.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)


TRANG NHÀ LÀNG MAI

THEO DẤU THIỀN SƯ III

CẬP NHẬT TRUYỀN THÔNG CHUYẾN HÀNH HÓA CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ TĂNG THÂN ĐẠO TRÀNG MAI THÔN TẠI VIỆT NAM - HONG KONG & THÁI LAN TỪ 20 THÁNG 2 ĐẾN 1 THÁNG 6 NĂM 2007
 

TIME MAGAZINE NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 

 

 

 TRƯỚC PHÚT LÊN ĐƯỜNG 

 

Giải oan  hay Không giải oan ?
 

  • PSN - 22.01.2007

Để tìm hiểu thêm về chuyến Hoằng pháp tại quê hương Việt Nam vào đầu năm Đinh Hợi sắp tới của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cùng Phái đoàn Phật giáo Quốc tế (Tăng thân Làng Mai) đặc phái viên của Phù Sa có mặt tại Việt Nam đã hỏi chuyện một vị Thượng tọa đang hành đạo tại Sài Gòn, và được Ngài cho biết như sau. Để tránh những rắc rối có thể xảy ra với Thượng Tọa, Phù Sa xin phép không nêu tên Ngài ra đây.

Đặc Phái Viên (ĐPV) : Xin Thượng Tọa cho biết cảm tưởng và sự trông chờ của Thượng Tọa về chuyến đi sắp tới của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Phái Đoàn Tăng Thân Làng Mai ?

Thượng Tọa (TT) : Chuyến đi trước đây hai năm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và phái đoàn quốc tế Làng Mai đã mang lại nhiều lợi lạc và hạnh phúc cho cộng đồng Phật giáo Việt Nam. Tôi tin chắc là chuyến đi sắp tới cũng sẽ là sự tiếp tục của chuyến đi trước, và đi sâu hơn trong việc giao lưu, truyền thông và chia sẻ về những pháp môn tu tập, có thể đem lại nhiều chuyển hóa và trị liệu cho nhiều Phật tử, nhất là cho giới trẻ tuổi.

ĐPV : Tôi nghe nói một số Giáo đoàn Tin Lành đã được cấp giấy phép để hoạt động tại Việt Nam và Thủ Tướng Nguyễn Tiến Dũng sẽ đích thân thăm viếng Đức Giáo Hoàng tại thành Vatican. Như thế thì có thể sẽ xẩy ra việc Đức Giáo Hoàng viếng thăm Việt Nam trong một ngày gần đây hay không ?

TT : Tôi nghĩ đức Giáo Hoàng viếng thăm Việt Nam trong thời điểm này là chưa đúng lúc. Việt Nam không phải là một xứ mà đa số là người Công Giáo như Phi Luật Tân hay Ba Lan. Tôi nghĩ là đức Giáo Hoàng sẽ không thể đến Việt Nam trước khi có cuộc viếng thăm của đức Đạt Lại Lạt Ma. Tôi tin rằng đây là cảm nghĩ của đại đa số đồng bào Việt Nam nói chung và Phật tử nói riêng.

ĐPV : Thượng Tọa không nghĩ rằng chuyến đi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh thì cũng có thể xem như là tương đương với chuyến đi của Đức Lạt Lại Lạt Ma ?

TT : Tôi không nghĩ như thế. Thiền sư Thích Nhất Hạnh dù sao cũng là một người con của đất nước Việt Nam và của Phật Giáo Việt Nam. Đây là một cuộc trở về của một người con hơn  là một cuộc viếng thăm của một nhân vật quốc tế. Tôi nghĩ dân Việt Nam sẽ không chấp nhận một cuộc thăm viếng của đức Giáo Hoàng trước khi có cuộc thăm viếng của Đức Đạt Lại Lạt Ma.

ĐPV : Xin trở lại với chuyến viếng thăm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh . Theo Thượng Tọa thì những sinh hoạt nào của chuyến đi này sẽ là quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhất ?

