Thiền sư Nhất Hạnh,
làn gió tươi mát của niềm vui và tình yêu…
Tôi
bước vào Thiền qua cánh cửa thơ tình. Thật là một mối duyên kỳ ngộ.
Thời đi học mười tám hai mươi yêu đương mơ mộng, tình cờ đọc được
những bài thơ của thiền sư Huyền Quang và rất thích, đặc biệt là bài
Tức sự ngày xuân
[1]
nói đến một người con gái ngồi thêu
bên cửa trong một ngày xuân có oanh hót và hoa tươi thắm. Trong các
bản dịch thời ấy tôi thích nhất những bản dịch thật là tài hoa của
Nguyễn Lang và không hề biết rằng ông là một nhà sư. Sau này tôi mới
biết Nguyễn Lang cũng chính là Thiền sư Nhất Hạnh. Đó là những bài
như: Cúc hoa 4, Cúc Hoa 5
[2]
... Từ thơ của thiền sư Huyền
Quang, bước sang thơ của vua Trần Nhân Tông, rồi thơ của Mãn Giác
thiền sư với 2 câu bất hủ: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua
sân trước một cành mai”… Một người trẻ tuổi chẳng biết gì về Thiền,
nghe người khác bảo những câu thơ đó đầy chất thiền vị thì chỉ biết
thế thôi. Thời ấy tôi chỉ thấy những câu thơ đó tràn đầy tình yêu
đối với thiên nhiên và con người. Rất hợp với tâm trạng của một
người đang yêu.
Triết học với khía cạnh là cách nhìn và lối hành xử trong đời sống
thì chủ nghĩa Marx-Lenin được dạy ở trường không đủ làm tôi thỏa mãn
[3]
và tôi đi tìm hiểu đằng sau những vần thơ kia: Thiền là gì?
Tìm đọc những sách về Thiền học tại Việt Nam thì thật là bối rối. Có
những cuốn ngôn ngữ cổ lỗ khó hiểu, còn lời bình thi kệ thì lẩm cẩm
và cả những cuốn mang tính thần bí có phép thần thông nữa. Nếu may
mắn bạn đọc được sách của phái Tào Động (Soto) thì còn hiền hòa. Bạn
mà gặp phải sách viết về phái Lâm Tế (Rinzai) với những chuyện thiền
sinh bị ăn gậy, ăn đạp và thiền sư giết mèo nhanh như chớp thì thật
đúng là rối trí. Nếu Thiền mà chỉ như Lâm Tế thôi thì tôi xin kính
nhi viễn chi, ở xa xa mà nhìn thôi. Những công án thường dẫn tâm trí
bạn vào các mê lộ của hoang mang, bí hiểm… Nếu không có người hướng
dẫn và chỉ mới chập chững những bước đầu tiên mà bạn vẫn quyết tâm
theo đuổi một công án đến cùng, rất có thể một ngày kia cô bạn gái
xinh xắn của bạn sẽ nhẹ nhàng dẫn bạn đến gặp một bác sĩ thần kinh…
Người phương Tây viết sách và được dịch ở Việt Nam hồi ấy thì dùng
ngôn ngữ hiện đại nhưng mang phong cách của nhà khoa học. Đọc rất
chán, như đọc sách giáo khoa ở trường. Giống như khi bạn đọc một tác
phẩm của Trịnh Xuân Thuận, quyển Giai điệu bí ẩn chẳng hạn,
và đọc một cuốn sách giáo khoa về vật lý thiên văn vậy. Một bên đầy
chất thơ, rất nhiều cảm hứng và đầy cá tính, còn một bên thì khô
khan…
Trong khi đó với ấn tượng ban đầu của tôi, Thiền phải là một cái gì
đấy phóng khoáng, tự do, tươi tắn và đầy hứng thú vì tôi vốn làm
quen với Thiền thoạt tiên qua thơ của thiền sư Huyền Quang và những
giai thoại chẳng hạn như: Một thiền sư nọ nhìn hoa đào nở chợt bừng
ngộ… Một thiền sư khác thấy người ta thắp nhang khấn vái một tượng
Phật bằng gỗ, ông liền đem tượng Phật chẻ nhỏ ra để xem rằng Phật ở
đâu? Rồi chuyện: Hai nhà sư đi ngang vũng nước sâu, một trong hai
người bế một cô gái trẻ đẹp qua vũng nước để giúp cho cô không bị
vấy bẩn. Họ đi tiếp và một lúc lâu sau, một người bảo: giới luật của
chúng ta là không được tiếp xúc với phụ nữ, sao anh lại bế cô gái
qua đường? Nhà sư kia trả lời: Tôi đã bỏ cô gái lại ở bên đường rồi,
anh vẫn còn mang cô ấy theo bên mình sao? (Quả là chấn động đối với
một người trẻ tuổi, vốn chỉ hiểu về Phật giáo chút ít qua phong tục
dân gian thờ cúng và hình ảnh các nhà sư ăn chay giữ giới.)
