hẳn là điều bất lợi mà ngược lại là đẳng khác.
Quả thật vậy, khi mọi việc đều có thể phổ biến ra công luận thì mọi
người, nhất là những người có trách nhiệm với số đông cần phải xét
lại khả năng và đạo đức của mình khi ra gánh vác việc chung. Ngày
nay có thể đây là vấn đề vẫn còn khó tiếp nhận với nhiều người, đặc
biệt chư Tăng, Ni, nhưng chắc chắn là trong một thời gian gần đây
thôi thì đây không còn là vấn đề nữa, mà là việc bình thường, giống
như trong sinh hoạt công cộng của xã hội Hoa Kỳ hiện nay vậy.
Những suy nghĩ trên đây được viết ra từ tâm thức muốn đóng góp một
chút gì cho GHTN nói riêng và PGVN nói chung. Lời thật mất lòng.
Xin hoan hỷ cho.
Như
Thuyết |