.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)


TRANG NHÀ LÀNG MAI

THEO DẤU THIỀN SƯ III

CẬP NHẬT TRUYỀN THÔNG CHUYẾN HÀNH HÓA CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ TĂNG THÂN ĐẠO TRÀNG MAI THÔN TẠI VIỆT NAM - HONG KONG & THÁI LAN TỪ 20 THÁNG 2 ĐẾN 1 THÁNG 6 NĂM 2007
 

TIME MAGAZINE NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 

 THỪA THIÊN - HUẾ  |  ĐÀ NẲNG |  CAM RANH - NHA TRANG

27/3 Thứ Ba (9/2 âl) cho đến thứ sáu 30/3 (12/2 âl)
Khóa tu Tăng Ni tại Tổ Đình Từ Hiếu
Từ chiều ngày thứ Ba 27-03-2007 đến ngày thứ Sáu 30-03-2007

 


Nổi lòng của Huế

 

  • 30.03.2007 - Minh Mẫn - Phù Sa (PSN)

Đã về đã tới !
(Trước cổng chùa Từ Hiếu - Huế sáng 23.03.2007)

Tôi ra Huế được một tuần, tuy không có phương tiện đi lại, không quen phố phường, nhưng cũng được một số huynh đệ cho đến thăm một vài chùa, tìm hiểu tình hình sinh hoạt nội bộ, gặp gỡ một số tăng ni cư sĩ trí thức, nhờ thế mới hiểu được tâm tư nguyện vọng của Phật Giáo núi Ngự sông Hương!

Qua bài Oi bức và Hiu quạnh, ta thấy hoạt cảnh của Từ Hiếu trong những ngày qua. Người trong cuộc cảm thấy buồn và trách sự hửng hờ của cái nôi Phật Giáo Việt Nam. Sư Ông đã trên 80, lặn lội từ nửa vòng trái đất để đem hy vọng thổi luồng gió mới cho đạo Phật mà mấy thập niên qua, Sư Ông luôn ước vọng Hiện Đại Hoá Phật Giáo, Sư Ông đã thành công trên xứ sở công nghiệp. Năm 2005, lần đầu sau 40 năm xa quê, Sư Ông mong được có ngày đặt chân lên đất mẹ, ngày ấy, mãnh đất Thăng Long được Sư Ông bước đi bằng những cảm xúc bồi hồi của người con viễn xứ hồi quy, và biết rằng, không phải chiêm bao, không phải là người tù lưu đày biệt xứ, Sư Ông đã nhìn dân tộc mình, anh em mình bằng ánh mắt trìu mến thân thương, đã hiểu đất nước mình, thương đất nước mình! Vì thế , Sư Ông gọi là Xuân đoàn tụ, Xuân bên nhau, ước vọng siết tay nhau  trong ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam đã được đáp lại bằng sự nghinh tiếp của chư tôn đức, nhất là tại Huế, không phân biệt Giáo Hội (Thống Nhất hay Nhà Nước), tất cả cùng hoan hỷ chúc mừng Sư Ông, Bố Tát chung lần đầu tiên gần 3 thập niên không nhìn mặt nhau! Như thế, cho dù hệ phái tông môn nào, ý hệ nào, họ cũng tôn kính Sư Ông bằng tình đồng đạo và bậc trưởng thượng, một thạch trụ trong ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam hiện nay.

Thế nhưng tại sao chuyến về lần nầy, Huế mộng mơ mà Huế lại làm ngơ? Đối với Sư Ông chẳng là gì để phải bận tâm, vì khi lấy Từ Hiếu làm chốn tu học theo làng Mai, cho dù còn một người chấp nhận ở lại với những điều kiện tinh chuyên, cũng là tốt. Nhưng chẳng lẻ Sư Ông từ vạn dặm quay về chỉ để độ một người mà bỏ mọi người?

Có nhiều người, từ Sài Gòn cho đến Huế, họ bảo : “Pháp tu của Sư Ông không thích hợp tại Việt Nam”;  tám vạn bốn ngàn pháp môn, ai thích pháp nào theo pháp ấy đâu nhất cứ phải pháp của Sư Ông, thật ra cũng rất nhiều người tại Việt Nam đã tìm thấy an lạc trong pháp của Sư Ông. Thuở Phật tại thế, không thiếu chi người chống Phật, bỏ Phật ra đi, vì pháp Phật nói không hợp căn cơ họ. Tinh thần môn phái là tinh thần hẹp lượng, nhưng không vì thế mà người ta chống đối, quay lưng, bằng cớ họ đã đến với Sư Ông trong buổi đầu. Và tại Việt Nam cũng đã tồn tại nhiều môn phái dị biệt mà có ai chống ai.

