3. HÀ
NỘI - NINH BÌNH - VĨNH PHÚC |
18/4 Thứ Tư (2/3 âl) và
thứ Năm 19/4 (3/3 âl)
8:00 - 12:00 Thăm viếng, chia sẻ với Tăng Ni sinh
Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội, Sóc Sơn.
Trước
ngày khai Đàn
ở chùa
Non - Sóc Sơn

...ban
thiết trí nổ lực làm việc, hai ngày sau, địa điểm hành lễ tương đối
..

Cái chái che bạt nilon làm chổ nấu ăn...

Mỗi ngày, làng Mai phải cung ứng một trăm can nước 20L tại chỗ.
Lương thực, thực phẩm cũng phải mang từ Hà Nội lên,..

...căn
nhà sàn chư tăng trú ngụ, một ngôi nhà gỗ của một cán bộ bỏ trống,
họ cho mượn tạm... |
Sáng 17/4, anh em cư sĩ Tiếp hiện cùng một số chư tăng di chuyển lên Sóc
Sơn để hỗ trợ cho việc thiết lập Chẩn Đàn, vì mọi việc đều bắt đầu bằng
số không, ngoại trừ mặt bằng độ 500m2.
Sau khi làm vệ sinh khu vực, các hàng quán bán quanh chùa Sóc được dẹp,
ban thiết trí nổ lực làm việc, hai ngày sau, địa điểm hành lễ tương đối
màu mè, vàng, đỏ, xanh, trắng vải phủ bốn bề đàn tràng. Tràng
phang bảo cái lòng thòng trông đẹp mắt. Tiền mướn thợ từ Hà Nội lên cắm
hoa cũng đã bảy triệu đồng. Hoa cắm trông đẹp nhưng chưa thể hiện tinh
thần thiền của đạo Phật, còn lắm rườm rà! Mỗi lần cần mua đồ cho việc
trần thiết, nếu không vượt 50km về Hà Nội thì cũng phải năm, mười cây số
để mua đinh, kẽm hay những vặt vảnh khác.
Sáng nay, buổi pháp thoại vẫn theo đúng quy định; ngoài tăng thân làng
Mai, Từ Hiếu, Bát Nhã, có một số rất ít của Hà Nội hoặc các tỉnh tham
dự; ngồi vừa đủ nội vi chánh điện độ năm chục mét vuông. Phật tử Hà Nội
chưa tới mười người. Trước đó nửa giờ, đoàn Phật tử Nam Định đến tham
quan, cũng vội xuống núi để kịp đi nơi khác. Các tỉnh phía Bắc, Nam Định
là vùng Phật giáo phát triển nhất. Đặc biệt, giới trẻ đi chùa nhiều,
những đoàn thể sinh hoạt đều do cư sĩ tự quản lý điều hành. Trong tỉnh
có trên 500 ngôi chùa. Ban văn hoá Phật giáo Nam Định phát triển về mặt
nghi lễ rất vượt trội. Sau 1990, các cư sĩ và một ít thầy vào Nam tham
gia học hỏi các trai đàn và những nghi lễ cổ truyền của các sư Bắc sống
trong Nam, để bổ sung cho lễ nghi Nam Định suốt thời dài bị mai một. Ban
thiết trí lễ đàn của Nam Định chỉ có 15 cư sĩ, do Ban Nghi Lễ trung
ương mời, họ làm việc năng nổ; việc ăn uống của họ cũng thất thường, vì
không có bếp núc củi lửa; từ hôm quý ni của đoàn lên che trại nấu ăn cho
quý thầy, họ mới có bửa cơm đàng hoàng, thường thì mì ăn liền, đó là
những người làm công không bao giờ có lương!
