Trong chiếc áo tu sỹ màu nâu, Thiền sư ngồi xếp bằng trong thế hoa
sen trên chiếc tọa cụ cũng màu nâu tại một khách sạn ở khu
Manhattan, trung tâm Nữu Ước. Bên cạnh Thầy là bình trà, cặp kính
và một cuốn sách nhan đề “Mindfulness in the Marketplace” (tạm
dịch là Chánh niệm ở giữa chợ - do Thầy viết). Thiền sư Nhất Hạnh
đã dành cho Tuần báo Time một khoảng thời gian rất ngắn giữa
chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ để nói về vấn đề các tu sỹ ở Miến
Điện mà hiện nay đang rất được quan tâm.
(xem
Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh)
Dài theo dòng lịch sử, ông thầy tu mang tên Nhất Hạnh đã thực sự là
người phát ngôn cho đạo Phật trên toàn thế giới. (“Thích” là họ
của tất cả quí thầy và quí sư cô Việt
Nam mang khi vừa được xuất gia). Lần đầu tiên Thầy được thế giới
biết đến là vào đầu thập niên 60, khi Thầy lãnh đạo giới tu sĩ
Phật giáo trong nước chống lại sự theo đuổi chiến tranh tại Việt
Nam của cả hai phía. Cái giá của sự lựa chọn này là sự hy sinh của
một số đồng bào của Thầy và bản án biệt xứ của chính Thầy. Hoa kỳ
là nơi mà lời kêu gọi của Thầy gây được nhiều ảnh hưởng nhất. Sự
chống đối chiến tranh Việt Nam nơi đây của Thầy đã thuyết phục
được Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đích thân bày tỏ lập
trường chống đối của ông ta về cuộc chiến tại Việt Nam. Và sau đó
Mục Sư King đã đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967. Nhờ
biết nhiều ngôn ngữ, Thầy tiếp tục viết lách và thuyết giảng khắp
nơi bằng nhiều thứ tiếng, khai sinh cho phong trào “đạo Bụt dấn
thân". Thầy tìm ra được những ngôn từ làm thành những mẫu số chung
cho cái thấy về đạo Bụt này của Thầy và những niềm tin khác trên
thế giới. Thầy và hàng chục cuốn sách của Thầy đã dành được nhiều
sự mến mộ của quần chúng Hoa Kỳ, Uy tín của Thầy chỉ đứng thứ hai,
sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy đã nhiều lần bày tỏ thái độ chống đối
của Thầy với nhiều cuộc xung đột trên thế giới trong đó có cả cuộc
can thiệp của Hoa Kỳ vào Iraq. Thầy hiện đang sống với rất nhiều
đệ tử xuất gia và tại gia của Thầy tại một tu viện do chính mình
thành lập ở miền Nam nước Pháp.
Đạo Phật có ba tông phái chính: Nam Tông (Thượng Tọa Bộ), theo sử
học là tông phái đơn giản nhất, đang được thực hành phổ biến tại
Nam Á và cũng là tín ngưỡng của chư Tăng Miến Điện; tông thứ hai,
Bắc Tông, cũng là đạo Bụt Đại Thừa mà truyền thống Thiền của chính
Thầy là một nhánh trong đó; và tông Kim Cang, tông phái của Đức
Đạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên trong cuộc mạn đàm, Thầy nhấn mạnh tới
sự hợp nhất và đoàn kết của cả ba truyền thống trên trong sự ủng
hộ cuộc đấu tranh của người dân Miến Điện. Thầy nói “Quí thầy ở
Miến Điện cũng thực tập Niệm Định Tuệ như chúng tôi”.
Thầy nói phải coi như chư tăng Miến Điện đã "hoàn thành sứ mệnh của
họ rồi. Họ đã thành công bởi vì cho dù đang bị tù đày hay mạng
vong, quí thầy đã cống hiến phần lãnh đạo tâm linh cho toàn dân.