TT : Tôi nghĩ hoạt động nào cũng quan trọng như nhau. Trong bốn mươi năm qua, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Làng Mai Thôn đã chế tác được những pháp môn thực tập có vẻ thích hợp với xã hội phương tây, với giới trẻ và giới trí thức. Những pháp môn nầy nhìn cho kỹ thì thấy được làm bằng những chất liệu của truyền thống Phật giáo Việt Nam. Trí thức và tuổi trẻ Việt Nam cũng cảm thấy thoải mái với những giáo pháp và những pháp môn thực tập này. Trong giai đoạn toàn cầu hóa, Phật giáo Việt Nam cần phải thay đổi, phải hoàn toàn thay áo mới, mới có thể đối phó được với tình trạng mới và tiếp tục sứ mạng phục vụ dân tộc và đất nước mình. Thành ra trong chuyến viếng thăm và hoằng pháp này chắc là Thiền Sư muốn giới thiệu và đi sâu thêm vào những pháp môn thực tập ấy. Đã có dấu hiệu trong hai năm vừa qua là tuổi trẻ và giới trí thức Việt Nam rất ham mộ những pháp môn ấy. Anh đã từng đi thăm Tu Viện Từ Hiếu ở Huế và Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc chưa ? Anh sẽ thấy tuổi trẻ Việt Nam thiết tha tu tập pháp môn mới thích hợp với tuổi tác và khát khao lý tưởng của họ.

ĐPV : Thượng Tọa nghĩ sao về những Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan sẽ được cử hành tại đất nước trong chuyến đi sắp tới của Thiền Sư.? 

TT : Có thể nói các Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan này là một nét đặc biệt nhất của chuyến đi. Theo những điều tôi đọc được trên Trang Nhà Làng Mai thì các Trai Đàn này được tổ chức như những pháp thực tập tập thể của toàn dân nhầm chữa trị những thương tích chiến tranh còn nằm sâu trong lòng người. Ban đầu tôi tự hỏi tại sao một vị thầy dạy Thiền mà lại tổ chức Trai đàn vốn thuộc về lĩnh vực của Mật tông, nhưng sau, tôi thấy là Thiền Sư có cái nhìn rất rộng. Trong Thiền có Mật và trong Mật có Thiền. Đó là cái nhìn nhất quán của Thiền Sư. Có lẽ vi vậy mà tổ chức Giáo Hội bên ấy mang tên là Giáo Hội Đạo Bụt Nhất Quán (Eglise Bouddhique Unifiée). Quý thầy ở Làng Mai có giải thích về những chữ này. Nhất quán đây là cái mẫu số chung của tất cả các tông phái Phật giáo. Nó làm cho tất cả các tông phái đạo Phật dù chủ trương những giáo lý khác nhau và những thực tập pháp môn khác nhau mà vẫn đi được với nhau như một dòng sông mà không có sự chống đối nhau. Đó là nghĩa của chữ “Unifiée” theo sư giải thích của quý thầy Làng Mai trong chuyến về kỳ trước. Nó không có nghĩa góp lại tất cả mọi tổ chức làm một tổ chức như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã làm cuối năm 1963 đầu năm 1964.

ĐPV : Theo Thượng Tọa thì chính quyền có thấy được tầm quan trọng của các Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan nầy không ? và có yễm trợ cho những Trai Đàn này không ?