Như vậy những quyển sách kể trên đã không gây đủ cảm hứng cho tôi và
tôi tự nhủ lòng: Thôi nhé. Chào mi, Thiền ơi…
Cho đến một ngày kia tôi được đọc sách
[4]
của ông. Quả là một niềm vui thú khi đọc và thực hành Thiền theo
cách mà ông hướng dẫn. Những tình cảm thuở ban đầu của tôi đối với
Thiền được khôi phục.
Những bài học vỡ lòng của ông đầy chất thơ và niềm vui. “Thở vào tâm
tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, an trú trong hiện tại, giây phút
đẹp tuyệt vời”. Rồi: Thở vào bạn thấy bạn là bông hoa, thở ra bạn
cảm thấy tươi mát. Bạn thấy mình là trái núi, vững vàng. Thấy mình
là mặt nước tĩnh, phản chiếu mây trời. Thấy mình là không gian mênh
mông, tự do thênh thang…
Còn những thi kệ là các bài thơ ngắn để thực tập chánh niệm
(nhận biết hiện tại 1 cách tươi mới, sâu sắc) và những lối hành
thiền trong sinh hoạt hàng ngày nữa. Bạn đã bao giờ nghe nói đến
Thiền rửa bát, Thiền đánh răng, Thiền ăn quít, Thiền ôm, Thiền điện
thoại, Thiền máy vi tính chưa? Bạn có thể sáng tác những thi kệ
và tạo ra những hoàn cảnh Thiền mới cho riêng mình. Nếu như bạn đang
sống ở Sài Gòn như tôi bạn có thể sẽ tạo ra Thiền kẹt xe, Thiền
ngập nước, Thiền cúp nước, Thiền đào đường, Thiền cúp điện… Còn
nếu bạn đang ở trên Đà Lạt, bạn sẽ nghĩ ra Thiền ngắm hoa, Thiền
ngắm núi, Thiền ngắm thác, Thiền ngắm mây, Thiền ngắm má hồng người
yêu… chăng? Quả là vui thú. Cuộc đời quả là một ngày hội, phải
không?
Thiền học Việt Nam trước ông là một cây cổ thụ đã khô và cằn cỗi sau
bao nhiêu năm không chịu chuyển mình theo thời đại. Ông đến, đập bỏ
những khúc cây khô gãy, tưới những dòng nước tươi mát và chăm bón
cho nó đâm chồi nảy lộc.
Nếu Thiền là một em bé thì em bé ấy do đi đường xa đã nhuốm đầy bụi
bặm của Mật và Tịnh Độ tông. Ông đã mang em đi tắm mát ở suối nguồn
Nguyên Thủy, khiến em trở nên tươi tắn tinh khôi và trông rất dễ
thương.
