28/2
Thứ Tư (12/1 âl) đến
4/3 (16/1 âl)
Khóa
tu Cư Sĩ tại Tu Viện Bát Nhã
Chiều
ngày thứ Tư 28-2-2007 đến ngày Chủ nhật 4-3-2007
Đường về Bát Nhã
2 giờ sáng ngày 12 âm lịch, tháng giêng, năm con Heo, vào ngày
28/02/07, đoàn người tham dự khóa tu tại Bát Nhã, Bảo Lộc cho cư sĩ,
đã trú qua đêm tại chùa Pháp Vân. Đồng loạt thức dậy, chuẩn bị cho
chuyến hành trình Tâm Linh.
Tuy chùa
nằm trong thành phố, nhung về đêm thật yên tĩnh; trên sân thượng,
gió lộng bốn bề. Một vài người không ngũ, suốt đêm rù rì tâm sự. Hơn
3 giờ sáng, tất cả lũ lượt kéo nhau xuống lầu, tràn ra cổng, tìm xe
theo phiếu chỉ dẫn. Chiếc xe thứ 12, mãi đến 6g mới lăn bánh, vì
phải chờ đón một số khách đến trể, nguyên nhân, lúc đầu hàng trăm
người đăng ký tại Bát Nhã, đi tự túc, Ban tổ chức xét thấy bất tiện,
vì từ Bảo Lộc vào chùa không có xe lớn, nếu xe ôm thì không đủ cho
hàng trăm lượt người, như thế sẽ không kịp thời khoá, vì thế tổ chức
khởi hành tập thể tại Pháp Vân, lăn bánh lúc 4g sáng thay vì 6g như
đã định, để khỏi kẹt xe trong thành phố, một số người không nhận
được tin, một số đăng ký tên mình, lại để người nhà đi, hoặc bạn bè
mang tên khác, vì thế BTC khó kiểm soát, có ngưới đến trể, phải dồn
người xe sau lên cho đủ chuyến để chạy, cứ thế, những trục trặc
ngoài dự tính đã làm trở ngại hết mấy giờ, nhưng ai cũng hoan hỷ. Ra
đến nghĩa trang liệt sĩ, khỏi Suối Tiên, đậu thêm một giờ nữa, khách
đi trể phải thuê Taxi đuổi theo. Có lẽ, lần đầu tiên tổ chức đưa đón
số lượng 600 người tại TP như thế, nên thiếu kinh nghiệm. Mọi người
thầm nghĩ – liệu Bát Nhã tiếp đón trên 5000 người có được chu tất
chăng!
Về đến
Blao, đúng 12g cùng ngày, theo sự chỉ dẫn của các anh chị Tiếp Hiện,
xe số 1 đến số 6, dùng cơm tại Bát Nhã, xe số 7 đến 12 ăn trưa tại
chùa Phước Huệ; một ngôi chùa vào năm 1969, tôi từng dạy học tại
tỉnh hội, TT Huệ Giải là Chánh Đại Diện GH lúc bấy giờ, gần 40 năm
xa cách, nay trở lại, chùa xây dựng quy mô hơn, nhưng có vẻ hiu
quạnh quá. Tháp của thầy Huệ Giải như một chứng tích vô thường, nằm
trước sân; phía sau hậu liêu, thấp thoáng vài vị tăng xa lạ. Sát
vách rào chùa, ngôi nhà thờ cũng vươn mình đội cây Thập ác cao hơn
nóc chùa một tí. Trên con đường vào thị xã Bảo Lộc, qua Đại Lão,
thỉnh thoảng vài ngọn đồi mọc lên thập tự giá hoặc tượng Thánh như
xác định lãnh thổ mà trước 1975 chưa có mặt. PG hay các tôn giáo
khác chưa có dấu hiệu phát triển nơi đây. Sinh hoạt thành phố Blao
vẫn trầm lặng như thuở nào, tuy dân cư có nới rộng quanh vòng đai ở
Damb’ri, Damb’ rong…
Vào đến
Bát Nhã hơn một giờ trưa, không gian thoáng đảng, đồi thông thoai
thoải nối dài diện tích chùa mà 30 mẫu như chưa đủ chứa số người
tham dự. Không khí dể chịụ. Từng gốc thông, đều có bóng người, vì
trong chánh điện, trong thiền đường, vỉa hè nhà Tăng đều không đủ
cho người cư trú. Từ các tỉnh phía Bắc đến các vùng miền Tây, miền
Đông Nam bộ đều có người đáp xe đến tham dự khóa tu.
Năm 2005,
khi sư ông về thăm quê lần đầu, nơi đây vẫn còn hoang sơ, cơ sở vật
chất chưa có gì để nói, nhưng khi Thiền sư Nhất Hạnh chấp nhận sự
phát tâm hiến cúng của TT Đức Nghi, tọa chủ nơi đây; cơ sở bắt đầu
phát triển, xây dựng đồ sộ, đủ chổ cho sư ông và đoàn Tăng Thân về
lưu trú.