TT : Theo những tin tức tôi thăm dò thì ở cấp cao cũng có những vị thấy được tầm quan trọng của những Trai Đàn này. Tôi được biết là thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng viết thư cho cựu Thủ Tướng Chính Phủ đề nghị về sự thiết lập những Trai Đàn Chẩn Tế như thế từ hơn một năm rưỡi nay. Đại khái Thiền Sư đã nói với Thủ Tướng là thống nhất lãnh thổ xong thì phải tìm mọi cách thống nhất lòng người, như đại đế A Dục Vương ngày trước đã từng làm ở Ấn Độ. Nếu lòng người chưa thống nhất thì đất nước vẫn chưa có đủ sức để đối phó với tình trạng mới đang trở nên càng ngày càng khó khăn. Tôi còn nhớ đầu năm 2005 trong chuyến đi đầu của thiền sư Thích Nhất Hạnh một vị nhân sĩ ở Huế  đã xá tôi và nói : “Tôi nói xin thầy tha lỗi, lâu nay cứ nói thống nhất mà chưa thấy thực sự có thống nhất. Giờ phút mà máy bay của Sư Ông đáp xuống phi trường Phú Bài này, nhìn ánh mắt rực rỡ của hàng ngàn người dân ra đón chào sư ông, tôi mới có cảm tưởng là đất nước mới bắt đầu có thống nhất thật sự” Câu nói này chứng tỏ rằng người dân đang thực sự mong chờ một sự thống nhất thất sự, nghĩa là môt sự thống nhất nhân tâm. Tổ chức những Trai Đàn để mọi người có thể tìm tới với nhau, ý thức được rằng những oan khổ xưa nay bây giờ đã được thừa nhận, để cùng cầu nguyện với nhau trong tình đồng bào ruột thịt, đó là một pháp môn thực tập rất vi diệu, nó đem người Nam về lại với người Bắc, nó đem đồng bào hải ngoại về lại với người đồng bào quốc nội, nó có thể đóng góp rất nhiều cho sự thống nhất nhân tâm và chữa lành những vết thương còn che kín và rướm máu trong lòng người. Nhưng cũng còn có những người trong chính quyền và trong đảng, nhất là trong giới công an, chưa thấy được điều đó nên họ vẫn e ngại không muốn yễm trợ công tác Phật sự này.

ĐPV: Tại sao họ lại e ngại ?

TT : Họ sợ xáo trộn, mất an ninh. Cái sợ trong họ rất lớn. Họ nghĩ là nếu trong Trai Đàn Chẩn Tế mà nhắc tới những oan khổ trong quá khứ có thể gây ra nhiều cảm xúc,  rồi từ cảm xúc sinh ra trách móc, chống đối và xáo trộn. Họ chủ trương rằng những nỗi khổ niềm đau ấy, cứ để cho người ta quên  đi, đừng nhắc lại làm gì. Cái người ta muốn quên đi thì mình không nên nhắc lại. Trong khi đó thì chủ trương của Làng Mai là khi những khổ đau oan trái ấy được đưa lên vùng ý thức, được chính thức công nhận thì những thương tích kia mới có thể bắt đầu được trị liệu một cách thực sự. Cái khác nhau là ở chỗ đó.

ĐPV : Thượng Tọa có nghĩ là cũng có những người trong Bộ Công An có thể thấy được và hiểu được thiện ý và chủ trương của Làng Mai không ?

TT : Có thể là họ thấy được và hiểu được nhưng họ vẫn sợ như thường. Vì vậy họ đã không muốn cho Làng Mai và cho các thầy trong Giáo Hội sử dụng từ Giải Oan. Họ nói bốn chữ Trai Đàn Chẩn Tế là đủ rồi, không cần nói đến giải oan. Có oan gì đâu mà giải ?

ĐPV : Lạ thật, trong ba mươi năm chiến tranh, làm sao mà không có oan ức ? Trai Đàn cầu siêu cho nạn nhân của ba mươi năm chiến tranh thì phải có công năng giải oan chứ ?

