TRANG NHÀ LÀNG MAI

CẬP NHẬT TRUYỀN THÔNG
CHUYẾN HÀNH HÓA CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ TĂNG THÂN ĐẠO
TRÀNG MAI THÔN TẠI VIỆT NAM - HONG KONG & THÁI LAN
TỪ 20 THÁNG 2
ĐẾN 1 THÁNG 6 NĂM 2007
TIME
MAGAZINE NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH |
...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình
trong những năm tháng chiến tranh. Ở
lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành
động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nGHiệm bản thân của mình, Thầy đã
thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại
chúng hóa - như chủ nGHĩa quốc gia quá khích, chủ nGHĩa phát xít,
chủ nGHĩa cộng sản và chủ nGHĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao
nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn
năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong
quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.
(...) Tuy là
lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện,
thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài
được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu
cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong
một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm
lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi
ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận
dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã
viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ
rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết
của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính
sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là
con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là
độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong
trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư
King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nGHĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi
về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết
nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết
Phật giáo. Những giáo nGHĩa Phật dạy phải được nhận thức như những
pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà
không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.
Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang
lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến
tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành
một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nGHĩ
tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư
Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|
|
3. HÀ
NỘI - NINH BÌNH - VĨNH PHÚC |
30/4 Thứ Hai (14/3 âl)
Ninh Bình
Thăm viếng Nhà thờ Đá, Cố Đô Hoa Lư, khu
Trung Tâm Tâm Linh Bái Đính.
Đừng bỏ gốc rễ,
đừng bắt người khác phải bỏ gốc rễ
Bị chú:
Các bạn trẻ đang đau khổ vì tình
yêu dị giáo, các bậc cha mẹ đang có khó khăn khi con khi đang yêu một
người khác đạo, xin hãy đọc bài này.
Sáng ngày 30/04/2007 lúc 9 giờ, thiền sư Nhất Hạnh cùng phái đoàn tăng
thân quốc tế Làng Mai đã đến viếng thăm nhà thờ Phát Diệm. Thiền sư và
tăng thân đã được các linh mục, các nữ tu và các giáo dân tiếp đón rất
trọng thể. Trong số các linh mục có mặt, có linh mục Phạm Ngọc Khuê,
đại diện cho tòa giám mục Phát Diệm. Các nữ tu đã hát những bài hát chào
mừng chúc tụng và một ban hợp ca gồm có khoảng 30 thanh niên và thiếu nữ
cũng đã hiến tặng nhiều bài thánh ca rất linh động. Trong lời chào mừng
linh mục Phạm Ngọc Khuê đã nói rằng đây là một cuộc viếng thăm lịch sử
của một phái đoàn Phật giáo quốc tế như thế tại nhà thờ Phát Diệm và
thỉnh mời thiền sư Nhất Hạnh phát biểu đôi lời về vấn đề giao lưu giữa
Phật giáo và Cơ Đốc giáo. Đây là những phát biểu của thiền sư Nhất Hạnh
và đáp từ của Linh Mục Phạm Ngọc Khuê.
Sư ông Làng Mai :
Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một
thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục
sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải
chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập
chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự
nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và
những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh
Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư. Ngày xưa
tôi đã hứa với một số các bạn trẻ là sẽ trình bày Phúc Âm qua cái nhìn
của thiền quán và may mắn là tôi đã làm được việc đó.
Trong thời gian 40 năm ở nước ngoài chúng tôi đã từng ngồi thiền với các
vị linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã cùng hoạt động cho hòa bình,
và trong khi hoạt động cho hòa bình chúng tôi có cơ hội chia sẻ với nhau
những tuệ giác của chúng tôi về truyền thống mình. Trong quá trình giao
lưu, tôi có viết được những tác phẩm có tính cách đối thoại giữa những
người theo Phật giáo và những người theo Ki Tô giáo. Cuốn sách đầu tiên
mà chúng tôi xuất bản về đề tài này là “Living Buddha, Living Christ”.
Bản Hoa Ngữ mang tên là “Sinh Sinh Ki Tô, Thế Thế Phật” dịch ra tiếng
Việt là: “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, nghĩa là “Bụt Bất Tử, Chúa Bất
Tử.”
