THỪA
THIÊN - HUẾ | ĐÀ NẲNG | CAM RANH - NHA TRANG |
2/4
Thứ Hai
(15/2 âl) cho đến thứ Tư
4/4
(17/2 âl)
Đại Trai Đàn Chẩn Tế tại Chùa Diệu Đế
Pháp thoại vào lúc 18:30 mỗi ngày.
Phát quà và học bổng ngày cuối trai
đàn 4/4/2007
Thủy Lục Giải Oan Bình
Đẳng Cứu Bạt Trai Đàn
水 陸 解 冤 平 等 救 拔 齋 壇
--------------------
Đôi nẽo
tình người
(Ba ngày Đại lễ
Trai đàn Chẩn tế lần thứ hai tại quốc tự Diệu Đế
cố đô Huế từ
Từ thứ Hai 2-04-2007 đến thứ Tư 4-04-2007.)
Sau giờ pháp thoại tại Festival Huế, 7g tối 01/4/07, chùa Diệu Đế như
người trùm chăn ngũ ráng (ngủ nướng),sinh hoạt vắng lặng như sự vắng
lặng của không gian núi Ngự, cái trầm lặng muôn thuở ẩn tàng bầu máu
nóng chưa bộc toạc, những Phật tử có mặt từ ngày đầu khi
Thiền
sư bước chân về quê mẹ nôn nóng lo âu, vì Đại Đàn Vĩnh Nghiêm Sài
Gòn
đã biểu hiện sinh khí
ngày
lễ hơn nửa tháng trước; còn nơi đây, không tới 10 giờ đồng hồ nữa là
Diệu Đế nhập đàn, thế mà…
Đồng hồ điểm 10 giờ tối, Hiòa
Thượng
Chí Mậu từ Diệu Đế điện về huy động anh em cư sĩ lẫn chúng thuờng trụ
tập trung gấp về làm vệ sinh mặt bằng, trang trí, thiết kế đại Đàn.
Trong đêm đó, những chuẩn bị các bàn thờ nội ngoại đàn, ảnh tượng Địa
Tạng, Tiêu Diện Đại Sĩ, chư Thánh của Ban
Tổ
Chức
thoáng chốc được thiết lập. 5g sáng ngày 2/04,
ngoài đường dọc bờ sông, cờ xí choáng ngợp
làn
nước sông Hương. Bàn hương án để sẳn nơi mé sông, con thuyền rồng cũng
túc trực trước chùa Diệu Đế. Chiếc xe thỉnh linh cũng sặc sở như xe hoa
Phật đản, bộ mặt Diệu Đế bổng chốc khác hẳn ngày thuờng. Bên trong sân
chùa các rạp che cũng đầy người lai vãng. Khuôn viên chùa như nhỏ lại.
Sinh khí tín ngưỡng náo nhiệt, tràn trề như những ngày hội xa xưa. Danh
sách vong linh tiếp tục nối dài,
36 loại cô hồn đang chờ chư tăng ra tay tế độ.
Gần 7g,
Sư
ông và chư vị tôn đức trong Ban
Trị
Sự
tỉnh hội Phật
Giáo
Thừa
Thiên
-
Huế, tọa chủ các tổ đình
quang lâm. Những Phật tử Âu-Mỹ mặc áo dài lam, tiếp nối Phật tử Huế và Gia
Đình
Phật
Tử
làm hai hàng từ cổng Tam Quang vào Đại Đàn để nghinh đón
Thiền
sư Nhất Hạnh đắp y vàng truyền thống, cầm tích trượng vắt thòng
dải
lụa
màu đỏ thẳm đi sau ban thỉnh lễ và nhạc cổ, nghi lễ thỉnh sư không quy
mô bằng Vĩnh Nghiêm nhưng cũng nói lên được sự trang trọng; chư tôn đức
cũng tháp tùng
vào bái Phật. Thượng
tọa
đệ nhị sám chủ đại Đàn Thích
Thanh Liên xướng tụng cáo bạch Tam Bảo, cung thỉnh đức Quán Thế Âm quang
giám đạo tràng; đoàn trở ra lên xe về hướng bãi Dâu, ngã ba Sình, cách
Diệu Đế 3km hướng Đông Bắc Thành
phố
Huế. Nơi đây, vùng ngoại ô hoang vắng dân cư, một nhánh của sông lớn.
