3.06.2007
Chủ
nhựt
Sư ông Làng Mai và Tăng
thân đã về tới Pháp
sau 3 tháng hoằng pháp Đông Nam Á Châu: Việt Nam - Hongkong - Thái Lan
Thượng tọa Thích Nhật Từ chia sẻ kết quả chuyến hoằng
pháp của thiền sư Thích Nhất
Hạnh
và tăng thân làng Mai
tại Việt Nam
Phụ
lục:
Thư của bà
Đoàn Thanh Hương,
Phó chủ nhiệm
khoa năng lượng sinh học, viện Vật lý Hà Nội
gửi thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Sư ông và
Tăng thân làng Mai lễ vọng đức Quan Thế Âm bồ tát tại chùa Một Cột -
Hà Nội, ngày 4.05.2007 |
Chơn
Thuyên : Kính thưa thầy,
Sư ông làng Mai và tăng đoàn đã hoàn tất chuyến
về Việt Nam lần thứ hai. Sư ông đã diển thuyết tại rất nhiều chùa viện
từ Nam ra Bắc. Và đặc biệt thực hiện ba Đại trai đàn bình đẳng giải oan
với tầm vóc quốc gia tại Sài Gòn, Huế và Hà Nội, để cầu siêu cho tất cả
nạn nhân của cuộc chiến đã qua tại Việt Nam. Là người đã đóng góp nhiều
công sức cho chuyến về của Sư
ông lần này và hơn nữa là một giảng sư
Phật giáo, thường xuyên tiếp xúc với nhiều tầng lớp quần chúng. Xin Thầy
cho biết:
1.
Những cảm nhận của Thầy về chuyến hoằng hóa tại Việt Nam lần thứ hai của
Sư
ông làng Mai. 2.
Hiệu quả thật sự của ba đại trai đàn chẩn tế giải oan?
Thượng tọa Thích Nhật Từ : Chuyến về Việt Nam lần thứ hai này Sư
ông và Tăng đoàn đã thực hiện ba đại trai đàn chẩn tế giải oan chính
thức tại Sài Gòn, Huế, Hà Nội và một trai đàn phụ tại Bà Rịa - Vũng Tàu
dành cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biển năm xưa.
Lần về thứ hai này đã diễn ra trong bối cảnh khá thuận lợi. Từ hai năm
trở lại đây, vấn đề ngoại cảm là một lưu tâm hàng đầu tại Việt Nam. Giới
Phật tử thì không ngạc nhiên, nhưng đối với người từ lâu sống với ý
tưởng vô thần thì đây là một sự thật lớn lao làm họ phải cải đổi hẳn
quan niệm nhân sinh. Chết không phải là hết và trong cõi chết nhất là
chết vì oan ức con người vẫn đau khổ vì oan ức.
Các nhà ngoại cảm đã tìm ra được trên 10.000 trường hợp chết oan trong
chiến trận, nơi đồng nội, trên rừng núi, bãi sông, bờ suối. Họ đối thoại
được với người đã chết, biết được tên tuổi, sinh quán, chết trong trường
hợp nào. Những ghi chép tên tuổi sinh quán có độ chính xác cao, khó có
thể hồ nghi được. Những oan hồn uổng tử này đã chết trên dưới bốn chục
năm rồi vẫn còn khổ đau oan ức, không có ai lo lắng đoái hoài cho họ.
Cho nên việc tổ chức trai đàn giải oan là một đánh động lương tâm của cả
dân tộc. Và việc cầu siêu hóa giải oan ức cho những người chết này là
cần thiết vô cùng. Chỉ tiếc là các nhà lãnh đạo
chưa
thấy hết giá trị tâm linh và đạo đức trong văn hóa dân tộc, cũng như tuệ
giác của đạo Phật, mà các ngành khoa học hiện đại đã và đang dựa vào nó
để mở ra những thế giới mới đầy lý thú, chẳng hạn như việc áp dụng môn
Duy thức học của Phật giáo vào khoa tâm lý trị liệu, v.v... Do đó
các vị
chưa sẳng sàng bước lên trên con đường hóa giải mang tính trị liệu này.
Việc khó làm nhưng phải làm, để cho vết thương của dân tộc được chữa
lành, để cõi âm được siêu thì cõi dương (tức lòng người) mới được thới
(Lời của những người đang sống, nói với
những người đã chết).
Và từ đây dân tộc sẽ được lành mạnh mà bước về tương lai.
Về câu hỏi thứ hai, hiệu quả thật sự của ba đại trai đàn
chẩn tế giải oan.
Năm 2005 lần về thứ nhất, qua các bài giảng Sư
ông đã gieo hạt, thời
gian hai năm đã tưới tẫm những hạt giống nảy mầm.
Lần về này, nổi bật là phương pháp hành trì, Sư
ông
đã dùng kinh Quán Niệm hơi thở, một kinh hành trì căn bản của tăng đoàn
thời Phật tại thế. Sư
ông dùng kinh này làm nền cho rất nhiều bài giảng.