Cuốn sách đó là kết quả của một khóa tu mà chúng tôi tổ chức tại Đức,
trong đó có 50% là Phật tử và 50% là tín hữu Ki Tô giáo. Chúng tôi đã
gom lại những bài thuyết giảng và làm thành cuốn sách Living
Buddha, Living Christ. Cuốn sách này đã đi rất xa, đã đi vào các tu
viện kín và chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều thư các Cha và các Xơ
từ các tu viện kín. Cuốn sách đó giúp cho người Phật Tử hiểu thêm đạo Ki
Tô và giúp người Ki Tô hiểu thêm về đạo Phật. Công đức của sách này rất
lớn. Ban đầu người ta đọc chỉ vì tò mò thôi, nhưng nhờ sự tò mò đó mà có
cơ hội hiểu được một nền đạo đức mà lâu nay mình chỉ có một ý niệm mơ
hồ. Sau cuốn Living Buddha, Living Christ thì chúng tôi có cuốn
Going Home, Buddha and Jesus as Brother. (Chúng ta hãy về nhà
đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em). Sách này cũng được đón nhận một
cách rất nồng nhiệt ở trong giới độc giả Tây Phương, Phật Tử cũng như Cơ
Đốc giáo.
Ở Mai Thôn Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm đến ngày giáng sinh, chúng tôi
luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long trọng, tại vì đa số các thiền
sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo. Ngày giáng sinh rất nhiều thiền sinh
Tây phương về Đạo Tràng Mai Thôn như con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào
đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn giảng một bài về Phật và về Chúa. Tôi nhớ
có một linh mục tên là Thomas Kwan người Hồng Kông đã nghe được nghe một
bài như vậy và vị linh mục này thấy rất tiếc, vì hôm đó chỉ có 600 người
được nghe. Linh mục nói: “Tất cả các tín hữu Cơ Đốc giáo trên thế giới
phải được nghe bài này. Để có thể thấy rõ Chúa và con đường của mình
hơn”. Tôi đã sưu tập được 10 bài giảng Giáng Sinh như thế, làm được cuốn
sách thứ hai gọi là Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai
anh em. Rất tiếc là hai cuốn nói trên chưa được dịch ra tiếng Việt
.
Những người đến với chúng tôi trong các khóa tu tại Mỹ Châu và Âu Châu,
đại đa số là những người tín đồ Công giáo, Tin Lành và Do Thái giáo.
Chúng tôi khuyên họ không nên bỏ đạo gốc của mình. Chúng tôi biết do
kinh nghiệm khi một con người mất gốc thì người đó không bao giờ có hạnh
phúc thật sự được. Vì vậy khi họ tới thực tập theo pháp môn của đạo Phật
chúng tôi yêu cầu họ đừng bỏ gốc rễ của họ và khuyên họ sau khi tu tập
thành công rồi, khi đã chuyển hóa được những bức xúc, khó khăn và giận
hờn rồi thì hãy về với truyền thống của mình và hãy giúp truyền thống
mình làm mới lại.
Thanh niên bây giờ thấy được là giáo đường, nhà thờ chưa cung cấp được
những giáo lý và những thực tập có thể đáp ứng được những khổ đau, những
bức xúc của họ. Vì vậy không chỉ đạo Phật phải làm mới mà đạo Ki Tô cũng
phải làm mới thì mới đáp ứng được những nhu yếu của người trẻ hôm nay.
Giới trẻ hôm nay bỏ nhà thờ mà đi rất đông. Điều tôi nói cũng rất trung
thực với giáo lý của Phật tại vì Phật giáo luôn luôn có thái độ rất cởi
mở, phá chấp. Mình không nên bám víu một giáo điều cho đó là chân lý
tuyệt đối và để rồi xem các giáo lý khác là tà đạo. Vì vậy thái độ của
người Phật Tử là giang tay ra ôm lấy tất cả mọi người. Tình yêu trong
đạo Phật là “Từ Bi Hỷ Xả.” Xả có nghĩa là inclusiveness, không loại trừ
bất cứ người nào ra khỏi tình thương của mình, dù người đó không phải là
đồng bào của mình, không phải theo tôn giáo của mình. Tiếng pháp dịch
là équanimité.
Tôi quyết hành động theo tinh thần này tại vì hồi xưa các giáo sĩ tới
Việt Nam truyền đạo đã bắt người Việt mình phải bỏ đi tôn giáo gốc của
mình và điều đó đã gây đau khổ kkhông ít.