Cây phang cao 7m treo phất phơ tấm vải trắng được bốn thành viên Tiếp
hiện giữ thẳng đứng. Một bàn linh nằm trên vũng nước ngập, nghi ngút
khói nhang và hoa quả; ngoài sông, chiếc xuồng nhỏ đưa một
Phật
tử ra giữa giòng phóng sinh thủy loại, đồng thời một thau nước sạch múc
đem vào đặt ngay dưới chân cây phang. Thượng
tọa
đệ nhị chủ sám cùng
Sư
ông niêm hương nhập lễ, chư tăng ni và
Phật
tử hiện diện hòa nhập tán tụng.
Nhạc lễ, trống đờn cũng hòa âm theo nghi thức Huế. Cũng như ở Vinh
Nghiêm và Đại Tòng Lâm, nghi lễ rất ư long trọng. Dưới cái nắng chói
chan đầu giờ trưa, tất cả đều phơi người chịu trận. Gần một tiếng theo
nghi cách thỉnh linh, thầy chủ sám tán rãi hạt nổ thí thực,
Sư
ông và chủ sám vòng ra cây phang nơi mé nước,
Sư
ông cầm tích trượng thỉnh thoảng động thổ biểu hiện uy lệnh, thầy chủ
sám đi vòng quanh cây phang bắt ấn triệu thỉnh chư vong, khom mình
xuống, nhúng tay ấn quyết vớt vong, sau đó cây phang được ngã xuống,
tấm vải trắng với hàng chữ đen ngâm vào nước để tiếp rước thủy linh. 9:30
giờ kết thúc nghi thỉnh,
Sư
ông và đoàn trở lên, tấm phang dài được các
Phật
tử đội trên đầu đưa về xe. 7 chiếc xe ôtô và nhiều chiếc gắn máy hai
bánh nối đuôi hướng về phố thị.. 11giờ, chư tôn đức Ban Kinh sư từ chùa
Thuận Hoá về Khai Đàn. Cung thỉnh Tiêu Diện Đại Sĩ; kế đến là an vị chư
linh.
Đầu giờ
chiều, khoá
lễ cầu nguyện, tiếp theo là Thủy sám do chư tăng Phật tử hiện diện trì
tụng và tiến linh trước pháp thoại vào lúc 17g30.
Ai cũng ngở với sự trầm lặng của ngày Bố tát lúc sáng, đàn chẩn tế ắt
hẳn chỉ là ngày hiệp kỵ tập thể, nhưng suốt ngày đầu, số người có mặt
đã trên ba ngàn. Sau bao năm Phật
Giáo
tỉnh nhà ngủ
yên, giờ có dịp hội tụ, quần chúng nô nức phấn chấn như những năm 1964
-1966.
Ngoài
ra quần chúng có thân nhân uẩn tử, cũng là dịp cầu siêu, mà ưu tiên cho
người quá cố, trang trọng cho giỗ chạp hàng năm vốn là tâm tình của
người dân sông Hương núi Ngự.
20g, mở đầu cho lễ phóng đăng , ban
Kinh
sư
Hộ
đàn trang phục mũ Địa Tạng, ngoại giáp vai ngang như tướng trận xa xưa
có những thẻ tua lòng thòng phía trước, trang phục màu đỏ tươi thật sặc
sở.
