.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP Thành hộiƯ

                          TRANG CHÍNH

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)


TRANG NHÀ LÀNG MAI

THEO DẤU THIỀN SƯ III

CẬP NHẬT TRUYỀN THÔNG CHUYẾN HÀNH HÓA CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VÀ TĂNG THÂN ĐẠO TRÀNG MAI THÔN TẠI VIỆT NAM - HONG KONG & THÁI LAN TỪ 20 THÁNG 2 ĐẾN 1 THÁNG 6 NĂM 2007
 

TIME MAGAZINE NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nGHiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nGHĩa quốc gia quá khích, chủ nGHĩa phát xít, chủ nGHĩa cộng sản và chủ nGHĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nGHĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nGHĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nGHĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 6. Sau chuyến đi

3.06.2007 Chủ nhựt
Sư ông Làng Mai và Tăng thân đã về tới Pháp
 sau 3 tháng hoằng pháp Đông Nam Á Châu: Việt Nam - Hongkong - Thái Lan
 

Thượng tọa Thích Nhật Từ chia sẻ kết quả chuyến hoằng pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân làng Mai tại Việt Nam

Ph lc: Thư của bà Đoàn Thanh Hương, Phó chủ nhiệm khoa năng lượng sinh học, viện Vật lý Hà Nội gửi thiền sư Thích Nhất Hạnh.

  • PSN 3.06.2007

Sư ông và Tăng thân làng Mai lễ vọng đức Quan Thế Âm bồ tát tại chùa Một Cột - Hà Nội, ngày 4.05.2007

Chơn Thuyên : Kính thưa thầy, Sư ông làng Mai và tăng đoàn đã hoàn tất chuyến về Việt Nam lần thứ hai. Sư ông đã diển thuyết tại rất nhiều chùa viện từ Nam ra Bắc. Và đặc biệt thực hiện ba Đại trai đàn bình đẳng giải oan với tầm vóc quốc gia tại Sài Gòn, Huế và Hà Nội, để cầu siêu cho tất cả nạn nhân của cuộc chiến đã qua tại Việt Nam. Là người đã đóng góp nhiều công sức cho chuyến về của Sư ông lần này và hơn nữa là một giảng sư Phật giáo, thường xuyên tiếp xúc với nhiều tầng lớp quần chúng. Xin Thầy cho biết:            

1. Những cảm nhận của Thầy về chuyến hoằng hóa tại Việt Nam lần thứ hai của Sư ông làng Mai. 2. Hiệu quả thật sự của ba đại trai đàn chẩn tế giải oan?

Thượng tọa Thích Nhật Từ : Chuyến về Việt Nam lần thứ hai này Sư ông và Tăng đoàn đã thực hiện ba đại trai đàn chẩn tế giải oan chính thức tại Sài Gòn, Huế, Hà Nội và một trai đàn phụ tại Bà Rịa - Vũng Tàu dành cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biển năm xưa.

Lần về  thứ hai này đã diễn ra trong bối cảnh khá thuận lợi. Từ hai năm trở lại đây, vấn đề ngoại cảm là một lưu tâm hàng đầu tại Việt Nam. Giới Phật tử thì không ngạc nhiên, nhưng đối với người từ lâu sống với ý tưởng vô thần thì đây là một sự thật lớn lao làm họ phải cải đổi hẳn quan niệm nhân sinh. Chết không phải là hết và trong cõi chết nhất là chết vì oan ức con người vẫn  đau khổ vì oan ức.

Các nhà ngoại cảm đã tìm ra được trên 10.000 trường hợp chết oan trong chiến trận, nơi đồng nội, trên rừng núi, bãi sông, bờ suối. Họ đối thoại được với người đã chết, biết được tên tuổi, sinh quán, chết trong trường hợp nào. Những ghi chép tên tuổi sinh quán có độ chính xác cao, khó có thể hồ nghi được. Những oan hồn uổng tử này đã chết trên dưới bốn chục năm rồi vẫn còn khổ đau oan ức, không có ai lo lắng đoái hoài cho họ. Cho nên việc tổ chức trai đàn giải oan là một đánh động lương tâm của cả dân tộc. Và việc cầu siêu hóa giải oan ức cho những người chết này là cần thiết vô cùng. Chỉ tiếc là các nhà lãnh đạo chưa thấy hết giá trị tâm linh và đạo đức trong văn hóa dân tộc, cũng như tuệ giác của đạo Phật, mà các ngành khoa học hiện đại đã và đang dựa vào nó để mở ra những thế giới mới đầy lý thú, chẳng hạn như việc áp dụng môn Duy thức học của Phật giáo vào khoa tâm lý trị liệu, v.v...  Do đó các vị chưa sẳng sàng bước lên trên con đường hóa giải mang tính trị liệu này.