Những người có gốc gác Cơ đốc giáo tới tu tập với chúng tôi rất hạnh
phúc vì họ có cảm tưởng là họ được công nhận 100%, họ không cần phải từ
bỏ niềm tin của họ, gốc gác văn hóa của họ. Sau một thời gian thực tập,
họ có thể thấy, khám phá ra được những châu báu trong truyền thống của
họ mà trước đây họ chưa thấy. Nhờ tiếp xúc với đạo Phật mà họ trở về và
khám phá ra những châu báu trong các gia sản tâm linh ở Cơ Đốc giáo và
Do Thái giáo. Điều đó làm chúng tôi rất vui mừng.
Chúng tôi thường hay nói với các bạn Cơ Đốc giáo là cõi Tịnh Độ hay cõi
Niết Bàn có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta có trái tim
tinh khiết, trái tim có năng lượng của niệm, định và tuệ, nếu chúng ta
có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì chúng ta có thể tiếp xúc
được với những mầu nhiệm của thế giới Cực Lạc, của Tịnh Độ có mặt ngay
trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cần phải chết đi mới sinh về
Tịnh Độ, mà có thể đi vào trong Tịnh Độ bằng mỗi bước chân, ngay bây giờ
và ở đây.
Giáo lý ấy được thực tập tại Mai Thôn Đạo Tràng, và chúng tôi cũng đã
chia sẻ cho các bạn Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo. Chúng tôi nói rằng các
bạn không cần phải chết đi mới đi về nước Chúa. Nếu các bạn có tình
thương, có ý thức sáng tỏ, có tâm rộng mở thì mỗi hơi thở và mỗi bước
chân có thể đưa các bạn vào nước Chúa trong giây phút hiện tại. Thiên
Quốc có mặt trong giây phút hiện tại. Trong đạo Phật các vị tổ có nói
rằng Tịnh độ và Phật nằm trong trái tim của mình. Phúc Âm cũng nói như
thế, Thiên Quốc nằm trong trái tim của mình và vì vậy mình đi tìm thiên
quốc hay tịnh độ nơi khác và thời khác thì có thể sai.
Khoa học lượng tử bây giờ bắt đầu dùng danh từ phi cục bộ,
tiếng Anh là “non-local”. Cái thực tại lượng tử là phi cục bộ, chúng ta
không thể nào xác định vị trí của một lượng tử trong thời gian hoặc
không gian. Bản chất của lượng tử là phi cục bộ. Chúng tôi nghĩ rằng
ngôn ngữ ấy chúng ta có thể áp dụng cho Phật độ và cho Thiên Quốc.
Thượng Đế, hay Thiên quốc là những thực tại phi cục bộ, chúng ta không
thể xác định vị trí của nó trong không gian và thời gian, tại vì nó nằm
trong trái tim của mình. Khi trái tim của mình đã sẵn sàng rồi thì là
mình đang ở trong Thiên quốc, đang ở với Thượng Đế, không cần phải trông
chờ điều đó trong tương lai.
Chúng ta tu như thế nào, thực tập như thế nào để Thiên quốc có mặt trong
giây phút hiện tại. Chúng ta tu như thế nào, thực tập thế nào để tịnh độ
có mặt trong giây phút hiện tại. Và hạnh phúc không cần chờ đến tương
lai. Hiện pháp lạc trú là một giáo lý Phật giáo. Nhà văn André Gide có
nói một câu làm tôi rất thích. Ông nói Thượng Đế tức là hạnh phúc ( Dieu
est bonheur ). Và ông nói thêm một câu nữa: “Thượng Đế có mặt cho chúng
ta 24 giờ một ngày ...”. Những câu nói đó rất phù hợp với giáo lý đạo
Phật.