Ông đã hiện đại hóa Thiền tông theo cách như thế. Sách Thiền của ông
với ngôn ngữ giản dị, hiện đại và đầy chất thơ rất dễ đi vào lòng
công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Ông còn tổ chức những khóa thực
hành Thiền tại Làng Mai, một nơi thơ mộng giữa lòng nước Pháp. Ở đấy
bạn sẽ được hành Thiền giữa thiên nhiên, cỏ cây hoa lá xanh tươi, hồ
suối và có cả Hội Thủy Tiên vào cuối tháng ba, Hội Hoa Mai vào giữa
tháng tư nữa (xem trên
www.langmai.org)…
Thật là một mất mát cho giới trẻ Việt Nam khi không được tham dự
những khóa Thiền của ông, trong khi ở nước ngoài hàng triệu thanh
niên phương Tây được học Thiền của ông trong suốt 30 năm qua. Không
biết trong tương lai ông có được phép tổ chức những khóa thiền như
vậy ở Việt Nam không? Nếu có dịp, thay vì làm một thân ngựa chạy
cuồng trong một tua du lịch Châu Âu theo một lịch trình dày đặc để
đến được nhiều thành phố, tôi sẽ đến thăm Làng Mai của ông, xin làm
một thiền sinh tham dự một khóa tu ở đấy.
Nếu Thiền giúp bạn cảm thấy tươi mát, tràn đầy niềm vui và tình yêu
đối với cuộc sống, ai cũng thích đến gần bạn thì tại sao bạn không
thử ngay đi, ngay tại Việt Nam này trong cuộc sống hàng ngày của
bạn?
Tôi chẳng bao giờ khuyên bạn buông bỏ tất cả để vào ở hẳn trong một
Thiền viện hay một cái am nào đó nơi núi rừng yên tĩnh. Chắc ông lại
càng phản đối. Chúng ta vẫn cứ đi học, đi làm kiếm tiền, cứ yêu, cứ
tranh đấu cho một đất nuớc Việt Nam dân chủ đa nguyên pháp trị.
Chẳng có gì là mâu thuẫn cả. Bạn cứ tiếp tục công việc của bạn đi,
và bạn chỉ cần để ra vài giờ trong tuần đọc sách của ông và thực
hành Thiền theo cách thức mà ông hướng dẫn. Sẽ có rất nhiều niềm vui
đang chờ bạn khám phá…
Các bạn trẻ nên hiểu rằng chúng ta thực hành Thiền không phải để cam
chịu số phận, chấp nhận mọi chuyện như nó đang “là” như nhiều người
vẫn nghĩ. Tất cả những cuốn sách nào khuyến khích bạn cam chịu số
phận thì bạn nên đốt nó đi. Chúng ta thực hành Thiền và có thêm sức
mạnh tâm linh để thay đổi số phận, biến đổi đời sống của chính ta và
thế giới xung quanh ta. Niềm vui sống sẽ mỉm cười với những con
người của hành động, chứ không phải những con người yếm thế, cam
chịu.
Ông vốn là một thiền sư nhập thế, một thiền sư của hành động. Từ
thập niên 60 ông đã sang Mỹ và châu Âu vận động hòa bình cho Việt
Nam. Ngay từ thời ấy ông đã cho rằng: kẻ thù của ta không phải là
người mà là cuồng tín ý thức hệ và tham vọng. Mọi người Việt đều là
anh em một nhà. Vì thế chính quyền miền Bắc lẫn miền Nam đều không
ưa ông, không cho ông về nước, buộc ông phải sống lưu vong ở nước
ngoài. (Việc vì sao
ông được về nước đầu năm 2005 khi
chính quyền Việt Nam đang bị thế giới lên án về vi phạm quyền tự do
tôn giáo sau những cuộc đàn áp người Thượng ở Tây Nguyên, người theo
đạo Tin lành Mennonite ở Sài Gòn và các nhà lãnh đạo cao tuổi của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất thì lại là một câu chuyện
khác.) Khi làn sóng thuyền nhân lên cao, chính ông đã tổ chức những
chiếc thuyền cứu trợ thuyền nhân Việt Nam trên vùng biển Đông Nam Á.
Để bảo toàn chế độ độc tài toàn trị của mình, chính quyền Việt Nam
hiện nay vẫn lừa bịp dân chúng rằng: dân chủ phải hy sinh để cho
kinh tế phát triển trước rồi sẽ kéo theo dân chủ phát triển sau.