Việc  khó làm nhưng phải làm, để cho vết thương của dân tộc được chữa lành, để cõi âm được siêu thì cõi dương (tức lòng người) mới được thới (Lời của những người đang sống, nói với những người đã chết). Và từ đây dân tộc sẽ được lành mạnh mà bước về tương lai.

 

Về câu hỏi thứ hai, hiệu quả thật sự của ba đại trai đàn chẩn tế giải oan.

Năm 2005 lần về thứ nhất, qua các bài giảng Sư ông đã gieo hạt, thời gian hai năm đã tưới tẫm những hạt giống nảy mầm.

Lần về này, nổi bật là phương pháp hành trì, Sư ông đã dùng kinh Quán Niệm hơi thở, một kinh hành trì căn bản của tăng đoàn thời Phật tại thế. Sư ông dùng kinh này làm nền cho rất nhiều  bài giảng.

Thính chúng từ Nam Trung Bắc đã được Sư ông hướng dẫn thực tập trực tiếp. Cách giảng dạy của Sư ông vừa rõ rệt, vừa đơn giản vừa chính xác với một định lực tuyệt hảo của người đã hành trì thành công. Chỉ trong một thời thực tập nghiêm chỉnh, thính chúng đã nếm được thế nào là pháp lạc, thế nào là định, thế nào là tuệ. Càng thực tập với Sư ông càng như thấy khai thông, vén được mây mù ở lòng mình.

Chủ đề Ngồi Giữa Gió Xuân rất hay, gió xuân cũng có thể là tám thứ gió làm mê hoặc con người (Bát phong). Nhưng với định và tuệ vững vàng thì tám thứ gió độc đã trở thành gió mùa xuân mát mẽ của cực lạc hiện tiền. Sư ông không những giải oan cho người sống mà còn mở cả nút thắc căn bản vô minh của kiếp người. Cho nên những chống phá đầy chất sân hận và u tối ở Sài Gòn, ở Huế đã bị phản ứng ngược.

Thật ra từ lúc chuẩn bị chuyến đi cho đến khi ba trai đàn hoàn tất, tăng đoàn làng Mai đã phải vượt qua nhiều bế tắc khó khăn. Ông Vụ trưởng vụ Tôn Giáo Bùi Hữu Dược đã nói:

1. Không thể có bình đẳng đối với vong linh lính tráng chết trận của đế quốc Pháp Mỹ, họ đáng bị trừng trị. 2. Nghĩa sĩ hy sinh cho đất nước đã chết trong vinh quang chứ không oan ức.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã yêu cầu làng Mai rút bỏ từ giải oan trong cụm từ “Đại trai đàn bình đẳng giải oan”.

Tại ba đàn tràng Sài Gòn, Huế và Sóc Sơn Hà Nội, số lượng người tham dự rất đông, vượt ngoài mọi dự đoán. Có nhiều người đến từ rất xa với lòng dạ chí thành xin ghi tên cho thân nhân của mình đã chết oan khuất từ lâu, được nương nhờ cửa Phật mà siêu sanh hóa kiếp.

Nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, nhờ niệm lực hùng hậu của Tăng bảo và lòng người khẩn thiết, lời khấn nguyện của vị sám chủ  đại trai đàn đã vang động hư không, đi vào lòng người, thông suốt cả cỏi âm. Đất trời đã cảm ứng hiển linh.  Sau mỗi đại trai đàn là mưa lớn, mát cả không gian trời đất. Giọt nước từ bi tịnh thủy của bồ tát Quan Thế Âm đã  rưới mát mọi tâm hồn và rửa sạch hết oan khiên của người đã khuất .