Mỗi ngày, làng Mai phải cung ứng một trăm can nước 20L tại chỗ. Lương
thực, thực phẩm cũng phải mang từ Hà Nội lên, vì thế, mọi sự không đầy
đủ như các chùa đoàn trú ngụ. Tôi phải lấy cơm và thức ăn vào cái ca múc
nước, chợt nhớ lại sự thiếu thốn nơi trại học tập cải tạo những ngày
đầu. Cái chái che bạt nilon làm chổ nấu ăn sát với căn nhà sàn chư tăng
trú ngụ, một ngôi nhà gỗ của một cán bộ bỏ trống, họ cho mượn tạm, cách
địa điểm đàn tràng 600m đồi dốc, vị trí nhìn sang các dãy nhà lầu Học
Viện Phật giáo sang trọng, màu gạch nung, giữa núi xanh bạt ngàn. Các
tăng ni vô tư dạo quanh chiêm ngưỡng Học Viện như những trẻ thơ nhìn gia
sản của cha mẹ khi chia tay mà không hề nghĩ đến lý do hay có một một
ước vọng. Giờ cơm trưa, chư ni chùa Bồ Đề và chư tăng chùa Sùng Phúc
phải trở lại Hà Nội, vì nơi đây chưa đủ phương tiện cung cấp đầy đủ cho
số đông. Ở đây, tăng ni đều tự lo, không có Phật tử phụ giúp như các nơi
khác. Trông mấy thầy mấy cô vất vả thật tội nghiệp. Họ làm cho ai, vì
ai? Họ ở làng Mai, ở Từ Hiiếu, Pháp
Vân, Bát Nhã chỉ biết tu, nếu phải lao tác, cũng đầy đủ phương tiện và
có cư sĩ phụ giúp. Mỗi lần di chuyển, tăng đoàn hành trang ba lô, tư
trang như chiến sĩ ra trận. Sư ông đi hoằng hoá các nơi trên thế giới,
tăng thân tháp tùng cũng di chuyển theo, nhưng tại VN, kéo theo một số
Phật tử, vì vậy quý thầy trong ban điều hành vất vả tính toán nơi ăn
chốn ở, phương tiện đi lại, từ tổng quát đến tiểu tiết trong điều kiện
khó khăn mà khó khăn nhất là ở Sóc Sơn!
Một sư cô trong đoàn Mai ngoại, thường trú tại Hà Nội, đi vào nhà dân để
tìm nhà mướn cho tăng ni và Tiếp hiện cư sĩ tạm trú; gọi là nhà dân chứ
đó là những tửu quán, nhà nghỉ cho khách du lịch Hà Nội cuối tuần đưa em
út ra hưởng gió núi gà rừng! nhà dân phải xa trên 3km. Một cô chủ trên
dưới 50 nhiệt tình giúp đoàn cư trú mà không phải tốn đồng nào; nơi đây,
xa hơn nhà sàn quý thầy và nhà bếp hơn nửa km, đến địa điểm hành lễ trên
một cây số; anh em cư sĩ Tiếp hiện nghĩ tạm; với chiếc xe minilam, cô
chạy lên chạy xuống chở các anh em và hành lý về nhà tạm. Tôi đi đầu
tiên, cô từ chối : Bác còn trẻ lắm, để các cụ đi trước ạ! một vị
trong đoàn nói đùa : trông trẻ thế chứ là cụ đấy cô ạ! Nhưng rồi
tất cả mười mấy người cũng được cô đèo qua dốc “ngoạn mục”. Tôi quen lối
dời trại trên 20 năm về trước nên thích ứng ngay với môi trường vất vả
và hiu quạnh giữa núi đồi. Cũng lạ, nhà tu với nhau lại chối từ giúp
nhau để làm việc chung, dù thừa thải chỗ ở, nhưng người dân chưa hề hiểu
Phật giáo là gì thế mà có thừa tấm lòng để dung chứa bao nhiêu con người
xa lạ!
