THỪA
THIÊN - HUẾ | ĐÀ NẲNG | CAM RANH - NHA TRANG |
24/3 Thứ Bảy
(6/2 âl) Nghỉ ngơi
Kỷ
niệm ấu thời
Những dấu
chân thời thơ ấu 1
Những dấu
chân thời thơ ấu 2
Những dấu
chân thời thơ ấu 3
Những dấu
chân thời thơ ấu 4 |
Trời sáng mát dịu, không có sương mù như hôm qua.
Cảnh vật còn ngái ngũ trong màn đêm; tiếng đại Hồng chung nhẹ ngân như
từng ngân nhẹ suốt hàng thế kỷ, ngày Từ Hiếu có mặt..
Thời chiến, Pháp đi càn, dân chạy giặc bỏ vườn hoang nhà trống, cư
dân thưa thớt, lúc bấy giờ Từ Hiếu cheo leo hiu quạnh một góc núi , cây
cỏ rậm rạp, trong chùa chỉ vài thầy trò và dì Tư nấu ăn, khuya chiều vẫn
vang vọng chuông mõ, thầy trò cố bám trụ giữ chùa. Sư ông kể: Ngày
ấy, ba người lính Pháp, có một sĩ quan, họ lái xe jeep vào rừng thông
cưa đốn tự nhiên, chú điệu chạy vào báo, thầy Chánh Kiến không biết
tiếng Tây, nhờ thầy ra nói chuyện – các ông có biết rằng các ông cưa cây
của chùa không? Người Pháp nhìn thầy từ đầu đến chân để thẩm định chú
điệu này gan lớn bằng người chú chăng, hai lính Pháp vẫn tiếp tục cưa
cây, do tính cương quyết của thầy, chiếc cây thứ ba vừa bị hạ, cũng là
cây cuối cùng, họ mang đi làm cầu cống cho xe qua. Sư ông vừa chỉ
rừng thông đối diện cổng chùa vừa nói. Thầy trò ngồi xúm quanh dưới tán
thông, sư ông kể tếp : Có hôm một người lính Tây ốm đói như vừa sốt
rét, tuổi không hơn thầy bao nhiêu, bắt chùa đưa vào lục soát nhà bếp,
thấy nửa bao gạo, anh ta bắt thầy vác ra xe thế là thầy lo chiều nay cả
chùa nhịn đói; nhưng không, sư ông của thầy đào lên một lu lúa khác đã
chôn dấu. Sư ông thầy vừa đào vừa than : Sống sao mà khổ quá, còn sống
còn khổ, chết mới hết khổ, rôi sư ông thầy lại nói - chết rồi ai hết
khổ? nó biến thành một công án!
Từ trong chùa, thầy trò thong dong ra cổng, đến hồ bán ngyệt, sư ông
ngồi lại nhìn từng thân cây, từng ngọn sao, sư ông kể, đây là chỗ thầy
ngồi gọt mít, phải gọt dưới nước mít không đen, chả hiểu tại sao thầy
luôn ngồi bên nầy, sư ông chỉ ngay đường xuống hồ. Ngôi tháp cổ, tầng
trên có cửa vòm đủ người chui vào, nằm xéo cổng chùa cách độ hơn trăm
thước : Các con biết không, lúc nhỏ, thầy bắt thang leo lên tháp,
chui vào trong xem các cốt tượng, tượng nào còn đẹp, thầy đem về tu bổ
lại. Vì chứa cốt tượng hư và kinh sách cũ rách nên gọi là Bảo tháp. Bên
tay trái chạy về dốc trên là chùa Diệu Nghiêm, thuộc nhánh nằm trên
đất của chùa Từ Hiếu.
Khi vòng xuống lại cổng Tam Quan, sư ông nhìn nó một cách thân
thương, vì chính cổng nầy đã tạo cho sư ông một ấn tượng khi được mẹ dắt
vào cửa Phật, nơi đây, sư ông phải xuống suối tắm rữa sạch sẽ trước khi
vào bái bạch thầy mình; con suối gần Tam quan vẫn róc rách ca suốt hàng
thế kỷ.