Khóa tu
cho cư sĩ, lần đầu tổ chức tại đây, phòng ốc chưa xây kịp, không thể
đáp ứng nơi ăn chốn ở cho gần 6 ngàn người trong nước lẫn ngoài nước
về tham dự. Ngôi Thiền đường còn thơm nước sơn, nền gạch men chưa
đậm vết chân người, được xây vội vả về đêm cho kịp khóa tu, nhưng
địa phương cũng đã giúp đỡ công trình sớm hoàn tất trước thời hạn
giấy phép được cấp.
Những ông
bà cụ các tỉnh quê, nhất là phía Bắc và miền Trung, có vẻ thích thú
mãn nguyện trước không khí trang nghiêm của Thiền môn mà những chùa
địa phương không có được;
Những
Phật tử nước ngoài tỏ ra thuần thành, thú vị khi gác bỏ mọi chuyện
hơn thua tất bật trong xã hội công nghiệp, về hòa nhập sinh hoạt tập
thể có nề nếp, có ý thức, mà pháp tu giúp cho họ cảm nhận được an
lạc hiện tiền.
Các sinh
viên, giới trí thức như tìm được lối ra mà kiến thức học đường, kinh
nghiệm công sở là vòng lẩn quẩn bế tắt, lạt lẽo, vô vị của đời
thường.
Một số
phóng viên, ký giả đã bám được của lạ để truyền tải thông tin, báo
hiệu một hiện tượng thông thoáng trong sự cởi mở về tự do hành đạo
mà xã hội đang tiến bộ.
Nhiều
người gia cảnh eo hẹp, làm ngày nào, ăn ngày đó, thế mà tự động
ngưng việc, bỏ nhà, hối hả tham gia khoá tu. Có cả công nhân viên
chức xin nghĩ phép, tham dư.
Bát Nhã
như tiếng gọi Tâm Linh mà những tâm hồn tin Phật, ham tu, đều được
thỏa mãn niềm tin. Những người đi xe con lên tận sân chùa, bỏ xe vào
một góc, hòa nhập vào dòng người xa lạ, nhập chung một đại gia đình,
họ quên bẳn những tiện nghi đời thường, kẻ hầu người hạ nơi chốn
giàu sang, ở đây, họ ăn chay, nằm đất, lây lất vỉa hè, không mùng
mền chiếu gối, chịu cái lạnh vùng cao nguyên về đêm, gió núi từng
cơn lùa qua da thịt hàng ngàn người vui vẻ mỉm cười trong giấc ngủ
với chiếc áo lam mỏng manh.
Tiếng
kẻng báo cơm, đoàn người lũ lượt bốn hướng, chẩm rải bước đi trong
chánh niệm, tiến về các dãy bàn bày sẳn thức ăn tự chọn, đặt dưới
bóng mát hàng thông, sắp hàng đến lấy thức ăn, tìm đến các gốc cây,
ăn trong chánh niệm.
Các cư sĩ
nước ngoài, gồm nhiều quốc tịch, có vị là bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư,
thương gia, chuyên gia, cũng mặc áo dài lam, từ tốn bước đi, tay cầm
bát cơm, hòa lẫn mọi người, ngồi rải rác dưới bóng cây, nhập cùng
mây ngàn tận hưởng thiền thực. Trông họ sinh hoạt thuần thục hơn
những người bản xứ tham dự khoá tu lần đầu. Họ đã theo sư ông và
tăng đoàn tu tại làng Mai và du hóa khắp nơi, nhiều năm.
Các sư
mắt xanh mũi lỏ cũng đẩy xe cơm phục vụ đại chúng, có người ngẩm
nghĩ cười thầm: Đời sống vật chất đầy đủ của Tây Phương không muốn,
lại muốn đầu trần chân đất, ăn chay đạm bạc, tiền không giữ, tư
trang không có, theo Thiền sư VN, về VN, chấp lao phục dịch cho
người VN tu tập trên mãnh đất VN xa lạ..
Ngày thứ
2 của khóa tu, dòng người các nơi tiếp tục đổ về mà không cần đăng
ký, vì Ban tổ chức khóa sổ khi số lượng đã lên trên 2 ngàn người, vì
ngại rằng không chu cấp đầy đủ cho người tham dự, nhưng mọi người
vẫn tiếp tục tự nguyện đến với đạo tràng Bát Nhã. Nhà bếp được báo
khẩu phần đã lên đến 6 ngàn.