Vậy tại sao Sư Ông bị chống đối?
Ngoài cuốn Hiện Tượng Nhất Hạnh của Quách Thị Song Phu tức Quách Mạc Nhiên, tục gọi là Giản, xuất thân từ Huế, không ai chống Sư Ông cả, theo tâm sự của một số tu sĩ tại Huế, họ chỉ buồn Sư Ông, khi Sư Ông nêu lên : Hiểu và Thương mà Sư Ông không chịu thương và hiểu họ!

- Vấn đề tông môn, tổ đình : Huế là mãnh đất đa tình nặng nghĩa, người dân Huế sâu sắc thâm trầm, khi thương để dạ, khi ghét rát da! Tánh tình người Huế lặng lờ như sông Hương, tâm hồn thoáng đạt như núi Ngự; điều Huế nghĩ không ai biết, điều Huế làm chả ai ngờ. Sư Ông xuất thân từ cố đô, tâm tư tình  cảm người đất Thần Kinh Sư Ông đã hiểu, cho dù gần nửa thế kỷ lưu lạc xứ người; vì thế Sư Ông thể hiện nghĩa tình qua một số trường hợp khá chu tất, ứng xử khá tinh tường, và nhạy bén trước hiện tượng mà người đương thời không bắt kịp. Nhưng, một số thầy tại Huế đã nói lên được nguyên nhân nổi buồn của chư tôn túc hầu hết các tổ đình tồn tại trong cái nôi Phật Giáo Việt Nam đối với Sư Ông trong chuyến tái lâm. Họ nghĩ : cho dù Sư Ông là cổ thụ của Phật Giáo Việt Nam, nhưng nguyên tắc, hiện Sư Ông là khách khi buớc chân về xứ Hò Mái Nhì, chư tôn túc các tổ đình vẫn là thổ địa sở tại, đáng ra Sư Ông phải ngỏ lời mời các ngài quang lâm Từ Hiếu để vấn an trong tình huynh đệ; cùng nhau bàn bạc những Phật sự trong thời gian Sư Ông lưu trú. Thuợng toạ Giác Quang, phó Ban Trị S Phật Giáo Thừa Thiên-Huế  ra đón Sư Ông mà thay vì phải là vị chánh và toàn Ban Trị S cùng các khuôn hội, thành hội. Về lễ tân, như thế vẫn chưa đúng với tầm vóc đón đoàn quốc tế, chưa nói đến tình thầy trò mà đạo nghĩa nhà Phật quá thâm sâu, đủ cho thấy thái độ phản ứng ngầm của một dân tộc mọi thứ buồn vui ít khi biểu lộ. Phía tăng thân thì nghĩ khác : Sư Ông là khách, làm sao khách lại mời chủ, lỡ mời không ai đến thì ăn nói làm sao với cái thể diện quốc tế đó! vả lại mời là do Hòa thượng Chí Mậu, trụ trì tổ đình Từ Hiếu chứ Sư Ông lấy tư cách gì mời!

Về lý thì ai cũng phải, nhưng trong đạo không lấy tình mà xử, chỉ dùng lý giữ kẽ nhau sao, liệu có vướng phải tà kiến để anh em xa cách nhau? Sư Ông đã dạy, thầy trò, anh em không hóa giải nhau được thì làm sao hoá giải cho tín đồ! Và Sư Ông cũng dạy, người lớn phải đi trước một bước để gở những mắc mứu đó.

- Một số khác, vì ảnh hưởng quyền lợi nên bất mãn, một vị tâm sự : Tiền viện trợ cho các trường  và các cô giáo, với điều kiện họ phải lên Từ Hiếu để tu tập, nếu không chấp nhận là cắt ngay. Điều nầy  chưa biết thật hư thế nào, đúng mấy mươi phần trăm, nhưng tôi đã biện hộ cho từ thiện làng Mai : Biết đâu đó là thiện ý, vì sợ nhận đồng tiền với tâm niệm đời thường, không tu tập thì xử dụng thiếu chính đáng mang tội… Người ta phản bác ý kiến tôi; tôi cũng không tiện gặp các vị có thẩm quyền làng Mai để hiểu thêm cho chính xác.

- Những người tu pháp Tịnh Độ, họ nói : ông bà cha mẹ thầy tổ tôi lưu truyền nhiều đời quen tu Tịnh Độ, giờ đây khuyến khích thở và cười nghe xa lạ quá, ai mà không thở, ai chẳng phải cười trước cái ngộ nghĩnh đó.

Nghe đến đây tôi sực nhớ một tờ báo tại Sài Gòn nói biếm pháp thoại Sư Ông tại khu du lịch Văn Thánh dành cho doanh nghiệp : không thở có mà chết à, làm ăn giao dịch mà cái mặt chầm dầm ai thèm ký hợp đồing…

Comment transformer les peurs
Conférence à la Mutualité (Paris) Dimanche 22 0ctobre 2006

Thở và cười hay mọi hành trạng trong cuộc sống, Sư Ông muốn chúng ta trở về chánh niệm trong từng động thái đó. Nhưng họ vẫn không đồng ý, họ nói : các pháp tu khác không có chánh niệm à?