Trời ngã bóng lưng núi, hồ nước nhân tạo nằm giữa chân núi vây quanh lấp
loáng mây trời, gió se se lạnh, chúng tôi kéo về láng lấy cơm, mỗi người
theo đoàn, tay nâng bình bát, mặc áo Tiếp hiện, làm nổi cộm giữa đám
Thiên Nga một người đầu đuôi vừa chẳn 1m50, bộ bà ba màu gỗ bạc, lếch
thếch lạc loài, nâng chiếc ca múc nước, cũng vái vái trước khi lấy thức
ăn, làm đúng động tác của người trong đoàn nhưng không dấu được cái khác
biệt của người “ khách không mời” nơi tôi. Khi xong bữa, về đến chỗ ở,
chả biết mình đã ăn chưa, năng lượng rơi rớt trên đoạn đường mòn hiu
quạnh!
Về đêm, trời trở lạnh, bốn bề trống gió, không ai ngủ được. Tôi thức dậy
để làm việc; ánh sáng tù mù từ chiếc bóng điện tròn không đủ rõ từng con
chữ trên laptop, đánh chữ nầy lộn chữ nọ, đến sáng xem lại, biến thành
một thổ ngữ mới mà loài người chưa từng có. Ba giờ sáng, cơn mệt quên đi
cái lạnh, tôi cố nhắm mắt, nhưng lại hiện lên trong đầu cái lạnh khác
hơn, đó là cái lạnh “như tiền”, một loại lạnh vô hồn vô cảm của kim loại
hiện lên khuôn mặt thâm tái của Hòa thượng Thanh Tứ khi tiếp chuyện với
Thiền sư.
Sáng ngày 17, Thiền sư Nhất Hạnh và tăng thân làng Mai đến chùa Quán Sứ.
Bên ngoài cổng, các bà bày các nia, các mâm trưng bày xâu chuổi, vàng
mã, ảnh tượng ngồi bệch dưới đất mời khách; Sư ông và tăng đoàn đứng
ngắm toàn cảnh, không thấy ai đón tiếp, đoàn dợm chân bước vào, có hai
thầy trong Ban Trị Sự mặc hậu vàng bước ra; đoàn chen lẫn những tín đồ
đang xúng xính cầm nhang tìm chỗ cắm, trong chánh điện cũng lúc nhúc
người lễ lạy, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của chùa Quán Sứ là thế,
không có một biểu hiện đón Thiền Sư và đoàn như chương trình đã định, có
lẽ vì Phật sự đa đoan mà Trung ương Giáo hội quên bẳng sự có mặt của
làng Mai tại Hà Nội. Trong phòng khách, từ ngoài nhìn vào, đối diện Hòa
thượng Thanh Tứ phía tay mặt là Sư ông, các ghế còn lại, không nhiều
lắm, dành cho các vị cao lạp trong đoàn, phần lớn còn lại đều đứng.
Không quá mười câu xã giao, nhưng Hòa thượng trưởng thượng Thích Thanh
Tứ không hề nhìn mặt Sư ông, Sư ông làng Mai điềm nhiên ngõ lời tri ân
của hàng hậu duệ đối với tiền hiền liệt tổ khi trở về quê mẹ. Tất cả
chìm lặng trong không khí chết, thầy Pháp Ấn giới thiệu từng vị sư ngoại
quốc, và sau đó bắt nhịp cho một bài Bát Nhã tâm kinh bằng tiếng Anh
trước khi cáo lui. Cũng sáng hôm đó, làng Mai đến
viếng Ban Tôn giáo chính phủ và vụ Phật giáo, không khí dễ chịu hơn, bớt
cô đặc hơn!
Thời gian tiền trạm hơn nửa năm trước, Hòa thượng Thanh Tứ từng nói :
Làng Mai về đây thiếu gì người ủng hộ, cần gì Giáo hội Trung ương…
Ngài không đồng ý cho Giáo hội hợp tác, nhưng với tư cách thành viên
Giáo hội Trung ương, thầy Thanh Quyết và Hòa thượng Hiển Pháp ký giấy,
thế là báo Giác Ngộ đăng tin, Tuổi Trẻ, Thanh niên cũng dựa vào đó mà
phổ biến. Nhưng qua những tình cảnh và suốt thời quá khứ của Ngài, cho
thấy tiền hung hậu kiết vào phút chót, luôn có quới nhơn hộ trì.