Cõi âm được nhẹ nhàng siêu thoát, cõi Dương tức lòng người cũng thư thới. Đà Nẵng người tham dự khóa tu đông như trẩy hội, giới thương gia địa phương đã tổ chức hai buổi cúng dường trai tăng với đầy đủ nét thanh lịch và hoành tráng của kỷ nguyên mới, để khoản đãi Tăng đoàn.

Chúng ta đã thấy rõ một trình tự từ bế tắc buổi đầu cho đến hiện tượng khai thông sau mỗi đại trai đàn. Nhưng quan trọng nhất là những oan khuất của hàng triệu người chết đã được nói lên một cách rạch ròi. Và những bế tắt tâm lý của người sống do oan trái lịch sử của thời qua đã bắt đầu được khai thông.

Chơn Thuyên : Xin cảm ơn Thầy đã trả lời câu hỏi.

 

Chơn Thuyên,
Phái viên PSN thực hiện tại c
hùa Giác Ngộ, Sài Gòn 16/05/2007 

---------------------------------

Ph lc:

Thư của bà Đoàn Thanh Hương,
Phó chủ nhiệm khoa năng lượng sinh học, viện Vật lý Hà Nội
gửi thiền sư Thích Nhất Hạnh

LTS: Đây là một vấn đề siêu hình chưa được giới  khoa học thực nghiệm công nhận nhưng lại là sự thật 100% đã gây nhiều phân vân trong xã hội, nhất là những thành phần marxite của Việt Nam. PSN phổ biến với tất cả thận trọng.

Hà Nội ngày 26.4.2007

Kính thưa thầy Thích Nhất Hạnh,
Con kính trọng thầy rất nhiều. Ánh sáng trí tuệ và tình thương của thầy đã tỏa rộng bao trùm lên những đau thương khốn khổ. Thầy có dòng nước mát cam lồ của Đức Quan Thế Âm, có trí tuệ sắc bén của Đức Phật. Đất nước Việt Nam suốt bao nhiêu thế kỷ chiến tranh nội chiến, ngoại xâm, có bao nhiêu đau thương và ngần ấy vong linh chết mà vẫn còn nỗi niềm khúc mắc. Thầy đã có đủ tình thương vỗ về nỗi đau ấy giúp cho họ giải thoát. Con đã chứng kiến những tâm tư rất tình người của các liệt sĩ. Sở dĩ con biết được vì con có một chuyến đi làm việc cùng các nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thúy Hoàn, những người có năng lực nhìn thấy và nghe được tiếng nói người âm, con là người có nhiệm vụ ghi chép và nghiên cứu.

Năm 2002 từ việc giúp một gia đình liệt sĩ mà thành ra một sự kiện lớn, có hai vợ chồng thượng tướng Nguyễn Nam Khánh 80 tuổi cùng hành trình tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, có sự giúp đỡ cơ quan quân sự địa phương, của trung ương. Câu chuyện trong một cánh rừng già Tây Nguyên năm 1965 đã xãy ra một trận đánh lớn, gần một ngàn người tham chiến. Nơi đây giữa rừng, xa thành phố, dân cư thưa thớt, không có điều kiện thu dọn hậu chiến như các chỗ khác. Có lẽ đây là trận đánh thất bại đẫm máu, nên các tướng lĩnh muốn quên đi tất cả. Tới gần 40 năm sau đoàn chúng con tới đây, mới biết nhiều tâm sự của các liệt sĩ. Tất cả đều nói lên ước nguyện được quan tâm. Nhiều câu chuyện trong cõi vô hình xúc động về các liệt sĩ, con kể cho thầy nghe một chuyện trong chuyến đi ấy, có liên quan lễ trai đàn của thầy.

Hôm đó là ngày tìm kiếm thứ tư. Tại một cánh ruộng khô chúng con tiếp xúc với một anh tiểu đội trưởng liệt sĩ Sơn, người Quảng Nam, Đà Nẵng. Anh nói rằng thay mặt gần bốn mươi liệt sĩ nằm ở đây nói lên nguyện vọng muốn về nghĩa trang liệt sĩ. Nhìn đồng đội phơi xương trắng đồng thế này tôi đau lòng lắm. Đừng bỏ chúng tôi ở đây. Nếu đưa tên tuổi chúng tôi lên tượng đài, mà chúng tôi vẫn phơi xác ở đây thì có nghĩa lý gì? Gần 40 người nằm rãi trên ruộng này, không có ai gom lại. Tôi nhìn anh em đồng đội ở đây rất là thương, rất trẻ, 17, 18 tuổi. Các đồng chí phơi xương ở đây không một nén hương thắp. Tôi đau lòng lắm …

