THỪA
THIÊN - HUẾ | ĐÀ NẲNG | CAM RANH - NHA TRANG |
27/3 Thứ Ba
(9/2 âl) cho đến thứ sáu 30/3
(12/2 âl)
Khóa tu Tăng Ni tại Tổ Đình Từ Hiếu
Từ chiều ngày thứ Ba
27-03-2007 đến ngày
thứ Sáu 30-03-2007
Nổi lòng
của Huế

Đã về đã
tới !
(Trước cổng chùa Từ Hiếu - Huế sáng 23.03.2007) |
Tôi ra Huế được một tuần, tuy không có phương tiện đi lại, không quen
phố phường, nhưng cũng được một số huynh đệ cho đến thăm một vài chùa,
tìm hiểu tình hình sinh hoạt nội bộ, gặp gỡ một số tăng ni cư sĩ trí
thức, nhờ thế mới hiểu được tâm tư nguyện vọng của Phật
Giáo
núi Ngự sông Hương!
Qua bài Oi bức và Hiu quạnh, ta thấy hoạt cảnh của Từ Hiếu trong
những ngày qua. Người trong cuộc cảm thấy buồn và trách sự hửng hờ của
cái nôi Phật
Giáo
Việt
Nam.
Sư Ông đã trên 80, lặn lội từ nửa vòng trái đất để đem hy vọng thổi
luồng gió mới cho đạo Phật mà mấy thập niên qua, Sư Ông luôn ước vọng
Hiện Đại Hoá Phật
Giáo,
Sư Ông đã thành công trên xứ sở công nghiệp. Năm 2005, lần đầu sau 40
năm xa quê, Sư Ông mong được có ngày đặt chân lên đất mẹ, ngày ấy, mãnh
đất Thăng Long được Sư Ông bước đi bằng những cảm xúc bồi hồi của người
con viễn xứ hồi quy, và biết rằng, không phải chiêm bao, không phải là
người tù lưu đày biệt xứ, Sư Ông đã nhìn dân tộc mình, anh em mình bằng
ánh mắt trìu mến thân thương, đã hiểu đất nước mình, thương đất nước
mình! Vì thế , Sư Ông gọi là Xuân đoàn tụ, Xuân bên nhau, ước vọng siết
tay nhau trong ngôi nhà Phật
Giáo
Việt
Nam
đã được đáp lại bằng sự nghinh tiếp của chư tôn đức, nhất là tại Huế,
không phân biệt
Giáo
Hội
(Thống
Nhất
hay Nhà Nước),
tất cả cùng
hoan hỷ chúc mừng Sư Ông, Bố Tát chung lần đầu tiên gần 3 thập niên
không nhìn mặt nhau! Như thế, cho dù hệ phái tông môn nào, ý hệ nào, họ
cũng tôn kính Sư Ông bằng tình đồng đạo và bậc trưởng thượng, một thạch
trụ trong ngôi nhà Phật
Giáo
Việt
Nam
hiện nay.
Thế nhưng tại sao chuyến về lần nầy, Huế mộng mơ mà Huế lại làm ngơ? Đối
với Sư Ông chẳng là gì để phải bận tâm, vì khi lấy Từ Hiếu làm chốn tu
học theo làng Mai, cho dù còn một người chấp nhận ở lại với những điều
kiện tinh chuyên, cũng là tốt. Nhưng chẳng lẻ Sư Ông từ vạn dặm quay về
chỉ để độ một người mà bỏ mọi người?
Có nhiều người, từ Sài
Gòn
cho đến Huế, họ bảo
: “Pháp tu của Sư Ông không thích hợp tại Việt
Nam”;
tám vạn bốn ngàn pháp môn, ai thích pháp nào theo pháp ấy đâu nhất cứ
phải pháp của Sư Ông, thật ra cũng rất nhiều người tại Việt
Nam
đã tìm thấy an lạc trong pháp của Sư Ông. Thuở Phật tại thế, không thiếu
chi người chống Phật, bỏ Phật ra đi, vì pháp
Phật
nói không hợp căn cơ họ.
Tinh thần môn phái là tinh thần hẹp lượng, nhưng không vì thế mà người
ta chống đối, quay lưng, bằng cớ họ đã đến với Sư Ông trong buổi đầu. Và
tại Việt
Nam
cũng đã tồn tại nhiều môn phái dị biệt mà có ai chống ai.
Vậy tại sao Sư Ông bị chống đối?
Ngoài cuốn Hiện
Tượng
Nhất
Hạnh
của Quách Thị Song Phu tức Quách Mạc Nhiên, tục gọi là Giản, xuất thân
từ Huế, không ai chống Sư Ông cả, theo tâm sự của một số tu sĩ tại Huế,
họ chỉ buồn Sư Ông, khi Sư Ông nêu lên
: Hiểu và Thương mà Sư Ông không chịu thương và hiểu họ!