Nhưng thưa quý ngài, chúng ta đã đi quá xa chánh pháp suốt nhiều thế kỷ, cha ông thầy tổ chúng ta cũng không nắm bắt được pháp hành hiệu quả đã biến nhiều thế hệ tu sĩ thành những nạn nhân của nghiệp vụ tôn giáo, vắng mặt sự an lạc hiện tiền, không có một thiền sư đúng nghĩa, Sư Ông khôi phục lại con đường khởi nguyên từ An Ban Thủ Ý có gì xa lạ đâu!  họ vẫn lắc đầu quầy quậy.

- Một số khác cố chấp vào hạ lạp, cho rằng sư cô Chân Không mới tu, làm sao những sư bà năm bảy chục tuổi hạ phải tuân thủ sư cô! Thật ra là sự tôn trọng nhau, có ai bắt ai tuân thủ đâu. Những sư bà không thể hoà nhập được lối sinh hoạt tươi trẻ của làng Mai, họ không đứng ra ca hát, không quen sinh hoạt từng nhóm mệnh danh gia đình Mít, Xoài, Ớt, Ổi… Họ ăn có nơi, chơi có chỗ, không thể bưng bát đến lấy cơm như một selfservice, rồi ngồi ngoài trời thoải mái thong dong, vì họ từng được đệ tử cung phụng hầu hạ theo giai cấp phong kiến mà truyền thống thiền môn nhiều đời đã un đúc thứ lớp trật tự.

- Những người khác họ không chấp nhận thái độ độc đoán, kẻ cả của sư cô Chân Không, dù họ là tu sĩ thất học, nhưng họ không cho biết cụ thể thế nào là độc đoán, kẻ cả, có lẽ họ nói theo cảm tính và mặc cảm, phần lớn tu sĩ làng Mai rất khiêm hạ! Nếu thật sự sư cô Chân Không có những đức tính đó cũng dể hiểu, vì phong cách làm việc tháo vác, quán xuỵến mọi thứ cho làng Mai sinh hoạt hiệu quả, đều do cô Chân Không, không quyết đoán làm sao thành tựu! Không phải họ mới chống cô Chân Không lần nầy, mà 2005 cũng đã có, do hiểu lầm nào đó mà họ bảo sư cô thao túng và nắm quyền Sư Ông! Một số nghe không rõ khi  sư cô trả lời phỏng vấn của đài nước ngoài.

- Tại Sài Gòn, chuyến về trước của Sư Ông tại chùa Hoằng Pháp, nhiều người phản ảnh về việc quy y cho những người mà họ đã quy y, đã có sư phụ!

- Một ít tăng ni trẻ, họ ra đời sau chiến tranh, uy tín Sư Ông chỉ qua sách vở, họ chưa cảm nhận mối huyết thống tâm linh mà chư tôn đức hiện diện tại các tổ đình có sự ràng buộc, vì thế, khi Sư Ông trở về lấy tổ đình Từ Hiếu làm đạo tràng tu tập theo pháp làng Mai, một số tăng sĩ trẻ chưa hội nhập và chưa cảm thông được Hiện Pháp Lạc Trú đó, họ ra khỏi Từ Hiếu, nơi gắn bó quá trình tu tập từ bé, bằng sự đau buồn mà không có sự chia xẻ cảm thông để hiểu và thương! Và mới hôm qua đây thôi, chùa Diệu Nghiêm trước Từ Hiếu, làm lễ bàn giao lại cho Từ Hiếu, vốn cũng là của Từ Hiếu, do sư bà Diệu Trí trụ trì, chưa họp chúng đả thông tư tưởng, tạo sự ngỡ ngàng cho một số ni trẻ, các ni hỏi: Thầy giao chùa rồi chúng con ở mô? Sư Bà đáp - thầy đã xin 2 cái phòng ở chùa Diệu Đức cho các con ở. - còn mấy em con đi học xa khi họ nghe như vậy làm sao họ biết mô mà về!

Quý cô như bầy gà con  mất mẹ, vì chưa giáp mặt cuộc đời, chưa đối diện với những khó khăn, quý cô còn rất trẻ, rất nhỏ, như những tiểu  thư luôn được sự bảo bọc của  mẹ cha, thế là quý cô quyết định ra góc vườn che chòi tá túc!

Đó là những khó khăn vụn vặt thuộc tâm lý mà không tế nhị sẽ dẫn đến những bất mãn, và lây lan khá nhanh. Chưa nói đến những đồn đại mà kẻ nhẹ dạ cả tin đã không có mặt đông đủ như chuyến về lần trước của Sư Ông và tăng thân làng Mai.