Anh bảo chúng con chờ đợi thêm các anh em đi vắng chưa kịp về. Trong lúc chờ đợi anh kể về gia đình của anh: Nhà tôi ngày xưa ở thành phố, bây giờ không còn ai. Có 5 anh em đều hy sinh cả, bố cũng hy sinh. Còn một mình mẹ đau thương quá cũng mất sớm. Có một chị gái cũng hy sinh cả hai vợ chồng. Bây giờ tôi muốn về nghĩa trang. Không riêng mình tôi, có nhiều người không quê quán như tôi. Tôi đấu tranh cho các anh em được về nghĩa trang. Biết đoàn vào đây mục đích chính không phải là tìm chúng tôi, nhưng vì tình nghĩa đối với liệt sĩ mà đến đây với chúng tôi. Khi đoàn vào đây mọi người mừng lắm, vì trước đây tưởng rằng không có ai biết tới, một nén hương cũng không có. Cảm ơn đoàn.

Mãi cho đến năm nay 2007 vẫn chưa giải quyết xong nguyện vọng của các anh ấy, vì rất nhiều tiếng nói bị rơi vào vô vọng. Rất nhiều công sức và quyết tâm của một tập thể tự nguyện đã tìm dược hơn 150 hài cốt. Còn lại gấp 3 lần. Lúc đó con hiểu hoàn cảnh có những khó khăn không đáp ứng được nguyện vọng của các liệt sĩ, nên con nghĩ tới khả năng tâm linh giúp các anh về với Phật. Con lựa lời nói: Việc về nghĩa trang rất khó khăn, các anh nằm rải trên vùng rộng lớn, mà kinh phí của huyện, Kbang quá eo hẹp, họ không làm nổi. Có một duyên lành em có mặt ở đây, có thể giúp các anh đi tu học hoặc đi tái kiếp. Vậy các anh hãy quyết định ngay vì khó có dịp nào em trở lại đây.

-          đi tái kiếp thì tôi không muốn nữa, cuộc sống trên đó và dưới này chẳng khác gì nhau. Còn đi tu học là cái gì?

-          Là về nơi có Phật, nơi toàn là tình thương, các đức Phật sẽ giúp các anh học hỏi, trút bỏ tất cả những nặng nề khổ đau của kiếp sống này,

-          Biết đâu đi tu học chúng tôi có thêm tài năng để quay lại trở lại đây giúp đỡ các anh em khác. Thế thì tôi đồng ý đi tu học. Còn các anh em trẻ, họ không biết gì đâu, chị đợt tôi nói với họ.

-          Mọi người muốn hỏi chị một câu: Nếu khi nào muốn quay trở lại có được không?

-          Các anh có thể quay lại khi có người cần gọi các anh về.

-          Vậy tất cả chúng tôi đi tu học. Xin chị giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi thật mai mắn không ngờ, xin cảm ơn. Chị có thể giúp cho những người khác nữa không?

-          Em giúp được, anh đi gọi mọi người về đây, chỉ cần chạm vào hào quang của em, cùng một lời cầu nguyện, thì sở nguyện của các anh sẽ thành. Xin chúc mừng các anh đã có sự lựa chọn tốt đẹp nhất.

Thẩm Thúy Hoàn nói rằng: Em thấy rất đông liệt sĩ reo mừng lao về phía chị, nhanh quá không còn thấy ai nữa.

Chúng con đi tiếp nhiều cánh ruộng quanh đấy không thấy liệt sĩ. Đi quãng xa nữa bên vệ đường có 6 liệt sĩ đứng chờ, sau khi ghi tên họ, các anh nói: Xin chị giúp chúng tôi đi tu học, vì biết chị vừa giúp cho các anh em ở đằng kia.