-
Vấn đề tông môn, tổ đình
: Huế là mãnh đất đa tình nặng nghĩa, người dân Huế sâu sắc thâm trầm,
khi thương để dạ, khi ghét rát da! Tánh tình người Huế lặng lờ như sông
Hương, tâm hồn thoáng đạt như núi Ngự; điều Huế nghĩ không ai biết, điều
Huế làm chả ai ngờ. Sư Ông xuất thân từ cố đô, tâm tư tình cảm người
đất Thần Kinh Sư Ông đã hiểu, cho dù gần nửa thế kỷ lưu lạc xứ người; vì
thế Sư Ông thể hiện nghĩa tình qua một số trường hợp khá chu tất, ứng xử
khá tinh tường, và nhạy bén trước hiện tượng mà người đương thời không
bắt kịp. Nhưng, một số thầy tại Huế đã nói lên được nguyên nhân nổi buồn
của chư tôn túc hầu hết các tổ đình tồn tại trong cái nôi Phật
Giáo
Việt
Nam
đối với Sư Ông trong chuyến tái lâm. Họ nghĩ
: cho dù Sư Ông là cổ thụ của Phật
Giáo
Việt
Nam,
nhưng nguyên tắc, hiện Sư Ông là khách khi buớc chân về xứ Hò Mái Nhì,
chư tôn túc các tổ đình vẫn là thổ địa sở tại, đáng ra Sư Ông phải ngỏ
lời mời các ngài quang lâm Từ Hiếu để vấn an trong tình huynh đệ; cùng
nhau bàn bạc những Phật sự trong thời gian Sư Ông lưu trú. Thuợng
toạ
Giác Quang, phó Ban
Trị
Sự
Phật
Giáo
Thừa
Thiên-Huế
ra đón Sư Ông mà thay vì phải là vị chánh và toàn Ban
Trị
Sự
cùng các khuôn hội, thành hội. Về lễ tân, như thế vẫn chưa đúng với tầm
vóc đón đoàn quốc tế, chưa nói đến tình thầy trò mà đạo nghĩa nhà Phật
quá thâm sâu, đủ cho thấy thái độ phản ứng ngầm của một dân tộc mọi thứ
buồn vui ít khi biểu lộ. Phía tăng thân thì nghĩ khác
: Sư Ông là khách, làm sao khách lại mời chủ, lỡ mời không ai đến thì ăn
nói làm sao với cái thể diện quốc tế đó! vả lại mời là do Hòa
thượng
Chí Mậu, trụ trì tổ đình Từ Hiếu chứ Sư Ông lấy tư cách gì mời!
Về lý thì ai cũng phải, nhưng trong đạo không lấy tình mà xử, chỉ dùng
lý giữ kẽ nhau sao, liệu có vướng phải tà kiến để anh em xa cách nhau?
Sư Ông đã dạy, thầy trò, anh em không hóa giải nhau được thì làm sao hoá
giải cho tín đồ! Và Sư Ông cũng dạy, người lớn phải đi trước một bước để
gở những mắc mứu đó.
-
Một số khác, vì ảnh hưởng quyền lợi nên bất mãn, một vị tâm sự
: Tiền viện trợ cho các trường và các cô giáo, với điều kiện họ phải
lên Từ Hiếu để tu tập, nếu không chấp nhận là cắt ngay. Điều nầy chưa
biết thật hư thế nào, đúng mấy mươi phần trăm, nhưng tôi đã biện hộ cho
từ thiện làng Mai
:
Biết đâu đó là thiện ý, vì sợ nhận đồng tiền với tâm niệm đời thường,
không tu tập thì xử dụng thiếu chính đáng mang tội…
Người ta phản bác ý kiến tôi; tôi cũng không tiện gặp các vị có thẩm
quyền làng Mai để hiểu thêm cho chính xác.
-
Những người tu pháp Tịnh Độ, họ nói
: ông bà cha mẹ thầy tổ tôi lưu truyền nhiều đời quen tu Tịnh Độ, giờ
đây khuyến khích thở và cười nghe xa lạ quá, ai mà không thở, ai chẳng
phải cười trước cái ngộ nghĩnh đó.
Nghe đến đây tôi sực nhớ một tờ báo tại
Sài Gòn
nói biếm pháp thoại Sư Ông tại khu du lịch Văn Thánh dành cho doanh
nghiệp
: không thở có mà chết à, làm ăn giao dịch mà cái mặt chầm dầm ai
thèm ký hợp đồing…
Thở và cười hay mọi hành trạng trong cuộc sống, Sư Ông muốn chúng ta trở
về chánh niệm trong từng động thái đó.