Nếu chúng ta đi sâu vào Phúc Âm, chúng ta cũng thấy chân lý đó, nghĩa là
nếu chúng ta đem tâm trở về với thân mà nhận diện được tất cả những cái
mầu nhiệm đang có mặt trong ta và xung quanh ta thì lúc đó ta đang ở
trong Thiên quốc và ta đang tiếp xúc sâu sắc với Thượng đế. Nếu nhà thờ
và nhà chùa có thể cung cấp được những giáo lý đó và đưa ra những phương
pháp thực tập để con người có thể sống an lạc và hạnh phúc trong giây
phút hiện tại thì người ta sẽ không cần đi tìm hạnh phúc ở sắc dục, tiền
tài và danh vọng. Trong Phúc âm có câu chuyện một bác nông phu khám phá
ra được một kho tàng chôn giấu ở trong một đám ruộng và sau đó đi về và
bán đi những khu ruộng khác để chỉ mua một đám ruộng đó. Khi chúng ta đã
tu và tiếp xúc được với nước Chúa và Chúa rồi thì chúng ta đâu cần những
cái khác nữa, chúng ta đâu cần danh, không cần lợi, không cần sắc dục,
không cần quyền lực, vì chúng ta đã hạnh phúc chán. Vì vậy cái giáo lý
nào và sự thực tập nào giúp cho ta tiếp xúc được với Thiên chúa trong
giây phút hiện tại thì đó là kho tàng châu báu của chúng ta. Hạnh phúc
ấy chúng ta có thể đạt được trong giây phút hiện tại, không cần phải
chết đi mới có. Nói chuyện với các bạn Do Thái giáo và Ki Tô giáo chúng
tôi cũng chia sẻ cách thực tập, mỗi hơi thở mỗi bước chân của mình có
thể đưa mình vào Thiên quốc mà đừng trông chờ Thiên quốc ở tương lai.
Tôi nhớ có một lần thăm viếng Đại Hàn tôi được tham dự vào một buổi giao
lưu giữa người Kitô giáo và người Phật tử: đó là lần đầu tiên mà người
Phật tử và người Cơ Đốc giáo tới với nhau. Tôi có đưa ra vấn đề có những
thanh niên thiếu nữ khác tôn giáo yêu nhau. Bên này bắt bên kia phải bỏ
đạo, phải chọn lựa. Đó là một vấn đề còn tồn tại ở nhiều nước và ngay
trong nước Việt Nam chúng ta. Và biết bao nhiêu cặp thanh niên thiếu nữ
đã đau khổ tại vì thế. Tôi nghĩ rằng một người có thể rất hạnh phúc khi
có hai gốc rễ, một gốc rễ Cơ đốc giáo và một gốc rễ Phật Giáo. Hai cái
đó không nhất thiết phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp hòi cho nên mình
mới thấy hai cái khác nhau chống đối nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy
được hai truyền thống có thể bổ túc cho nhau thì mình sẻ có một thái độ
cởi mở hơn.
Trong số các đệ tử của tôi có rất nhiều các thầy các sư cô có gốc Cơ đốc
giáo và Do Thái Giáo, nhưng họ hạnh phúc vô cùng khi được tu tập và ôm
ấp luôn cả hai truyền thống. Ngay trong phái đoàn của chúng tôi có mặt
hôm nay có một vị đại đức ngày xưa đã từng làm linh mục. Vị linh mục đó
tới với đạo Phật và khám phá ra những phương pháp thực tập rất thiết
thực có thể thực hiện được lý tưởng của Cơ đốc giáo. Chúng ta thấy có
hai gốc rễ đôi khi lại hay hơn có một gốc rễ và vì vậy ngay trong đại
hội đó tôi đã đề nghị khi hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ
đốc giáo, một người thuộc về Phật Giáo thì cả hai gia đình nên cho họ
cưới nhau với điều kiện hai bên công nhận truyền thống của người bên kia
và nếu người con trai là Cơ Đốc Giáo và người con gái là Phật Giáo thì
người con gái phải học thêm Cơ Đốc Giáo và người con trai phải học thêm
Phật Giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi nhà thờ, đến ngày
mồng một và ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa. Và điều đó là điều
chúng tôi đã thực hiện được ở Tây Phương. Tại sao chúng ta phải để cho
các bạn trẻ tiếp tục đau khổ năm này qua năm khác ?. Và đó là tinh thần
cởi mở mà chúng tôi đã thấy được rõ ràng khi đọc kinh Phật và kinh
Thánh.
Hôm nay tôi xin nói ra vài cái thấy của tôi cũng như một món quà hiến
tặng qúy vị có mặt ở đây.
Sư cô Chân Không hỏi:
Như Sư ông đề nghị tức là khi một người Công giáo và một người Phật giáo
thương yêu nhau thì người Phật tử nên học hỏi những gì tinh ba nơi Công
giáo và gia đình phải đi nhà thờ vào những ngày Chủ nhật và đi chùa vào
mồng một và ngày rằm. Con xin hỏi là quý vị linh mục có chấp nhận được
như vậy không? hay là người Phật tử chỉ phải theo đạo của người chồng,
phải làm lễ rửa tội và phải từ bỏ đạo Phật? Con xin hướng câu hỏi này về
cho các vị Tôn đức bên phía Công Giáo.
Cha Phạm Ngọc Khuê trả lời:
Đây là một câu hỏi có thể nói là thật sự rất tế nhị và rất thời sự.