TT : Trai Đàn cũng là để giải oan, từ xưa tới nay vẫn thế. Người ta không thấy rằng từ giải oan là một từ rất phổ thông trong Phật giáo: Suối Giải Oan, Chùa Giải Oan. và tất cả những Trai Đàn chẩn tế từ xưa đến nay đều có mục tiêu giải oan. Trong mấy mươi năm chiến tranh khốc liệt vừa qua, có ai trong chúng ta mà đã không gánh chịu ít nhiều oan ức? Người Miền Bắc cũng đã từng chết oan, người Miền Nam cũng đã từng chết oan, người Cọng Sản cũng đã từng chết oan, người chống cọng cũng đã từng chết oan. Chiến sĩ cũng đã từng chết oan mà thường dân cũng đã từng chết oan. trong Nam cũng như ngoài Bắc, trong rừng sâu cũng như ngoài biển cả. Oan ức khổ nhục phải được công nhận thì mới có cơ hội trị liệu, cơ hội giải oan. Thông bạch của Đạo Tràng Mai Thôn đăng báo Giác Ngộ cũng đã bị kiểm duyệt hai chữ giải oan. Nghe đồn thầy Pháp Ấn tranh thủ lắm mới giữ được hai chữ Bình Đẳng. Bài Phổ Cáo Quốc Dân trên mạng Làng Mai nêu rõ những khổ đau tủi nhục oan khuất mà nhiều triệu người đã phải chịu đựng vẫn chưa được phép đăng lên báo chí, dù là báo chí Phật giáo. Theo tôi biết, bài Phổ Cáo Quốc Dân ấy đã được Làng Mai viết rất nhẹ nhàng để có thể được chấp nhận ở quốc nội  nhưng vẫn không được (hoặc chưa được) chấp nhận để đăng lên báo chí.

ĐPV: Như vậy thì đồng bào làm sao được thông báo rằng sẽ có những Trai Đàn Giải Oan như thế ?

TT : Tôi không biết, nhưng tôi cũng trông chờ một phép lạ nào đó để tất cả đồng bào mình  đều được biết là có những Trai Đàn như thế để mọi người dân có cơ hội thiết lập bàn thờ và cùng cầu nguyện. Tôi nghĩ là nếu Phật sự này mà không thành tựu được như mong muốn là tại vì người ta quá sợ. Riêng tôi, tôi không thấy lý do gì  để họ lo sợ như thế. Tôi không thể tưởng tượng ra được là thiền sư Thích Nhất Hạnh lại muốn gây xáo trộn và làm mất an ninh. Thầy đi tới đâu là có an ninh tới đó. Những buổi thiền hành ở Rome, Firenze, Frankfurt, New York và Paris với hàng ngàn người tham dự, v.v... đều chứng tỏ như thế.

ĐPV : Các vị tôn đức trong Giáo Hội nghĩ thế nào, có ai không đồng ý với thiền sư Thích Nhất Hạnh không?

TT : Theo tôi thấy thì phần lớn các vị tôn đức trong Giáo Hội đều thấy được giá trị và sự cần thiết của những Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan. Đây là lần đàu tiên mọi người có thể chính thức đến với nhau để cầu nguyện cho tất cả các đồng bào nạn nhân, không phân biệt Nam Bắc, chủng tộc, già trẻ, gái trai, cọng sản, chống cọng, v.v... Tác dụng trị liệu sẽ lớn lắm, và sự thực tập này sẽ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong việc thống nhất nhân tâm.  Đọc trên trang nhà Làng Mai chúng tôi thấy Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết thư mời các vị Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng Chính phủ và ông Chủ Tịch Quốc Hội tới dự lễ bạch Phật dâng hương tại các Trai Đàn. Tôi rất ấn tượng về hành động này vì đây là một hành động rất xây dựng, bày tỏ rất nhiều thiện chí. Nếu các lãnh đạo nước bỏ qua cơ hội, thì đó là một uổng phí một mất mát lớn. Theo tôi thì nhà nước phải cho phổ biến rộng rãi tin tức về các Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan để toàn thể quốc dân đều biết mà tham dự vào sự thực tập. Tôi nghĩ cấm sử dụng hai chữ giải oan sẽ là một vết đen trong lịch sử ; hành động ấy chứng tỏ những vị ấy không nắm được vững vàng truyền thống văn hóa Việt Nam. Các vị Tôn Túc trong Giáo Hội từ Bắc vào Nam đều thấy rõ như thế, nhưng họ ngại không nói ra đó mà thôi.