Nhưng họ vẫn không đồng ý, họ nói
: các pháp tu khác không có chánh niệm à?
Nhưng thưa quý ngài, chúng ta đã đi quá xa chánh pháp suốt nhiều thế kỷ,
cha ông thầy tổ chúng ta cũng không nắm bắt được pháp hành hiệu quả đã
biến nhiều thế hệ tu sĩ thành những nạn nhân của nghiệp vụ tôn giáo,
vắng mặt sự an lạc hiện tiền, không có một thiền sư đúng nghĩa, Sư Ông
khôi phục lại con đường khởi nguyên từ An Ban Thủ Ý có gì xa lạ đâu!
họ vẫn lắc đầu quầy quậy.
-
Một số khác cố chấp vào hạ lạp, cho rằng sư cô Chân Không mới tu, làm
sao những sư bà năm bảy chục tuổi hạ phải tuân thủ sư cô! Thật ra là sự
tôn trọng nhau, có ai bắt ai tuân thủ đâu. Những sư bà không thể hoà
nhập được lối sinh hoạt tươi trẻ của làng Mai, họ không đứng ra ca hát,
không quen sinh hoạt từng nhóm mệnh danh gia đình Mít, Xoài, Ớt,
Ổi…
Họ ăn có nơi, chơi có chỗ, không thể bưng bát đến lấy cơm như một
selfservice, rồi ngồi ngoài trời thoải mái thong dong, vì họ từng được
đệ tử cung phụng hầu hạ theo giai cấp phong kiến mà truyền thống thiền
môn nhiều đời đã un đúc thứ lớp trật tự.
-
Những người khác họ không chấp nhận thái độ độc đoán, kẻ cả của sư cô
Chân Không, dù họ là tu sĩ thất học, nhưng họ không cho biết cụ thể thế
nào là độc đoán, kẻ cả, có lẽ họ nói theo cảm tính và mặc cảm, phần lớn
tu sĩ làng Mai rất khiêm hạ! Nếu thật sự sư cô Chân Không có những đức
tính đó cũng dể hiểu, vì phong cách làm việc tháo vác, quán xuỵến mọi
thứ cho làng Mai sinh hoạt hiệu quả, đều do cô Chân Không, không quyết
đoán làm sao thành tựu! Không phải họ mới chống cô Chân Không lần nầy,
mà 2005 cũng đã có, do hiểu lầm nào đó mà họ bảo sư cô thao túng và nắm
quyền Sư Ông! Một số nghe không rõ khi sư cô trả lời phỏng vấn của đài
nước ngoài.
-
Tại Sài
Gòn,
chuyến về trước của Sư Ông tại chùa Hoằng Pháp, nhiều người phản ảnh về
việc quy y cho những người mà họ đã quy y, đã có sư phụ!
-
Một ít tăng ni trẻ, họ ra đời sau chiến tranh, uy tín Sư Ông chỉ qua
sách vở, họ chưa cảm nhận mối huyết thống tâm linh mà chư tôn đức hiện
diện tại các tổ đình có sự ràng buộc, vì thế, khi Sư Ông trở về lấy tổ
đình Từ Hiếu làm đạo tràng tu tập theo pháp làng Mai, một số tăng sĩ trẻ
chưa hội nhập và chưa cảm thông được
Hiện Pháp Lạc Trú đó, họ ra khỏi Từ Hiếu, nơi gắn bó quá trình tu tập từ
bé, bằng sự đau buồn mà không có sự chia xẻ cảm thông để hiểu và thương!
Và mới hôm qua đây thôi, chùa Diệu Nghiêm trước Từ Hiếu, làm lễ bàn giao
lại cho Từ Hiếu, vốn cũng là của Từ Hiếu, do sư bà Diệu Trí trụ trì,
chưa họp chúng đả thông tư tưởng, tạo sự ngỡ ngàng cho một số ni trẻ,
các ni hỏi: Thầy giao chùa rồi chúng con ở mô?
Sư
Bà
đáp - thầy đã xin 2 cái phòng ở chùa Diệu Đức cho các con ở.
- còn mấy em con đi học xa khi họ nghe như vậy làm sao họ biết mô mà về!
Quý cô như bầy gà con mất mẹ, vì chưa giáp mặt cuộc đời, chưa đối diện
với những khó khăn, quý cô còn rất trẻ, rất nhỏ, như những tiểu thư
luôn được sự bảo bọc của mẹ cha, thế là quý cô quyết định ra góc vườn
che chòi tá túc!
Đó là những khó khăn vụn vặt thuộc tâm lý mà không tế nhị sẽ dẫn đến
những bất mãn, và lây lan khá nhanh. Chưa nói đến những đồn đại mà kẻ
nhẹ dạ cả tin đã không có mặt đông đủ như chuyến về lần trước của Sư Ông
và tăng thân làng Mai.