Trước hết tôi xin được nêu lên nguyên tắc về giáo luật và kinh thánh.
Thiên chúa không bao giờ ngăn cản con người tự nguyện nhất là trong việc
hôn nhân gia đình thì không có bao giờ ngăn cản hai người thương yêu
nhau. Giáo hội không bao giờ chặn ngăn hai người nam nữ yêu thương và
tiến tới hôn nhân với nhau, điều đó là chắc chắn thuộc về giáo luật,
không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ, vì đó là tuyệt đối.
Nhưng tại sao lại xảy ra cái vấn đề giữa nam nữ tín đồ các tôn giáo khác
nhau lại có những vấn đề mà người ta chưa đi đến chỗ kết hôn với nhau
thì do đâu? Trong thực hành việc phục phụ hôn phối, đối với anh em
trong Công giáo chúng tôi, đối với danh Chúa, đối với người tín đồ Công
giáo cũng như giáo hội thì chúng tôi không bao giờ đặt vấn đề là phải
trở thành người Công Giáo thì mới có thể cưới (nhau) về phía công giáo
của mình (trở thành vợ chồng). Không bao giờ có vấn đề đó, chúng tôi
luôn luôn tôn trọng tình yêu của họ. Và tôi nói với người nam hoặc người
nữ là tình yêu của các anh chị là tình yêu tuyệt đối và chúng tôi tôn
trọng. Tuy nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức tin
của người tín đồ Ki Tô Giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi
sự tự do của họ.
Cũng như Thầy Thích Nhất Hạnh đã nói là họ phải sống cội rễ của họ họ
mới thấy hạnh phúc. Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn toàn
tự do. Cho nên giáo hội chỉ nói một điều này. Khi tiến tới hôn nhân thì
hai người phải hứa là tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi
người, và không được vi phạm. Vì vậy về phía tín đồ tôn giáo khác phải
cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn trọng niềm tin vì đó là lãnh vực
thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được can thiệp. Tôn trọng niềm
tin của tín đồ thiên chúa giáo, không được ngăn cản. Nếu họ giữ được như
thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành sự trước mặt Chúa và
trước luật pháp.
Luật thì như vậy, nhưng trong thực tế thì không luôn luôn được xảy ra
như vậy. Hoàn cảnh của Việt Nam thì khác nữa, nghĩa là trong hoàn cảnh
rơi rớt của chế độ phong kiến vẫn còn nhiều cho nên quý vị biết rõ là ở
Việt Nam người nam có quyền hơn người phụ nữ. Mặc dù họ hứa như vậy,
nhưng khi về nhà mà hai vợ chồng không có hòa thuận với nhau cơm không
lành, canh không ngọt. Khi họ sống chung với nhau và nếu như có chiến
tranh trong gia đình thì họ đổ lổi trên đầu người tín đồ của mình hoặc
Ki Tô Giáo hoặc người Phật Giáo tôi không nói là về phía này hay phía
kia.
Nếu người chồng có quyền thì sẽ buộc người vợ không theo tín đồ của
mình, theo tôn giáo của mình nữa. Và có thể có khó khăn trong gia đình.
Chính vì vậy Giáo hội đặt ra điều kiện này, nếu một người tín đồ tôn
giáo khác, lấy người Công giáo, rồi sau đó Phật tử, hay là người thờ ông
bà không giữ lời tuyên thệ trung thành thì người tín hữu Công giáo có
thể trình lên thẩm quyền nguồn Thánh có thể tháo cái hôn phối mà người
ta đã cam kết chỉ vì nếu mà đe dọa đến cái niềm tin tự do của mình giáo
hội phải bảo vệ con cái của mình. Quý vị phải hiểu là đây không phải là
bắt buộc phải làm. Các gia đình đó là truyền thống của gia đình, hoàn
cảnh của gia đình muốn con cái của mình giòng sớ, cũng như quý cô, quý
ông bà cũng như quý vị muốn cho gia đình mình cùng một chiều cho dễ để
việc đó cho dễ hơn.
Về phía giáo hội thì không có đứng ngăn cản sự việc hôn nhân của họ. Xin
quý vị hiểu rõ thì về luật giáo thì không ép buộc mà buộc một trong hai
người phải tôn trọng tôn giáo của nhau. Phải dành ưu tiên nhất cho người
bạn đời theo tôn giáo đó để thực hành niềm tin tôn giáo và không có ngăn
cản giữ đức tin riêng của họ.