ĐPV : Thượng Tọa có vẻ như một người thông hiểu rất nhiều về đường lối của Làng mai, xin Thượng Tọa cho biết ThượngTọa đã từng đến Làng Mai lần nào chưa?

TT : Tôi không phải là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cũng chưa từng theo học với Ngài. Tôi cũng chưa tới Mai thôn. Nhưng tôi đã đọc hết những sách của Thiền Sư. Tôi nghĩ Thiền Sư là người có khả năng nói chuyện với tuổi trẻ và gây cảm hứng cho tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ Phật giáo. Đi thăm Tu Viện Từ Hiếu và Tu Viện Bát Nhã, tôi thấy các đệ tử xuất gia của Thiền Sư phần lớn đều mang theo được cái năng lượng lý tưởng và một phần nào cái tinh thần thực tập của Thiền Sư và điều này làm cho tôi có đức  tin. Một ngày nào đó tôi cũng muốn có cơ hội qua Mai Thôn Đạo Tràng tu học chừng một năm để nắm vững được tất cả những pháp môn bên ấy. Nhưng bây giờ vì có quá nhiều trách vụ, tôi chưa thực hiện được mơ ước ấy.

ĐPV : Trong chuyến về  nước của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cách đây hai năm, Thượng Tọa có đến tham dự những sinh hoạt của tăng đoàn Làng Mai không ? Và Thượng Tọa cảm nhận như thế nào về cách thức tu tập và hoằng pháp của Thiền Sư và tăng thân Làng Mai ?

TT : Tại TPHCM tôi có đi tham dự, ở Huế cũng vậy, nhưng tôi không theo Phái Đoàn Làng Mai đi suốt chuyến được vì có quá nhiều cộng việc ở đây. Tuy nhiên tôi có theo dõi tất cả mọi hoạt động của phái đoàn và nghe hết những băng giảng của Thiền Sư tại  Hà Nội và Bình Định. Tôi rất nể phong thái của Thiền Sư. Vẫn chiếc áo nâu mộc mạc đi giữa rừng áo vàng của chư tăng Thừa Thiên, các thầy và sư cô ngoại quốc nhìn thấy thương quá, cũng áo nâu, cũng nón lá đi bộ cùng khắp Huế, ít khi sử dụng xe máy... Vài thầy và sư cô Tây phương nói tiếng Việt được, rất dễ thương. Có một thầy người Hà Lan hô canh ngồi thiền buổi sáng rất thiền vị.

ĐPV : Thượng Tọa nghĩ thế nào về thái độ Thiền Sư đối với NNước?

TT : Ngay những ngày đầu ở TP Hồ Chi Minh,  Ban Tôn Giáo Chính Phủ có thỉnh cầu Thiền Sư đi gặp Thủ Tướng. Thiền sư đã khôn khéo từ khước không gặp Thủ Tướng Phan Văn Khải lấy cớ là mình mới về tới chưa lắng nghe, chưa tìm hiểu, cái thấy còn chưa rõ ràng thì sẽ không biết nói gì với Thủ Tướng. Trong buổi diển thuyết sau đó tại Trường Quốc Gia Hành Chánh, Thiền Sư đã tháo gỡ được cho những người trong Đảng và trong chính quyền rất nhiều khi trả lời câu hỏi: quy y rồi thì còn được phép yêu nước và yêu đảng nữa hay không ? Thiền Sư nói : Nếu quy y mà không còn được yêu nước và yêu đảng thì quy y làm  gì? Thính chúng vỗ tay vang dội, không phải vì câu trả lời có một nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm ghê gớm mà vì lâu nay người đảng viên Cọng Sản từng được huấn luyện là muốn là một đảng viên tốt, một nhân viên tốt của chính quyền thì không nên đi Chùa, không được đốt nhang thờ cúng, vì làm như vậy là “duy tâm”,  không phải là một người Mác Xít đứng đắn. Sau tràng pháo tay Thiền Sư lại tiếp : Quy y rồi quý vị sẽ biết cách yêu nước hay hơn,  yêu đảng hay hơn (sáng suốt hơn). Lại một tràng pháo tay dài tưởng như không muốn chấm dứt. Tràng pháo tay ấy là sự phá vỡ thành kiến kia sai lạc kia. Thiền sư Thích Nhất Hạnh không “chống cọng” nhất là chống cộng theo kiểu la lối và lên án mà chỉ muốn sử dụng pháp lắng nghe và ái ngữ để khuyến khích những người Cọng Sản đi về hướng cởi mở và tự do thôi.

