Thiền sư Thích Nhất Hạnh
:
" Hiện
đại hóa được đạo Phật Việt Nam, không những phụng sự cho dân tộc và
đất nước mà còn phụng sự cho cả thế giới. "
LGT
của Tuần báo Giác Ngộ :
Nhân
dịp
Hòa thượng Thích Nhất Hạnh chuẩn bị có chuyến đi hoằng hóa tại quê
nhà lần thứ hai, Báo Giác Ngộ số tết Đinh Hợi đã có cuộc phỏng vấn
Hòa thượng.
Phóng viên: Được biết theo lịch trình chuyến về
Việt nam của Thiền sư và Tăng thân Làng Mai năm 2007, đoàn sẽ ghé
nhiều nơi và tổ chức nhiều khóa tu cho Tăng Ni, Phật tử cũng như
nhiều thành phần trí thức khác của xã hội. Trong số những hoạt động
đó, thưa Thiền sư, điều nào khiến ngài quan tâm nhất?
Chư
Tôn Đức đón chào Thiền sư Nhất Hạnh
tại phi trường Tân Sơn Nhất ngày 20.02.2007 |
Thiền sư Nhất Hạnh: Tất cả mọi sinh hoạt đều quan
trọng như nhau. Qua những sinh hoạt như ngồi thiền, đi thiền hành,
tham dự pháp đàm, ngồi thiền trà, nghe pháp thoại, học làm mới, ăn
cơm im lặng, bái sám, tụng kinh, chúng ta sẽ cảm nhận được nguồn
năng lượng nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa thân tâm do sự thực
tập đem lại, nhất là khi ta thực tập cùng với Tăng thân. Ta sẽ cảm
thấy đạo Bụt không chỉ là một tôn giáo tín ngưỡng có công năng xoa
dịu những thương tích khổ đau, mà còn là một kho tuệ giác có công
năng trị liệu, nuôi dưỡng và chuyển hóa thân tâm. Tôn giáo tín
ngưỡng chỉ là lớp vỏ ngoài của đạo Bụt. Nguồn tuệ giác do sự thực
tập niệm định tuệ khơi mở mới là tinh hoa của đạo Bụt, có công năng
chữa trị tận gốc khổ đau và làm thỏa mãn những nhu yếu tâm linh sâu
sắc nhất của con người. Người xuất gia cũng như người tại gia trong
khi thực tập những pháp môn ấy với nhau, thấy được rằng chạy theo
những đối tượng ham muốn như giàu sang, quyền lực, danh vọng và sắc
dục không những không đem lại hạnh phúc chân thực mà lại còn tàn phá
thân tâm và đem lại khổ đau cho ta và cho người. Hạnh phúc chân thực
chỉ có thể có được nếu trái tim ta có được hiểu biết và thương yêu.
Có hiểu và thương thì liên hệ giữa ta với người sẽ tốt đẹp, và dù
nếp sống ta có đơn giản không cần tiêu thụ nhiều ta vẫn có rất nhiều
hạnh phúc.
Phóng viên:Thiền
sư được biết đến như là người chủ trương pháp môn tu thiền. Thế
nhưng trong chuyến về Việt Nam lần này, Thiền sư lại tổ chức nhiều
Đại trai đàn chẩn tế - một lễ mang nhiều yếu tố Mật giáo và dân
gian. Phải chăng đã có một sự đổi mới trong nhận thức cũng như
phương pháp của Thiền sư?