Và bây giờ đây là đến phiên toàn dân Miến Điện và thế giới phải
tiếp tục công tác ấy ." Được hỏi về vấn đề tử đạo, Thầy trả lời:
"Chúng ta nuôi dưỡng sự ý thức lớn rằng hiện đang có những thầy tu
bị hành hạ và tiếp tục chịu khổ để ủng hộ cho nền dân chủ của
người dân Miến Điện"
Có lẽ hành động gây chú ý nhiều nhất của chư tăng Miến Điện trước
khi họ bị bỏ tù là cử chỉ biểu tượng lật úp những chiếc bình bát.
Trong văn hóa Tây phương việc cúng dường thường chỉ giới hạn trong
nhà thờ Ky Tô giáo hay giáo đường Do Thái, vậy nên sự kiện này
(lật úp bình bát - nghĩa là từ chối nhận phẩm vật cúng dường) có
thể coi như lạ lùng. Tuy nhiên thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ rõ đó là
một lời tuyên bố hùng hồn gửi đến các vị lãnh đạo chính phủ về
thái độ chống đối của họ. "Trong văn hóa Phật giáo", Thiền sư giải
thích, "cúng dường phẩm vật cho chư tăng tượng trưng cho sự kiện
được làm một việc thiện, và nếu mình không có cơ hội yểm trở sự tu
tập tâm linh (như cúng dường chư tăng) thì mình bị coi như sống
trong tăm tối". Các vị tu sĩ đã bày tỏ sự lên án bằng hành động
mạnh mẽ nhất: không cho chính quyền cơ hội làm điều thiện. Vai trò
quan trọng của chư tăng Miến Điện còn được tăng thêm qua những báo
cáo rằng có hàng trăm binh sĩ Miến đã bị chính quyền bỏ tù vì từ
chối cầm súng bắn quý thầy.
Ở Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa Phật giáo và công việc xã hội chưa được
mọi người hiểu rõ. Nhiều người Mỹ nhìn Phật giáo như một triết lý
đã coi thế giới này chỉ là một cõi tạm và không quan trọng; ở xứ
này, hình ảnh mà Phật giáo được phổ biến nhiều nhất là pháp môn
cốt lõi của truyền thống Nam Tông với sự tập trung tâm ý qua sự
quán tưởng về Bi, hay là Từ. Thiền sư Nhất Hạnh nói: "Thiền định
là để có tuệ giác, để tăng trưởng sự hiểu biết và lòng từ bi, và
một khi chúng ta đạt được những điều đó, thì chúng ta dĩ nhiên
phải hành động thôi. Sau khi giác ngộ, đức Bụt đã đi vào đời để
giúp người. Thiền định không phải để xa lánh thế tục; thiền định
là nhìn rõ để có được cái tuệ giác cần thiết mà hành động. Nghĩ
rằng thiền là chỉ ngồi đó vui hưởng sự bình an là không đúng".
Sau cuộc phỏng vấn ngắn gọn về Miến Điện, Thầy đã chia sẻ về những
ưu tư đã chiếm trọn tâm trí Thầy buổi chiều hôm đó: Trước tiên,
Thầy nói về vấn đề hâm nóng trái đất và sau đó là về chuyện ăn
chay (ăn vật thực có mức sống thấp). Thầy thuật lại câu chuyện mà
ngày xưa Bụt kể về một cặp vợ chồng phải vượt qua sa mạc với đứa
con nhỏ, và khi hết thức ăn đã buộc lòng phải giết rồi ăn thịt
đứa con mình. Họ mang theo xác đứa bé để ăn từng ngày và rất ân
hận chuyện đã làm. “Sau khi kể câu chuyện cho các đệ tử, Bụt hỏi,
“Cặp vợ chồng kia có sung sướng khi ăn thịt con mình không?” Quý
thầy trả lời “Không, không thể nào”. Bụt nói “Ta phải ăn như thế
nào để còn giữ được lòng từ bi trong tâm hồn”. Bằng không, chúng
ta như đang ăn thịt con cái và các cháu nội ngoại của chúng ta.
(kỹ nghệ chăn nuôi là một trong những nguyên nhân chính của tình
trạng hâm nóng trái đất hiện nay). Thật là một lời nhắc nhở tuy
bình dị mà thật nghiêm minh, khiến ta có cảm tưởng như có một khối
thép đằng sau chiếc áo thầy tu bay nhẹ nhàng, nụ cười hiền lành,
và lối hành xử hòa ái.