ĐPV : Đến Phật Đản năm 2005, tôi thấy các cấp chánh quyền địa phương đều được lệnh tới tham dự lễ Phật Đản.

TT : Đúng vậy. Sau khi Thiền Sư rời Việt Nam không lâu thỉ Chủ Tịch Nước đến làm lễ ở đền Hùng. Toàn dân đều thấy Chủ Tịch Nước qua đài truyền hình thắp nhang khấn vái rất thành kính chứ không phải ngượng nghịu như xưa.

ĐPV : Thượng Tọa có nhớ trong bài diễn thuyết tại Học Viện Chánh Trị Hồ Chí Minh ở Hà Nội, Thiền Sư cũng đã làm cho cử tọa cười lớn khi Thiền Sư nói nửa đùa nửa thật : “Chúng tôi là những người cọng sản thứ thiệt, vì ở Làng Mai chúng tôi, không ai có tiền riêng, trương mục riêng, điện thoại cầm tay hay e-mail riêng, tất cả mọi tiện nghi đều là của chung” không?

TT : Đúng rồi. Tôi thấy điều đó rất mầu nhiệm. Nên nhớ là trong thính chúng hôm ấy có mặt những nhà đại trí thức, những lý thuyết gia Mác Xít và các cán bộ nồng cốt. Không ai cảm thấy buồn giận vì câu nói ấy cả vì cách nói của Thiền Sư nhẹ nhàng và khiêm cung khiến ai nấy đều cười lên rất hoan hỷ. Thật là đi vào hang cọp để vuốt râu hùm mà không bị hùm ngoạm. Cái Học Viện Chính Trị ấy nếu không phải là chốn đào tạo người cán bộ nồng cốt, nếu không phải là hang cọp thì còn là gì nữa ? Vậy mà Thiền Sư đã vào tới đó, và bằng một lời nói nửa chơi nửa thật, dám vuốt râu hùm. Chúng tôi là Cọng Sản thứ thiệt, có nghĩa là các bác chưa phải là Cộng sản thứ thiệt. Nói như thế mà người ta không giận thì có phải là vuốt râu hùm mà hùm không làm gì mình cả, có phải vậy không ?

ĐPV : Hay thật, vậy mà tôi không thấy được như Thượng Tọa.

TT : Tôi thấy câu nói đó cũng là một phương tiện cởi mở lớn. Có những người theo Đảng đã lâu năm, nay đã bắt đầu nói : Chúng ta không nên bị kẹt vào những chủ thuyết ngoại lai mà bỏ mất truyền thống văn hóa ta. Như vậy là tiến bộ vượt bực rồi còn gì nữa. Sáu điểm mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đề nghị về con đường cởi mở của đảng Cọng Sản để đảng tới gần với dân tộc và Phật giáo, sáu điểm ấy nói lên được cách thức và phương tiện mà Thiền Sư sử dụng để giúp cho giới lãnh đạo đi tới được sự cởi mở và chuyển hóa một cách tự nhiên.  Đó  há chẳng phải là một cuộc cách mạng bất bạo động không ?

ĐPV : Xin cám ơn Thượng Tọa đã hết lòng phát biểu và nhất là đã không ngần ngại nói lên được những cái mà người khác e ngại không dám nói.

 

 Bạn có ý kiến, nhận định, ... mời bấm vào đây.

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.