Thiền sư Nhất Hạnh:
Thiền có khả năng chuyển hóa và trị liệu. Đất nước và dân tộc ta qua
một cuộc chiến tranh kéo dài đã phải gánh chịu nhiều khổ đau. Hàng
triệu người đã chết vì bom đạn, hàng trăm ngàn chiến sĩ đã bỏ mình
trên mọi nẻo đường của đất nước và hài cốt chôn vùi ở đâu vẫn còn
chưa tìm ra hết được. Bao nhiêu người đã chết trong lao tù, bao
nhiêu người đã chết ngoài biển cả. Bao nhiêu người tuy còn sống
nhưng vấn tiếp tục gánh chịu oan khổ. Những oan khổ ấy nếu chưa được
công nhận, chưa được đưa lên vùng ánh sáng của ý thức, thì vẫn còn
âm thầm nuôi dưỡng khổ đau, và truyền về cho những đời sau, oán oán
chập chùng. Vì vậy, các Trai đàn Chần tế bình đẳng cầu siêu độ được
tổ chức mùa Xuân năm nay là những thực tập chuyển hóa, trị liệu rất
cần thiết; nhìn bằng con mắt thiền học thì ta thấy được như thế, mà
nhìn bằng con mắt sử học và tâm lý học ta cũng thấy được như thế.
Thiền, trước hết là chính niệm: thấy được những gì đang xảy ta trong
tâm ta và nơi hoàn cảnh ta. Thấy được rồi mới biết phải làm gì để
chuyển hóa, trị liệu và nuôi dưỡng. Chân ngôn là lời nói phát sinh
từ định: ba nghiệp thân, miệng và ý một khi được thống nhất trọng
định thì lời nói sẽ là chân ngôn và sẽ có khả năng chuyển hóa và trị
liệu. Trai đàn chẩn tế bình đẳng cầu siêu độ được tổ chức trong tinh
thần ấy, đem ý thức sáng tỏ chiếu vào những niềm đau khổ của người
đã khuất và người còn sống, nói lên lời thương xót và cầu nguyện; đó
là chân ngôn của cả một dân tộc để tự trị liệu cho mình. Ai trong
chúng ta mà đã không gánh chịu oan khổ của cuộc chiến? Tới với nhau
để cùng cầu nguyện cho tất cả những người đã xấu số, không phân biệt
già trẻ, gái trai, Bắc Nam, chủng tộc, tôn giáo và đảng phái chính
trị, đó là một sự thực tập trị liệu rất Thiền, và rất cần thiết. Đất
nước đang đứng trước một vận hội mới, nếu thống nhất được lòng dân
thì ta sẽ không bỏ mất cơ hội này.
Phóng viên:
Sau
hơn 40 năm rời xa quê hương, Thiền sư đã có một chuyến trở về đầy ý
nghĩa cách đây hai năm. Những cảm xúc, ấn tượng và kỷ niệm nào còn
đọng lại trong lòng Thiền sư sau chuyến trở về ấy?
Thiền sư Nhất Hạnh:
Về nước sau 40 năm xa cách, tôi rất xúc động khi thấy lại chùa Tổ.
Trong khóa tu cho 900 người xuất gia tổ chức tại chùa Từ Hiếu, được
ngồi thiền và đi thiền hành trên đồi Dương Xuân, tôi có hạnh phúc
rất lớn. Tại Sài Gòn, được ngồi lại trong giảng đường năm xưa với
bốn chúng Phật tử, tôi cũng đã sống những giờ phút rất xúc động.
Cùng đại chúng đi thiền hành bên Hồ Gươm cũng thế. Trong thời gian
vắng mặt tại quê hương, 40 triệu người trẻ đã được sinh ra. Những
sinh hoạt tu học đã được tổ chức phần lớn cho lớp người trẻ đó. Nhìn
họ, tôi có cảm tưởng gặp lại thế hệ phụ huynh của họ, thành ra không
hề có cảm giác xa cách. Dù là đi thiền hành, thiền tọa, pháp thoại,
pháp đàm, tụng giới hay ăn cơm chính niệm, sinh hoạt nào cũng đem
lại nhiều năng lượng hạnh phúc. Sinh hoạt nào cũng giống như một lễ
hội, ăn mừng sự sống, ăn mừng sự đoàn tụ. Điều mầu nhiệm nhất là
thấy được mức độ nghi ngờ, hiểu lầm, sợ hãi mỗi ngày mỗi thấp xuống,
và tình huynh đệ mỗi ngày mỗi lớn rộng thêm ra. Tuy còn có những hạn
chế, e ngại, nhưng vẫn có được rất nhiều cảm thông. Nếu chúng ta có
niềm tin nơi pháp môn thực tập và vào tình huynh đệ thì những tiêu
cực ấy thế nào cũng được vượt thắng trong tương lai: đó là một cảm
tưởng rất rõ rệt. Các thầy ở Thừa Thiên Huế có cơ hội trở về tụng
giới với nhau sau 12 năm tách biệt, đó là một thắng lợi của tình
huynh đệ mà không phải của bất cứ cá nhân nào. Tôi nghĩ đây là phước
đức của chư Tổ để lại. Tôi có cái phước là chưa bao giờ cảm thấy xa
cách tuổi trẻ, về nước cảm giác ấy vẫn còn nguyên vẹn. Tôi nghĩ,
được tuổi trẻ tin cậy đó là một hạnh phúc rất lớn.