Điều này đã được các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước khẳng định và nhắc
đi nhắc lại nhiều lần, là chân lý rồi, thế mà ông khi trả lời đài
BBC vào năm 2001 lại bảo rằng đấy chỉ là mộng ước hão huyền. Kinh
tế sẽ không phát triển được nếu không có dân chủ & nhân quyền.
Chừng nào sự sợ hãi còn trấn ngự thì không thể phát triển đất
nước được. Đã vậy ông lại còn thêm:
Nếu quí vị có trí tuệ, có can đảm, hãy mở cửa
ra, để người dân có thêm dân chủ, nhân quyền để phát triển đất nước
theo kịp các nước tiên tiến
[5]
. Một thiền sư mà lại phát biểu y
như một nhà tranh đấu cho dân chủ như vậy, các quí vị cầm quyền làm
sao ưa ông được. Lần này ông về Việt Nam, chắc vô số các vị công an
chìm lẫn nổi phải bận rộn, căng thẳng dán mắt theo từng bước chân
của ông…
Nếu ta nhìn Thiền qua sản phẩm cuối cùng của nó là các bậc giác ngộ
với phong cách ung dung, thư thái, phơi phới yêu đời, ta sẽ thấy
rằng Thiền phải là một tặng phẩm từ trời chung vui sẻ chia cho tất
cả mọi người, kể cả các tôn giáo khác chứ không riêng gì Phật giáo.
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, đạo Cao Đài… và cả những
người không theo một tôn giáo nào nữa đều trải nghiệm nó, nhưng họ
sẽ gọi nó bằng một cái tên khác hoặc đơn giản là chẳng cần phải đặt
cho nó một cái tên nào cả. Đó là lý do tại sao các sơ, các linh mục,
mục sư nhà thờ ở phương Tây và cả những những người vô thần cũng
thích thú đọc sách của ông.
Đọc sách của ông, cảm nhận được thông điệp ông muốn gửi đến chúng
ta, tôi cảm thấy thật thú vị khi nó rất giống với ý tưởng trong
Upanishad mà Tagore hay nhắc đến: Con người sinh ra từ niềm vui và
tình yêu, vì niềm vui và tình yêu mà tồn tại, hướng đến niềm vui và
tình yêu đi tới, và hòa nhập vào trong niềm vui và tình yêu. (Ý
tưởng này đã chi phối toàn bộ triết lý và tác phẩm của Tagore.)
Xem hành trạng của các thiền sư cổ kim tôi vẫn nghĩ: các thiền sư là
những nhà nghệ sĩ của đời sống. Với họ, cuộc đời là một ngày hội và
họ biết hồn nhiên thưởng thức và tận hưởng nó hơn cái lũ phàm tục
hay lo âu, sầu muộn là chúng ta. Họ rất gần gũi với các thi nhân,
nhạc sĩ, họa sĩ… ở điểm nhìn thấy cái đẹp, cái đáng yêu ở những nơi
mà người khác không nhìn thấy…
Ông cũng vậy, ông tiếp nối truyền thống của những Mãn Giác, Trần
Nhân Tông, Huyền Quang… vốn là những thiền sư-thi nhân. Với họ Thiền
và Tình yêu chỉ là một. Tình yêu thương con người, thiên nhiên và
cuộc sống luôn nồng nàn trong những tâm hồn nhạy cảm, tài hoa của
họ.
Đọc sách của ông chắc có người sẽ bâng khuâng tự hỏi: ông là nghệ sĩ
hay thiền sư? Như một ngày kia khi bạn đang ngắm nhìn một ngọn núi,
một cảm thức dâng lên trong bạn: bạn là núi hay núi là bạn? Rồi bạn
thấy rằng chẳng cần phải trả lời cũng như chẳng cần phải quan tâm
đến câu hỏi nữa. Một xúc cảm huyền diệu chợt xâm chiếm bạn. Một nụ
cười chợt nở trên môi…
Lúc ấy bạn đã ngộ chăng?
13.01.2005
Hà Thư Sinh,
Cảm xúc khi nghe tin Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam…
© 2005 talawas