Buổi tối con hẹn Thẩm Thúy Hoàn tiếp tục hợp tác việc này với con để gặp liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, là người lãnh đạo các liệt sĩ ở đây, thêm một tình huống nữa xãy ra, liệt sĩ Đãi cũng nói rằng: Đi tái kiếp thì tôi hiểu,còn tu học là gì? Sau khi được giải đáp, chú nói rằng: Thế thì tốt quá, tôi sẽ vận động anh em … Tôi còn về quê, và tôi phải ở lại đây để đấu tranh đưa anh em ra khỏi khu rừng. Bây giờ chị cứ cho anh em ở đây, có người muốn tái kiếp, có người muốm đi tu. Con nói: Chú Đãi thật cao thượng, chú luôn hy sinh và lo lắng cho đồng đội, vậy cũng là một đức tu lớn, cảm ơn chú rất nhiều.

Câu chuyện tâm linh này không có trong chương trình của đoàn, con làm âm thầm, nếu nói ra thêm phiền vì không có người ủng hộ. Trong lòng con canh cánh nỗi niềm về các liệt sĩ đã hy sinh, tìm kiếm không xuể. Hàng bao nhiêu thế kỷ đổ máu, còn có những câu chuyện tương tự. Các anh ấy đau khổ, tìm cách đấu tranh để có một nấm mộ, nhưng vẫn đùm bọc lo lắng cho nhau với đức hy sinh cao thượng, muốn tu học theo Phật để còn trở về giúp đỡ các anh em khác. Còn những người đã chết trong thù hận, họ ai oán đến đâu. Nhiều người không tin nổi có những câu chuyện như thế, hoặc là họ không muốn ai biết. Nhưng thầy đã biết, thầy đã lo lắng vượt tất cả khó khăn lập được lễ trai đàn lớn, lớn nhất của bao nhiêu trăm năm. Có những lời dèm pha vô nghĩa vì họ không hiểu sự vĩ đại trong trái tim của thầy đã qui tụ về đây những sức mạnh yêu thương hóa giải gánh nặng của đất nước, cởi trói cho dân tộc Việt Nam. Thầy đã chọn địa điểm khu đền Sóc Sơn là vô cùng chuẩn xác. Con đã dự lễ trai đàn 3 ngày, con không mang theo máy di động để tránh nhiểu sóng, con nghe thấy thầy khuyên các hương linh quy y Phật. Thầy nói thế nào con làm như thế.

Sáng sớm ngày thứ 4 một mình con leo lên đỉnh núi Sóc Sơn. Con cảm ơn trời đất đã phù hộ để cho thầy tổ chức thành công lễ trai đàn chẩn tế, mở đường cho đất nước Việt Nam được lớn mạnh. Con nhặt một viên đá tại nơi đức Thánh Gióng thăng lên trời, để tặng thầy làm kỷ niệm Sóc Sơn. Viên đá này mang tất cả tâm tư của con kính tặng thầy. Cách đây 7 năm con có ý định làm cuốn phim tư liệu khoa học về tiềm năng trí tuệ Việt Nam, con đã chọn đức Thánh Gióng là biểu tượng sức mạnh tinh thần Việt Nam, đang thai nghén một cậu bé không nói được, nhưng sẽ vụt lớn thành khổng lồ Thánh Gióng. Con đã viết bản nháp này cho đến nay chưa thực hiện được. Việt Nam có rất nhiều người tài giỏi, nhưng ở thầy còn có tình thương lớn của trí huệ tỉnh thức. Khi ở trên đỉnh núi Sóc Sơn con chợt nghĩ ra thầy chính là người đang khai thông trí tuệ Việt Nam, từ người dân đến lãnh đạo, soi sáng đến toàn cầu được sống thanh bình, lùi dần bóng tối khổ nạn chiến tranh. Thầy đã chạm tới đỉnh cao sức mạnh Thánh Gióng xua tan giạc tối tăm. Cả đức khiêm tốn của thầy và bước chân tự tại của thầy chúng con theo học mãi.

Con kính ơn thầy.
Con kính chúc thầy luôn mạnh khỏe, tăng đoàn làng Mai có khắp toàn cầu.

Đoàn Thanh Hương

 >>Xem tiếp>>  2. THỪA THIÊN - HUẾ,   ĐÀ NẴNG,  NHA TRANG
 >>Xem tiếp>>  1. SÀI GÒN,   LÂM ĐỒNG,   BÀ RỊA - VŨNG TÀU

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.