Phóng viên:
Thưa Thiền sư, sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, đang trên hành trình “đi ra biển lớn”, theo quan
điểm của Thiền sư, Phật giáo Việt Nam cần có những động thái nào cho
sự hội nhập ấy cùng với nhịp sống của dân tộc, xã hội?
Thiền sư Nhất Hạnh:
Đất nước đang đi vào giai đoạn phát triển công nghiệp, toàn cầu hóa;
thiếu đi một nếp sống tâm linh, chúng ta sẽ bị kéo theo đà phát
triển ấy và không có khả năng ngăn chặn được những tệ nạn xã hội
luôn luôn phát triển và lớn mạnh trong đà phát triển ấy. Vì vậy,
giới xuất gia cũng như người tại gia cần tự đào luyện cho mình khả
năng tu tập vững mạnh, thiết thực, có khả năng đối phó với những hối
hả, bức xúc, bận rộn dồn dập đua tranh đang mỗi ngày mỗi lớn và mở
ra cho quốc dân thấy một con đường tâm linh, một nếp sống trong đó
con người có thì giờ để chăm sóc, bảo hộ và thương yêu người khác.
Làm sao cho các giới thương gia, chính trị gia, nhà giáo, nhà văn,
nhà nghệ sĩ, người công nhân, người nông dân, người y sĩ, người sinh
viên, v.v... đều có được một chiều hướng tâm linh trong đời sống
hàng ngày để họ không tự đánh mất mình trong sự bận rộn mà trái lại
có thể sống và làm việc một cách thành thơi và hạnh phúc? Đó là sứ
mạng của đạo Bụt trong thời đại toàn cầu hóa. Chúng ta đến với nhau
trong các khóa tu và các sinh hoạt khác là để học hỏi và chứng
nghiệm được nhu yếu và khả năng ấy nơi chính mỗi chúng ta.Ý niệm
chung của nhiều người là tiền bạc và chức vị đem lại uy quyền: đó là
hạnh phúc. Trong
tuệ giác Phật giáo, thứ uy quyền ấy đưa lại thèm muốn, ganh tị,
chống đối và tranh chấp. Thứ uy quyền mà đạo Phật cho là căn bản của
hạnh phúc là uy quyền tâm linh: đó gọi là Đức. Có ba thứ Đức: đoạn
đức, trí đức và ân đức. Đoạn đức là khả năng cắt đứt mọi thèm khát,
hận thù và si mê; Trí đức là khả năng giúp giải quyết những khủng
hoảng tâm linh và hoàn cảnh bằng trí tuệ, và Ân đức là khả năng tha
thứ, thương yêu và đùm bọc. Có ba thứ đức ấy thì chính mình có hạnh
phúc và mình có thể tạo hạnh phúc được cho rất nhiều người. Ba đức
ấy chính là cái mà con người và xã hội ta cần có, nếu chế tác được
bằng sự tu tập thì ta mới có khả năng bảo vệ ta và xã hội ta không
để đất nước trở thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội do đà phát
triển, kinh tế, xã hội tiêu thụ và toàn cầu hóa gây ra.