Burma’s Monks:
“Already a Success”
The
monk sat cross-legged in the Manhattan hotel room in augbergine
robes on an aubergine prayer mat, a thermos of tea, his reading
glasses and a book, Mindfulness in the Marketplace, arranged
neatly by his side. Thich Nhat Hanh took time out from a U.S. tour
to speak briefly with TIME about the monastic uprising in Burma.
(See video
Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh).
Nhat Hanh has a long history as one of Buddhism's truly
international spokespeople. ["Thich" is a name adopted by all
Vietnamese monks and nuns upon ordination.] He first came to
global attention in the early 1960s, when he led fellow monks in
his native Vietnam to oppose the prosecution of the war there by
either side — a position that eventually led to the deaths of
several of his followers and his own exile. He continued his
opposition from the United States, where his counsel was
influential in convincing the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. to
announce his own opposition to the conflict. King subsequently
nominated Hanh for the Nobel Peace Prize. He continued speaking
and writing (in a variety of languages — he is a polyglot),
working out a theory of "engaged Buddhism," exploring the
commonalities between his philosophy and other world faiths,
attaining a popularity (and book sales) in the U.S. second only to
that of the Dalai Lama, and lending his opposition to a series of
world conflicts, including America's involvement in Iraq. He now
lives in a monastic community he founded in France.
Buddhism has three major branches: Theravada, historically the
simplest, which is now practiced primarily in
South Asia
and is the faith of the Burmese monks; Mahayana, of which Hanh's
own Zen discipline is part; and the Dalai Lama's Tibetan branch,
which is labeled Vajrayana. In conversation, however, Hanh
stressed the unity of the three and their solidarity with the
embattled Burmese. "They also practice mindfulness and
concentration inside like us," he said.
He said the Burmese monks had "done their job. It is already a
success because if monks are imprisoned or have died, they have
offered their spiritual leadership. And it is up to the people in
Burma and the world to continue." Pressed on the question of
martyrdom, he replied: "We nourish the awareness that monks are
being persecuted and continue to suffer in order to support the
people in Burma for the sake of democracy."
Perhaps the most striking gesture made by his Burmese brethren
before they were attacked was the symbolic act of turning their
begging bowls upside down. In a Western culture where almsgiving
happens in the confines of a church or synagogue, this may have
seemed odd. But Nhat Hanh pointed out that it was a powerful
statement of denial to the regime leaders. "In Buddhist culture,"
he explained, "offering food to the monk symbolizes the action of
goodness, and if you have no opportunity to support the practice
of spirituality then you are somehow left in the realm of
darkness." Their supreme act of condemnation: giving the regime no
chance to do good. The importance of monks in
Burma
was also suggested, in a grisly way, by reports that hundreds of
Burmese soldiers had been arrested for refusing to shoot at them.
In the
U.S.,
the connection between Buddhism and social action is not readily
understood. Many Americans perceive Buddhism as a philosophy that
regards this world as transitory and unimportant; in this country,
the most widely disseminated kind of Buddhism is a stripped-down
version of Theravada practice with a strong emphasis on ritual
supplemented by meditations on meta, or loving-kindness. Said Nhat
Hanh: "Meditation is to get insight, to get understanding and
compassion, and when you have them, you are compelled to act. The
Buddha, after enlightenment, went out to help people. Meditation
is not to avoid society; it is to look deep to have the kind of
insight you need to take action. To think that it is just to sit
down and enjoy the calm and peace, is wrong."
After a brisk interview about Burma, Nhat Hanh gave some sense of
the topics that were most on his mind that afternoon: he talked
first about global warming and then about eating low on the food
chain. He told a Buddhist story of a couple who were forced to
cross a desert with their young son and, running out of food,
killed and ate the child, whose diminishing corpse they carried
with them, constantly apologizing to it. "After the Buddha told
that story, he asked the monks, 'Do you think the couple enjoyed
eating the flesh of their own son?'" Nhat Hanh recounted. "The
monks said 'no, impossible.' The Buddha said, let us eat in such a
way that will retain compassion in our heart. Otherwise we will be
eating the flesh of our son and grandson." It was a stark and
stern reminder of the steel beneath the flowing robe, gentle smile
and peaceful demeanor.
|