Từ 2g
sáng, quý thầy, quý cô và một số Phật tử đã lo nấu điểm tâm cho khóa
sinh. Nhà bếp do chúng thường trú Bát Nhã phục vụ. Ngoài tiếng động
cơ xe tải lương thực, và tiếng gió núi đại ngàn. Không còn nghe
tiếng động nào khác của 6 ngàn người hiện diện. Từ nhà bếp đến khóa
sinh làm việc trong im lặng, cần thiết để trao đổi, chỉ nói thật nhỏ
vừa đủ nghe. Người đang chấp lao phục dịch hay đang đi, khi nghe
tiếng chuông, tất cả ngưng lại, theo dỏi hơi thở, nhiếp tâm vào
thân, đó là pháp thực tập để an tâm giúp người tại gia hạn chế nhiều
chi phối. Có người bảo: Pháp tu của Thiền sư Nhất Hạnh là ngoại đạo,
không có trong Nykaya, không nói đến Nhân Quả, đến Bát Chánh Đạo…Nếu
không Nhân Quả thì tu làm gì, một pháp hành đem lại an lạc và nhiếp
tâm thì cần gì phải nói đến Bát chánh Đạo hay dùng từ Nhân quả. Một
minh sư không chỉ truyền đạt nguyên xi lời Phật dạy mà còn biết chế
tác một pháp hành trên căn bản giáo lý, thích ứng với trình độ, căn
cơ của thời, xứ mà giáo hoá, vì mỗi pháp thích ứng cho một thời đại
tuy giáo lý thì vĩnh hằng.
Sau buổi
điểm tâm, làng Mai hướng dẫn khoá sinh nghi cách sinh hoạt khóa tu,
chia từng nhóm gọi là gia đình, có tu sĩ làng Mai hướng dẫn, đi
Thiền hành và xướng tụng Bồ Tát Quán Thế Âm, cách buông thư, theo
dỏi hơi thở…
Ai có về
Bát Nhã mới thầy công đức to lớn của TT Đức Nghi, người khai sáng
ngôi Già Lam nầy; Khi Bát Nhã còn là ngôi thảo am, ngài dấn thân vào
cùng đồng bào sắc tộc, độ cho hơn chục em xuất gia tu học, mở trên
26 cơ sở giữ trẻ, lớp học dạy miễn phí cho đồng bào nghèo và con em
sắc tộc.tại các buôn làng, thầy trả lương cho giáo viên và người làm
công tác từ thiện, sau nầy làng Mai cũng bổ cử các sư cô về hổ trợ
trong việc dạy dổ. Thầy là gương sáng trong công tác từ thiện của
Bảo Lộc, được địa phương tán thán ghi nhận.
Khi Bát
Nhã biến thành trung tâm tu học theo pháp môn của Thiền sư Nhất
Hạnh, Bát Nhã đã thâu nhận trên 300 tăng ni thường trú, Thiện nam
tín nữ khắp nơi thường lai vãng tham bái; có tận mắt chứng kiến
những công trình xây dựng, tuy không bề thế, nhưng không ít khó khăn
từ buổi đầu, và còn vô số việc trước mắt đáp ứng mọi nhu cầu tương
lai cho một làng tu, song song với công việc từ thiện cho quần
chúng, mới thấy được tâm chất của một bậc luôn hy sinh vì lợi ích
cho mọi người. Vừa đôn đốc công việc tại nội viện, vừa có mặt thuờng
xuyên trong các buôn sóc, vừa chăm bón nội lực tự thân, phải nói
rằng, hiện nay, tìm được vị chân tu như thế quả rất hiếm.
Bát Nhã
đang vào mùa tu cho Phật tử tại gia, chư tăng làng Mai hướng dẫn cư
sĩ sinh hoạt thường nhật trong chánh niệm, chuyển hoá không nhỏ cho
những nội kết tự thân, mắc mứu với quan hệ xã hội cũng như gia đình,
giúp vô số người tham gia khóa tu, có một lối thoát nhẹ nhàng trong
cuộc sống, mà không phải chối bỏ, trốn chạy cuộc đời, và có một
hướng đi ý nghĩa của đời người, trở thành người tốt cho gia đình,
người gương mẫu cho xã hội, người hữu ích cho đất nước và một người
có đạo đức đúng nghĩa không cần danh xưng tôn giáo.
Bát Nhã thật sự đã có chổ đứng trong cộng đồng dân tộc chỉ một thời
gian chưa tới 2 năm. Về đến Bát Nhã, người ta vững tin rằng- không
chỉ năm hay sáu ngàn người mà hơn thế nữa, vẫn có thể chu tất trong
tương lai, khi mà cơ sở vật chất được tiếp tục xây dựng, không phải
ăn bờ ngủ bụi mà còn được tắm mình, đượm nhuần trong pháp hành an
lạc hiện tại trong từng bước đi, vật chất và tâm linh sẽ di vào biển
Trí Tuệ Bát Nhã. Sau khóa tu 5 ngày cho cư sĩ, là lể Hoa Hồng báo ân
cha mẹ, Khất Thực Cổ Phật và khoá tu dành riêng cho tu sĩ đã được
trên hai ngàn vị đăng ký.
Khí hậu,
cảnh quan và tình người hoà cùng Bát Nhã xuân Đinh Hợi 2007 đi vào
tâm khảm khoá sinh một cách ấn tượng, thật tuyệt vời.
MINH MẪN
1/03/2007