Múa
hoa đăng trước khi xuống thuyền. Cuộc phóng hoa đăng cần đến 15 thuyền
đôi và 20 thuyền nhỏ. Thuyền đôi là loại lớn, kết 2 chiếc lại thành một;
đầu 2 thuyền hình rồng, bên trong nội thất trang bị như một nhà ở, vốn
là thuyền du lịch tiếp khách tham quan du ngoạn trên sông để nghe hò
Huế, một dạng văn hoá dân gian của sông Hương. Mùa nắng là mùa kiếm cơm
để những tháng mưa dầm gió bấc, neo thuyền ngồi ngắm phố phường phủ trùm
trắng đục rét lạnh căm người! Mỗi lần xuất bến phải nộp 50 ngàn, chả
biết khách thuê bao nhiêu, nhưng cuộc sống dân du thuyền cũng nhàn nhã
hơn người lao động mua thúng ban bưng trên xứ sở còn nhiều khó khăn
nghèo khổ. Huế còn nghèo lắm, dân còn đói nhiều, và thành phố còn bẩn
chật. Dân mình quần quật suốt năm để khi lụt về đều gửi ra sông ra biển,
từ tài sản đến tánh mạng. Con trẻ vào chùa xin cơm, ông bà cụ là những
cây tre làng khẳng khiu với chiếc nón lá tơi tả chờ đồng cằc bố thí.
Nhưng lạ, khách có thể cúng hàng trăm, hàng vạn vào chùa mà chỉ vài ngàn
có thể tạo một ánh mắt rạng rỡ cho kẻ khốn khó cũng không được. Cuộc
sống luôn có một nghịch lý, từ xã hội đến tôn giáo, khó mà tiến đến thế
giới đại đồng.
Gần
22g
thuyền
rời bến, từ Diệu Đế, lên Gia Hội neo tại bia Quốc Học. Thuyền Kinh sư đi
trước, khi những chiếc cuối cùng đến điểm cũng là lúc
Sư
ông niêm hương chú nguyện, ban
Kinh
sư tán tụng, thùng cá trê con đổ vào sông lạnh, rồi những ngọn nến đặt
trong chiếc hoa giấy cũng nhấp nhô trên sóng nước. Trăng 16 vành vạnh
trên không, mặt sông Hương sẩm màu phản chiếu ánh sáng le lói từ phố
phường hiu hắt. Hàng vạn liên đăng đua nhau xuôi bạt cuối dòng.
Những chiếc đèn cô quạnh lững thửng trôi, vài chiếc kết bè kết bạn bị
cháy khi chưa tròn sứ mạng. Riêng một cặp đèn như 2 em bé mồ côi cặp kè
bên nhau mặc cho sóng nhồi gió đuổi giữa mênh mông mặt nước. Người dân
đứng trên cầu nhìn những đốm sáng phủ tràn mặt sông như các vì tinh tú
ngự trên khoảng không vô tận; mỗi vì tinh tú là một vận mạng con người
thì mỗi ngọn nến lung linh trước gió - nước là một hồn ma bóng quế vất
vưởng cuối bải đầu ghềnh đang được chư
Tăng
lòng từ cứu vớt. Lễ phóng đăng không phải trò giải trí làm đẹp sông đêm,
phí phạm tiền của hay ô nhiểm sinh môi mà một nét văn hoá dân tộc biểu
hiền tình người tìm cách bạt độ sinh linh.
Hơn 23g đoàn thuyền quay về, phố thị đã lặng mình trong giấc mộng, không
gian tĩnh lặng, chỉ riêng những đốm sáng mong manh kia vẫn lặng lờ xuôi
gió giữa bóng đêm bao la hiu quạnh. Có lẽ thiên địa cảm động buổi lễ
siêu độ, không khí oi bức mấy ngày qua, bổng dưng chuyển sang se lạnh và
đến canh ba, từng luồng gió mạnh rít trong không gian như những oan hồn
gọi về thống thiết, mưa bắt đầu rơi!
-oOo-
Ngày thứ hai của Đàn trai, gió lạnh mưa phùn phủ trùm xứ Huế, tạo nên
không gian huyền hoặc, trên các bàn thờ khói nhang không gián đoạn, khoá
tụng Địa Tạng được chư tăng và Phật tử miên trì. Có lẽ do thời tiết nên
lượng người tham dự có giảm hơn ngày đầu, tuy thế, khẩu phần cơm cúng
dường bá tánh vẫn không kịp cung ứng. Cúng Ngọ, tiến linh vẫn là thủ tục
thiền môn thường bữa, hoàn tất lúc 11 giờ để kịp quá đường cho chư tôn
đức. Về chiều, khóa lễ dành cho tăng thân làng Mai cầu nguyện, quần
chúng được phen chứng kiến các thầy các
sư
cô người nước ngoài hành lễ chung với quý thầy Việt
Nam.