- Một số khác vì quan điểm chính trị, nghĩ rằng Sư Ông về để trang điểm cho chế độ, nghĩa là dìm những kẻ chống đối Cọng Sản, giải tán Tăng Đoàn, phá hoại cơ sở Giáo Hội Thống Nhất. Lấy tâm nhỏ hẹp và phẩn hận của chính trị làm sao hiểu được đại hạnh của người từng làm việc lớn như Sư Ông.

- Cũng không loại trừ những vị chưa làm gì cho Phật Giáo ra hồn, sanh tâm đố kỵ và sợ uy tín của Sư Ông làm hại quyền lợi của họ, địa vị của họ, nên ngấm ngầm yểm trợ cho kẻ chống đối.

- Có tăng trẻ tự hỏi: Bồi đắp gốc rễ, khai thông suối nguồn, Gốc rể nào, nếu gốc rễ là một truyền thống thì truyền thống Phật Giáo Việt Nam không thể như thế. Khai thông suối nguồn thì suối nguồn nào bị bế tắt mà khai thông, nếu khai thông tại sao Sư Ông không chủ động hạ mình giao tiếp đả thông tư tưởng với tăng ni quần chúng Huế, nhất là chư tôn túc hiện tại để bắt họ phải tự động tới quỳ bên chân Người?  với tinh thần câu móc như thế, tôi đành im lặng.

 

Tóm lại, Huế  đã dành cho Sư Ông một cảm tình sâu đậm, đã hãnh diện có một nhân tài từ đất mẹ mà ra, nhưng vì chưa hiểu nhau, đã mặc cảm cho nhau, buồn tủi nuôi trong lòng, không có cơ hội giải kết, cái im lặng đáng sợ đó tạo thành bức màn ngăn cách, cho dù mỏng như sương khuya trên sông Hương, cũng đủ thấm lạnh tình người.

Trong khóa tu Từ Hiếu, tuy phần lớn Phật Giáo Huế ngoảnh mặt, nhưng Kito giáo Thừa Thiên lại đến với Ngài bởi hai thầy dòng Đan Viện Thiên An, họ chăm chú học tập và phát biểu, pháp tu nầy không khác gì tôn giáo họ, họ đến học để về bổ sung cho những khiếm khuyết của giáo lý Thần học như họ nói.

Suốt cuộc đời của Sư Ông luôn bị nội bộ Phật Giáo chống đối, trong quá khứ cũng như hiện tại, phải chăng một thiền sư nổi trội nhờ sự chống đối? Ngài vẫn im lặng mà tiến, bát phong xuy bất động, ngoãnh mặt mà đi thì có gì để nói, nhưng với tâm từ của một Bồ Tát Qúan Thế Âm, Ngài lắng nghe sự chống báng, bất mãn, biết nguyên nhân của sự thể để dang đôi tay siết chặt cãm thông như Ngài từng nói, nhìn, lắng nghe để hiểu và thương thì bài tán Quán Thế Âm và Nhành Dương Liễu sẽ xoá tan bầu không khí u ám hiện nay. Phật Giáo Huế đang chờ Ngài mở lời, vì sự im lặng chỉ là chờ đợi một sự quan tâm, không khó khăn lắm đâu để cùng hát : Dear friends, dear friends,, let me tell you how I feel, you have given me such treasures, I love you so!

Nếu những suy tư trên của Phật Giáo Thừa Thiên-Huế có thật, là một tà kiến như quan điểm của Ông, thì cần một đả thông trí tuệ của Sư Ông, bởi vì tấm lòng Hiểu và Thương chưa đủ thẩm thấu làm mềm nhủn mãnh đất khô khốc đó. Những tà kiến khô khốc đó đang bị đóng băng, lan nhanh như một hội chứng trầm cảm biểu lộ một thái độ thụ động, bất hợp tác. Chúng ta buồn và trách cứ Huế lạnh lùng, nhưng ta chưa hoà nhập vào sự lạnh lùng đó để biết lý do nào Huế đã làm ngơ… vì chúng ta chỉ biết trách cứ mà chưa biết cảm thông.

 

Hoàng hôn xứ Huế, phủ lớp sương mờ cho giòng sông Hương thêm huyền ảo, che bớt nét uy hùng của dãy Trường sơn; hàm tàng nét quyến rũ đa tình lãng mạn  của đất cố đô, nhưng không dấu được sự thủy chung và buồn tủi từ những mái cong cổ tự mà hàng Thích tử phải góp phần trùng hưng Phật Pháp.

 

MINH MẪN
30/3/07

 SÀI GÒN  |  LÂM ĐỒNG  |  BÀ RỊA - VŨNG TÀU

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.