Sáng 19/4 tại chùa Non, Sóc Sơn, 8g30, Sư ông pháp thoại cho hơn 200
tăng ni sinh Hà Nội và độ 50 Phật tử các nơi về dự, có cả sư Bửu Chánh,
giáo thọ Học Viện, từ Sài Gòn ra. Âm thanh chỉ hạn chế trong khuôn viên
chùa; sinh khí có vẽ chộn rộn hơn, báo hiệu ngày khai đàn không đến nổi
bi quan. Một số các cán bộ về hưu cũng kéo nhau viếng đền Thánh Gióng,
tạt vào nghe pháp thoại. Mấy hôm nay, cơ quan truyền thông Hà Nội cũng
phổ biến chương trình Đại Đàn Chẩn Tế dân chúng lác đác đến chùa Non ghi
danh cầu siêu cho tộc họ và cầu an cho thân quyến hiện tiền.
Khu vực quanh đây là quần thể đền chùa, quá chùa Sóc độ 700m là đền
Trình, đền Mẫu và xa hơn tí nữa là đền Thánh Gióng. Bên trong đền Thánh
Gióng, chính tượng là ngài Phù Đổng, tay mặt ngài là đức Vu Điền quốc
vương; Natra Thiên tử và lực sĩ tả Xuyên Xuyên, tay cầm chùy. Tay trái
Phù Đổng Thiên Vương là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Nữ Oa ổ Thiên, và Hữu Vạn
Vạn Tinh Binh tay cầm chùy.
Tất cả đình đền chùa miếu đều nằm giữa lòng chảo núi non bạt ngàn. Hàng
ngàn năm trước, đường sá chưa thông, phương tiện đi lại không thuận
tiện, rừng rú bao la, cha ông ta làm sao vào chốn mịt mù như thế để chọn
địa linh mà sanh nhân kiệt! Ngày nay hậu thế biết trân quý cổ tích và
văn hoá cha ông, tái tạo xây dựng, tuy không bề thế nhưng giữ được đường
nét Việt tộc. Các Thánh tượng có thần khí. Để chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long, nhà nước sẽ hoàn tất tượng Thánh Gióng phóng ngựa về trời
cao 50m trên đỉnh Sóc Sơn, vào năm 2009, một biểu trưng tinh thàn chống
ngoại xâm từ phương Bắc của dân tộc ta.
Thế hệ chúng ta cũng đang nổ lực thể hiện tinh thần đoàn kết bảo vệ tổ
quốc qua nhiều mặt, trong đó có tôn giáo, nhưng một số sư lãnh đạo Phật
giáo Việt Nam đã xem cái ngã của mình lớn hơn vận mệnh dân tộc, ngăn trở
cái lợi chung mà Sư ông làng Mai vất vả từ phương xa trở về đóng góp;
trong nước, các ngài an phận, vừa lòng với hiện tại bằng chức phận hư
danh, vận mệnh Phật giáo chả đáng cái vái lạy của những tín đồ vây quanh
quý ngài, đem lại cho quý ngài cuộc sống tiện nghi vật chất và quyền lực
vô hình.
Lời khấn nguyện cho đàn chẩn tế tại Hà Nội lọt thỏm giữa núi đồi như âm
binh vô vọng giữa chốn vô cùng. Có thể Âm Dương đồng cảm giữa lòng khí
thiêng sông núi, nhưng thế giới có đồng cảm với Việt Nam khi họ đang
theo dỏi việc làm của làng Mai bị trôi giạt nơi chón vắng người. Dù sao,
thể diện một quốc gia, chúng ta đều có trách nhiệm như nhau.
MINH MẪN
19/4/07
|