Tuy
trời không ngớt mưa bay, buổi pháp thoại vẫn cuốn hút người nghe tìm nơi
trú ẩn.
Buổi lễ siêu linh bạt độ gần 20 giờ bắt đầu đến hơn một giờ sáng hôm sau
mới hoàn tất.
Ban kinh sư chạy đàn kinh hành qua 12 cửa ngục để giải cứu tinh linh.
Tinh thần quần chúng phấn chấn hẳn, vì tin rằng tổ tiên ông bà thân bằng
quyến thuộc của mình được cứu bạt siêu sanh. Không khí Diệu Đế khác hẳn
Vĩnh Nghiêm, tuy tầm vóc không bằng, quần chúng tương đương, nhưng nơi
đây mọi người thân thiện mang tính gia tộc môn phong hơn là khách vãng
lai, tuy nhiên do thứ hệ phân minh mà miền trung, nhất là tại Huế nặng
óc phong kiến, đã trở ngại một số vấn đề đáng ra không cần thiết. Một
Phật tử, chị Hòa, cháu bác Siêu, trong bửa cơm cúng dường chư tăng tại
nhà tâm sự
: Con ước làm sao quý thầy đoàn kết như một. Chị ta và cô em của
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng một vài
Phật
tử có mặt, cũng là những
Phật
tử thuần thành, tuy sống bằng mua thúng bán bưng, từng cúng dường rộng
rãi không tính toán.
Một
thầy hỏi
: Tại sao chị chỉ ước
như thế? chị đáp
:vì con thấy quý thầy chia rẽ đố kỵ, con phát tâm cúng dường đàn trai,
vì xét thấy mọi thứ không tương xứng tầm vóc buổi lễ.
Một
thầy nói, cô cần gì phải cúng, thầy Nhất Hạnh thiếu gì tiền…
chị nói tiếp :
thế là không chịu nhận, con đành mang về!....
Có những buổi gặp gở quần chúng mới thấy được tấm lòng của họ đối với
tín ngưỡng tôn giáo, và dĩ nhiên, những ai chưa thấm đạo hiểu giáo lý,
họ sẽ mất lý tưởng đối với những tu sĩ như thế, bỏ đạo hoặc ngã sang lối
rẽ tâm linh. Cũng trong buổi đàm đạo sau giờ cơm, mọi người được biết
nhạc sĩ Vũ Thành An đã nhập dòng tu Đan viện Thiên An, một con đường lý
tưởng họ đã chọn.
-oOo-
Sáng sớm, mấy anh em trí thức Huế mời tôi đi uống cà phê, một nơi cuối
con kiệt 62 đường Hàn Thuyên; gọi là quán chứ nói cho đúng là một căn
nhà tươm tất, vài ba cái bàn, khách phần lớn là trí thức.
Nơi đây yên tĩnh, bàn ghế đặt nơi hàng ba chật hẹp và ngoài sân; buổi
sáng vẫn mưa bay lất phất, gió lạnh, nhạc Trịnh thoang thoảng vừa đủ
nghe, đưa người vào cõi
thiên thai mộng ảo.Tại Diệu Đế,
Sư
ông mở đầu pháp thoại bằng giọng ngâm bài Đầu Cành Dương Liễu thật phấn
chấn lãnh lót, giọng thanh tao, đầy uy lực, người nghe rúng động.
Tuy nơi nào người cũng thuyết chung một chủ đề: Người thương tôi mất,
tôi biết tìm nơi đâu…
nhưng tại Diệu Đế, ngày cuối, nhiều vấn đề bất ngờ trong nội dung, làm
thính chúng trí thức ngỡ ngàng về lòng nhiệt thành và sự sáng tạo. Ngài
đọc cho đại chúng nghe lá thư gửi cho Thủ Tướng Việt
Nam
đề nghị xây dựng đài tưởng niệm Thuyền nhân tại Vũng Tàu,
một đề nghị sáng tạo đầy tình tự dân tộc và tình người,
có công năng hóa giải mọi oán hờn và ngăn cách.