-
Một số khác vì quan điểm chính trị, nghĩ rằng Sư Ông về để trang điểm
cho chế độ, nghĩa là dìm những kẻ chống đối Cọng
Sản,
giải tán
Tăng
Đoàn,
phá hoại cơ sở Giáo
Hội
Thống
Nhất.
Lấy tâm nhỏ hẹp và phẩn hận của chính trị làm sao hiểu được đại hạnh của
người từng làm việc lớn như Sư Ông.
-
Cũng không loại trừ những vị chưa làm gì cho Phật
Giáo
ra hồn, sanh tâm đố kỵ và sợ uy tín của Sư Ông làm hại quyền lợi của họ,
địa vị của họ, nên ngấm ngầm yểm trợ cho kẻ chống đối.
-
Có tăng trẻ tự hỏi: Bồi đắp gốc rễ, khai thông suối nguồn, Gốc rể
nào, nếu gốc rễ là một truyền thống thì truyền thống Phật
Giáo
Việt
Nam
không thể như thế. Khai thông suối nguồn thì suối nguồn nào bị bế tắt mà
khai thông, nếu khai thông tại sao Sư Ông không chủ động hạ mình giao
tiếp đả thông tư tưởng với tăng ni quần chúng Huế, nhất là chư tôn túc
hiện tại để bắt họ phải tự động tới quỳ bên chân Người?
với tinh thần câu móc như thế, tôi đành im lặng.
Tóm lại, Huế đã dành cho Sư Ông một cảm tình sâu đậm, đã hãnh diện có
một nhân tài từ đất mẹ mà ra, nhưng vì chưa hiểu nhau, đã mặc cảm cho
nhau, buồn tủi nuôi trong lòng, không có cơ hội giải kết, cái im lặng
đáng sợ đó tạo thành bức màn ngăn cách, cho dù mỏng như sương khuya trên
sông Hương, cũng đủ thấm lạnh tình người.
Trong khóa tu Từ Hiếu, tuy phần lớn Phật
Giáo
Huế ngoảnh mặt, nhưng Kito giáo Thừa Thiên lại đến với
Ngài
bởi hai thầy dòng Đan Viện Thiên An, họ chăm chú học tập và phát biểu,
pháp tu nầy không khác gì tôn giáo họ, họ đến học để về bổ sung cho
những khiếm khuyết của giáo lý Thần học như họ nói.
Suốt cuộc đời của Sư Ông luôn bị nội bộ Phật
Giáo
chống đối, trong quá khứ cũng như hiện tại, phải chăng một thiền sư nổi
trội nhờ sự chống đối? Ngài vẫn im lặng mà tiến, bát phong xuy bất động,
ngoãnh mặt mà đi thì có gì để nói, nhưng với tâm từ của một Bồ Tát Qúan
Thế Âm,
Ngài
lắng nghe sự chống báng, bất mãn, biết nguyên nhân của sự thể để dang
đôi tay siết chặt cãm thông như
Ngài
từng nói, nhìn, lắng nghe để hiểu và thương thì bài tán Quán Thế Âm và
Nhành Dương Liễu sẽ xoá tan bầu không khí u ám hiện nay. Phật
Giáo
Huế đang chờ Ngài mở lời, vì sự im lặng chỉ là chờ đợi một sự quan tâm,
không khó khăn lắm đâu để cùng hát
:
Dear friends, dear friends,, let me tell you how I feel, you have given
me such treasures, I love you so!
Nếu những suy tư trên của Phật
Giáo
Thừa
Thiên-Huế
có thật, là một tà kiến như quan điểm của
Sư
Ông,
thì cần một đả thông trí tuệ của Sư Ông, bởi vì tấm lòng Hiểu và Thương
chưa đủ thẩm thấu làm mềm nhủn mãnh đất khô khốc đó. Những tà kiến khô
khốc đó đang bị đóng băng, lan nhanh như một hội chứng trầm cảm biểu lộ
một thái độ thụ động, bất hợp tác. Chúng ta buồn và trách cứ Huế lạnh
lùng, nhưng ta chưa hoà nhập vào sự lạnh lùng đó để biết lý do nào Huế
đã làm ngơ…
vì chúng ta chỉ biết trách cứ mà chưa biết cảm thông.
Hoàng hôn xứ Huế, phủ lớp sương mờ cho giòng sông Hương thêm huyền ảo,
che bớt nét uy hùng của dãy Trường sơn; hàm tàng nét quyến rũ đa tình
lãng mạn của đất cố đô, nhưng không dấu được sự thủy chung và buồn tủi
từ những mái cong cổ tự mà hàng Thích tử phải góp phần trùng hưng Phật
Pháp.
MINH MẪN
30/3/07
|