Phóng viên:
Mặc dù đã bước qua độ tuổi 80, lại phải hành đạo tại nhiều quốc gia
trên thế giới, thế nhưng trông Thiền sư vẫn luôn... “thường tại”.
Thưa, yếu tố nào đã giúp cho Thiền sư luôn có được sắc diện và sức
khỏe như thế?
Thiền sư Nhất Hạnh:
Hồi còn là một ông thầy tu trẻ, mộng ước của tôi là dựng lên được
một chúng xuất gia “dễ thương” sống với nhau như một gia đình trong
tình huynh đệ. Trong những năm 1954 -1960 tại Ấn Quang, tôi đã cố
gắng thực hiện điều này và đã thành công với một mức độ nào đó. Tại
Làng Mai, giấc mộng kia đã trở thành sự thật. Chúng xuất gia tại
Làng Mai tuy gồm cả gần 30 quốc tịch, văn hóa khác nhau, nhưng là
một chúng có hạnh phúc, điều này nuôi dưỡng tôi rất nhiều. Sức khỏe
tôi nhờ đó mà được thăng tiến và bảo hộ. Tại Làng Mai, chúng tôi tổ
chức các khóa tu và đi giảng dạy cũng nhiều, nhưng nhờ pháp môn
“hiện pháp lạc trú” vừa làm vừa thư thả (như chơi), nên ai cũng
không bỏ quên hơi thở và bước chân chánh niệm. Điều đó giúp cho
chúng tôi không tự đánh mất mình trong công việc, và đây cũng là một
yếu tố giúp cho sức khỏe. Với lại cách tôi làm việc là giao hết cho
chư Tổ lo, mình chỉ làm công cụ của chư Tổ, mình không nghĩ rằng
mình có tài năng gì cả, tất cả đều do chư Tổ sắp đặt, cho nên mình
khỏe ru. Tại Làng Mai cũng như Lộc Uyển hay Rừng Phong, không có
chùa to Phật lớn, nhưng có đủ tình huynh đệ, tại vì mình có thì giờ
xây dựng chúng xuất gia chứ không phải suốt ngày lo cho chúng tại
gia. Mỗi ngày được ngồi thiền, đi thiền hành, tập khí công và chấp
tác với chúng xuất gia, mỗi ngày được trao truyền cho chúng những
hạnh phúc của thực tập mình, thấy chúng lớn lên, tiếp nối được sự
nghiệp của chư Tổ, điều này rất có khả năng nuôi dưỡng và bảo vệ sức
khỏe của mình cũng như của chúng.
Phóng viên:
Nhân chuyến về Việt Nam lần thứ hai và dịp xuân mới Đinh Hợi, Thiền
sư có gửi gắm gì đến Tăng Ni, Phật tử cũng như đối với người dân
Việt Nam nói chung?
Thiền sư Nhất Hạnh:
Đạo Phật Việt Nam là một di sản quý báu của đất nước Việt Nam. Nếu
ta hiện đại hóa được đạo Phật Việt Nam, không những chúng ta có thể
phụng sự cho dân tộc và đất nước mà còn phụng sự được cho thế giới.
Ta hiện có đủ điều kiện để làm việc ấy; và đó là công trình tu tập
của chúng ta trong những thập niên tới. Kỹ thuật, công nghệ và kinh
tế đang đi tới bằng những đôi hài bảy dặm. Đạo Bụt không làm mới lại
thì không thể nào theo nổi, và không làm thỏa mãn được những nhu yếu
tinh thần cho thời đại mới. Trong chuyến về này, tôi mong sẽ có dịp
đàm đạo với chư vị đạo bạn trong hai giới xuất gia và tại gia về
viễn tượng này. Cúng ta có rất nhiều cơ hội để thành công.
Phóng viên: Xin chân thành cảm ơn Thiền sư và
kính chúc đạo tràng Mai Thôn gặp nhiều thắng duyên trong chuyến
hoằng hóa tại quê nhà.