Một Đại trai đàn chẩn tế không chỉ bạt độ siêu linh mà còn giải quyết
được tình cảm của người sống, xoá tan ranh giới kỳ thị, tạo sự đoàn kết
toàn dân, nếu trai đàn là việc làm mang tính vô hình thì tượng đài là
một tâm lý đoàn kết hữu hình, cụ thể. Vĩnh Nghiêm có sự hả hê của Vĩnh
Nghiêm thì Huế có sự thỏa dạ của Huế qua nội dung pháp thoại và chẩn tế
siêu bạt. Trong những trai đàn vừa qua, không thiếu những tín đồ tôn
giáo bạn tham gia đồng tình.
Sau pháp thoại, đúng ra chấm dứt đại lễ là lời cảm tạ của
Sư
ông đối với sự hợp tác của Ban
Ttrị
Sự
tỉnh hội Thừa
Thiên
-
Huế trong việc chẩn tế nầy, nhưng nếu thế thì quá khuya,
Sư
ông đã ngõ lời cảm tạ sớm hơn,
Sư
ông tặng những bức thư pháp, và những gói quà xinh xắn bọc giấy vàng,
cho ban
Kinh
sư, Ban
Ttrị
Sự
tỉnh hội Phật
Giáo,
nhưng oái oăm thay, Giáo
Hội
cũng tặng lại cho
Sư
ông và tăng đoàn một món quà tưởng chừng không cần thiết cho thiền pháp
: hai xâu chuổi, một lớn một nhỏ. Sư ông tiếp nhận, vui vẻ cầm
xâu chuổi nhỏ đưa lên lần hạt cho mọi người nhìn. Nếu không lầm, Ban
Ttrị
Sự
cũng dâng lên Người một bộ Luật tạng với lời lẽ như là kính cẩn
: Chúng con mong
Thiền
sư dịch bộ luật nầy cho tăng ni chúng con tu học…
vì ai cũng biết rằng từng có sự bất đồng về luật giới của Phật được
Sư
ông xử dụng ngôn từ mới và nhẹ mà người ta cho là chế tác hoặc sửa đổi
lời Phật dạy.
Về chiều, làng Mai đã cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo, và ban
Kinh
sư chính thức đăng đàn chẩn tế. Người tham dự thưa hơn, vì mưa gió,
nhưng không giảm tầm vóc đầy trang trọng, bên trong nhà trù, quý sư cô
không ngớt tay phục vụ cơm bửa, bên ngoài sân, anh em trật tự cũng vất
vả giữ an ninh. Các quán cóc nổi lên ven rào, thợ chụp ảnh trưng bày
sản phẩm mà hình
Sư
ông chiếm phần lớn. Thỉnh thoảng từng cơn gió rít thổi phần phật những
lá cờ ngũ sắc cắm dọc bờ sông. Cảnh sát, công nhân, xe ôm và bà con
Phật
tử xử sự nhau như người cùng một làng, phải chăng đó là đặc tính của
người con xứ lụt hàng năm. Người dân Huế mang đậm tình cảm, đàn ông xứ
Huế tha phương lập nghiệp cũng không xoá được hoài cảm và lưu luyến đồng
hương.
Huế đấy, nghèo, thâm trầm, tình cảm, kín đáo, phong kiến, lãng mạn,
đa tình và có những bất chợt không hề biểu lộ. Chỉ qua một đêm ngỡ chừng
Diệu Đế ngũ quên sứ mạng, nhưng người dân cố đô bổng chốc kinh ngạc nhìn
rừng cờ và đoàn người đổ về trong tinh sương, họ chợt hiểu, ngày bạt độ
mà chưa hề nghe đến. Huế đấy, vẫn kín đáo thâm trầm trong mỗi việc làm.
Ai đoán được những đổi thay nào Huế sẽ trải qua?
MINH MẪN
4/4/07
|