Một cha hỏi :
Người thương gia trong kinh thánh tìm thấy viên ngọc quý và về bán tất
cả gia tài để mua lấy viên ngọc quý đó, đây là một trang tin mừng rất
hay của kinh thánh Tân ước, vậy xin hỏi giáo sư viên ngọc vùi trong thửa
ruộng này dưới mắt Phật giáo là gì và đối với Công giáo diễn tả điều gì?
Xin giáo sư vui lòng cho biết.
Sư Ông Làng Mai:
Trước hết tôi xin đề nghị thêm cho hai bên giáo hội Công giáo và Phật
giáo phải có những văn bản rõ rệt về vấn đề hôn nhân dị giáo này. Nếu
tôi là pháp chủ Phật giáo Việt Nam thì tôi sẽ cho phép những người con
trai hay con gái Phật giáo lấy những người con trai hay con gái Công
giáo và hai người được học truyền thống của nhau, hai người cùng đi nhà
thờ một lần, hai người cùng đi chùa một lần, hai người cùng được rửa tội
một lần và hai người đều được quy y. Cha Thomas Kwan một linh mục người
Hồng Kông đã quy y ở Làng Mai nói sau khi quy y và thọ năm giới thì cha
hiểu giá trị truyền thống của Cha nhiều hơn. Cha đã đem năm giới đó về
dạy cho giáo dân của cha. Và đã giúp được rất nhiều người và thấy rõ là
hai bên bổ túc cho nhau, không chống đối nhau. Vì vậy khi một cặp thanh
niên khác đạo muốn cưới nhau thì nên nói cho họ biết là cả hai người nên
cùng được rửa tội và cùng được quy y. Hai cái đó không chống đối nhau.
Nếu chúng ta cần 100 năm để các giáo hội đi tới sự thỏa thuận về văn bản
đó thì cũng đáng tại vì các cặp thanh niên nam nữ đã khổ hơn 400 năm nay
rồi, nếu cần 100 năm nữa để tới văn kiện đó cũng đáng để chúng ta chờ
đợi. Nhưng trong cái thời đại toàn cầu hóa này, biết đâu, có thể vài ba
tháng các giáo hội đã có thể ra một văn kiện như thế để làm các thanh
niên bớt khổ.
Cái kho tàng chôn giấu trong đám ruộng đó, tức là Thiên chúa, tức là
Thiên quốc, mà trong Phật giáo gọi là Niết bàn, là Cực lạc, là Phật độ.
Mỗi người có thể gọi cái kho tàng đó bằng một cái tên khác, nhưng mà nó
cùng là một thực tại. Trong đạo Phật có giáo lý về Niết bàn như thực tại
không sinh, không diệt, không tới, không đi, không còn, không mất, đó là
nền tảng của tất cả các hiện tượng của vũ trụ. Nếu không có cái đó thì
tất cả các hiện tượng không có chỗ nào để trở về. Cái đó mình có thể gọi
tương đương với Thiên chúa của Cơ đốc giáo. Tại vì Thiên chúa phải là
bất sinh bất diệt, phi hữu phi vô, vô khứ vô lai. Ngôn ngữ của loài
người của chúng ta không thể nào diễn tả được Thiên chúa. Nếu anh nói
anh có thể diễn tả được Thiên chúa là gì, tức là anh còn nông cạn. Niết
bàn là một thực thể cần phải chứng nghiệm. Nếu anh dùng những ý niệm,
những ngôn từ để diển tả Niết Bàn thì anh sẽ không bao giờ có thể diễn
tả được. Dùng những phương tiện hữu hạn mà diễn tả cái vô hạn, đó là
việc không thể nào làm được. Niết Bàn hay Thượng đế cũng thế. Niết bàn,
bản thể, chân như là thực tại không sinh không diệt; cái đó chính là
Thiên chúa của Cơ đốc giáo. Cũng như cái mà người Việt chúng ta gọi là
chuối thì người Pháp gọi là banane. Chuối và banane là hai danh từ để
chỉ cho một loại trái cây. Chúng ta có thể gọi cái tuyệt đối bằng nhiều
tên, nhưng thực tại không sinh không diệt là nền tảng của tất cả các
hiện hữu. Ta có thể gọi đó là chân như, là pháp thân là niết bàn hay là
Thượng đế. Chúng ta đừng mất thì giờ vì những tên từ, chúng ta nên tiếp
xúc trực tiếp với thực tại.
|
|