Quẹo tay trái, vào khỏi cổng, đến một giếng cạn, nơi đây là chổ tắm
giặt của chùa, chiếc cối đá dùng làm thau giặt áo, vẫn còn nằm một góc
bờ cỏ, phủ rêu xanh, giếng cũng xây cao hơn, không còn tự nhiên của
những vò đá quanh miệng. Nước giếng chỉ cách một sãi tay, mát trong và
lạnh. Sư ông nhắc lại từng cây khế, cây Bùi, cây Dầu sỡ, cứ đến mùa
Người phải hái Bùi đem cúng các chùa ở Huế, ngày xưa đi bộ, không dép,
không xe, vì thế chân bị phong thấp nứt nẻ đau nhức; trái dầu sỡ lấy hột
bỏ vào cối đâm nhuyển lấy dầu nấu ăn. Đặc biệt là khế, chính tay sư cố
hái cho thì ăn ngọt, trộm mà ăn thì chua, thật ra sư cố biết trái chín
ngọt sẽ ngã màu nào đó. Nơi chỗ lên chùa, khỏi hồ bán nguyệt một tầm tay
là chổ trồng khóm, thầy ăn trộm khi quá khát nước, giờ thầy phát lồ
trước hội chúng, mọi người đều cười ồ! Thầy chỉ về cánh trái của chùa :
Nơi kia là chuồng bò, các điệu vào là phải giữ bò, sáng mở cổng lùa bò
ra núi, gói theo cơm trưa, khi cắt đầy mấy bao cỏ, thầy lấy kinh ra học,
khi nghe tiếng kẻng công phu chiều vọng vào núi, thầy lùa bò về, tắm
rữa, nuôi bò để lấy phân làm ruộng; có hôm chú bò nghe theo tiếng gọi
của tình yêu, bỏ thầy chạy mất, thật khốn khổ thầy đuổi theo và nhờ dân
giúp phụ. Cũng có cái giếng cho bò uống va tắm. Trong khi giếng bên trên
để nấu ăn, và những vại nước lọc kia để nấu trà cho sư cố! Thầy nhớ có
lần buồn ngũ, thầy mang nước cho sư ông khách mà cái khay lật ngược, sư
cố nhắc khéo thầy. Một hôm, sư ông khách không còn đủ răng, thầy đứng
hầu, sư ông kêu lại bảo thầy ngữa tay ra, sư ông khách gắp bỏ vào tay
thầy cái chả giò chiên rồi nói, chú thấy tôi còn cái răng nào không? Có
hôm, thầy dọn cơm cho sư cố, ăn xong, ngài hỏi, chùa mình còn tre không,
dạ còn nhiều, chú hạ một cây, thưa,... thưa thầy làm gì ạ?, làm vài đôi
đũa, thầy sực nhớ dọn ăn thiếu đũa.
Vào
hậu liêu, Đông lang, ngài chỉ bộ sạp, chỗ của sư cố ngồi, giờ đây vẫn
còn nguyên vẹn, tuy không còn người, khi đi qua cũng nghiêng mình kính
cẩn; phòng thờ sư cố, hình sư cố do chính tay sư ông thuê người làm từ
Sài Gòn mang về một cách trang trọng... Một hậu liêu khác là chỗ lúc bé
sư ông bị sốt rét nằm co quắp đơn điệu, khi hết bệnh, dì Tư cho ăn hai
chén cháo trắng thấy ngon hơn lúc bình thường. Cái cột tiền đình, xưa
kia màu trắng, thầy dùng mực đen viết : Nguyện độ nhất thiết chúng
sanh, nếu sư cố bắt gặp chắc sẽ bị phạt! khẩu khí tự phát như thế
khi còn nhỏ, giống Lý Công Uẩn phạt di lý tượng Hộ Pháp vậy.
Mãi đến khi thầy được gửi đi học, ở lại chú Dương phải gánh nhiều
việc, ngoài việc thỉnh chuông hằng bữa, chú Dương có hạnh của một Bồ
Tát!
Chùa Từ Hiếu là nơi in ấn kinh bằng bản mộc phổ biến cho các chùa ở
Huế, sư ông hướng dẫn chúng xuống phòng để xem thực tập in kinh, không
còn trên giấy bổi mà giấy trắng láng ngày nay.
Trên chùa, quý thầy đang cúng ngọ, giọng Huế tán rơi thâm trầm thiền
vị, các du khách nước ngoài ngẩn ngơ đứng nghe. Chúng đệ tử còn ngậm
ngùi những kỷ niệm ấu thời của vị thầy suốt đời hy sinh cho đạo pháp và
dân tộc và suốt đời vẫn hứng chịu lắm đàm tiếu vô lý. Thiền sư luôn
chánh niệm từng bước chân và hơi thở, nhưng quá khứ, đạo hạnh và tình tự
dân tộc vẫn theo hơi thở của thiền sư đi suốt cuộc đời, giờ đây, pháp tử
pháp tôn, ngoài việc truyền thừa pháp môn, còn được trao lại bao kỷ niệm
một thời làm điệu của thiền sư! Vì hôm nay là ngày nghỉ ngơi sau chuyến
từ Nam về Trung, sư ông tận dụng thời giờ để tâm sự với núi đồi
Dương Xuân một thời.
MINH MẪN
24/3/07
|