Thính chúng từ Nam Trung Bắc đã được Sư ông hướng dẫn thực tập trực
tiếp. Cách giảng dạy của Sư ông vừa rõ rệt, vừa đơn giản vừa chính xác
với một định lực tuyệt hảo của người đã hành trì thành công. Chỉ trong
một thời thực tập nghiêm chỉnh, thính chúng đã nếm được thế nào là pháp
lạc, thế nào là định, thế nào là tuệ. Càng thực tập với Sư ông càng như
thấy khai thông, vén được mây mù ở lòng mình.
Chủ đề Ngồi Giữa Gió Xuân rất hay, gió xuân cũng có thể là tám thứ gió
làm mê hoặc con người (Bát phong). Nhưng với định và tuệ vững vàng thì
tám thứ gió độc đã trở thành gió mùa xuân mát mẽ của cực lạc hiện tiền.
Sư ông không những giải oan cho người sống mà còn mở cả nút thắc căn bản
vô minh của kiếp người. Cho nên những chống phá đầy chất sân hận và u
tối ở Sài Gòn, ở Huế đã bị phản ứng ngược.
Thật ra từ lúc chuẩn bị chuyến đi cho đến khi ba trai đàn hoàn tất, tăng
đoàn làng Mai đã phải vượt qua nhiều bế tắc khó khăn. Ông Vụ trưởng vụ
Tôn Giáo Bùi Hữu Dược đã nói:
1. Không thể có bình đẳng đối với vong linh lính tráng chết trận của đế
quốc Pháp Mỹ, họ đáng bị trừng trị. 2. Nghĩa sĩ hy sinh cho đất nước đã
chết trong vinh quang chứ không oan ức.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã yêu cầu làng Mai rút bỏ từ giải oan
trong cụm từ “Đại trai đàn bình đẳng giải oan”.
Tại ba đàn tràng Sài Gòn, Huế và Sóc Sơn Hà Nội, số lượng người tham dự
rất đông, vượt ngoài mọi dự đoán. Có nhiều người đến từ rất xa với lòng
dạ chí thành xin ghi tên cho thân nhân của mình đã chết oan khuất từ
lâu, được nương nhờ cửa Phật mà siêu sanh hóa kiếp.
Nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, nhờ niệm lực hùng hậu của Tăng bảo và lòng
người khẩn thiết, lời khấn nguyện của vị sám chủ đại trai đàn đã vang
động hư không, đi vào lòng người, thông suốt cả cỏi âm. Đất trời đã cảm
ứng hiển linh. Sau mỗi đại trai đàn là mưa lớn, mát cả không gian trời
đất. Giọt nước từ bi tịnh thủy của bồ tát Quan Thế Âm đã rưới mát mọi
tâm hồn và rửa sạch hết oan khiên của người đã khuất .
Cõi âm được nhẹ nhàng siêu thoát, cõi Dương tức lòng người cũng thư
thới.
Ở
Đà Nẵng người tham dự khóa tu đông như trẩy hội, giới thương gia địa
phương đã tổ chức hai buổi cúng dường trai tăng với đầy đủ nét thanh
lịch và hoành tráng của kỷ nguyên mới, để khoản đãi Tăng đoàn.
Chúng ta đã thấy rõ một trình tự từ bế tắc buổi đầu cho đến hiện tượng
khai thông sau mỗi đại trai đàn. Nhưng quan trọng nhất là những oan
khuất của hàng triệu người chết đã được nói lên một cách rạch ròi. Và
những bế tắt tâm lý của người sống do oan trái lịch sử của thời qua đã
bắt đầu được khai thông.
Chơn
Thuyên :
Xin cảm ơn Thầy đã trả lời câu hỏi.
Chơn
Thuyên,
Phái
viên PSN
thực hiện tại chùa
Giác Ngộ, Sài Gòn 16/05/2007
---------------------------------
Phụ lục:
Thư của bà
Đoàn Thanh Hương,
Phó chủ nhiệm khoa năng lượng sinh học, viện Vật lý Hà Nội
gửi thiền sư Thích Nhất Hạnh
LTS: Đây là một vấn đề siêu hình chưa được giới khoa
học thực nghiệm công nhận nhưng lại là sự thật 100% đã gây nhiều phân
vân trong xã hội, nhất là những thành phần marxite của Việt Nam. PSN phổ
biến với tất cả thận trọng.
Hà Nội ngày 26.4.2007
Kính thưa thầy Thích Nhất Hạnh,
Con kính trọng thầy rất nhiều.
Ánh sáng trí tuệ và tình thương của thầy đã tỏa rộng bao trùm lên những
đau thương khốn khổ. Thầy có dòng nước mát cam lồ của Đức Quan Thế Âm,
có trí tuệ sắc bén của Đức Phật. Đất nước Việt Nam suốt bao nhiêu thế kỷ
chiến tranh nội chiến, ngoại xâm, có bao nhiêu đau thương và ngần ấy
vong linh chết mà vẫn còn nỗi niềm khúc mắc. Thầy đã có đủ tình thương
vỗ về nỗi đau ấy giúp cho họ giải thoát. Con đã chứng kiến những tâm tư
rất tình người của các liệt sĩ. Sở dĩ con biết được vì con có một chuyến
đi làm việc cùng các nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, Thẩm Thúy Hoàn,
những người có năng lực nhìn thấy và nghe được tiếng nói người âm, con
là người có nhiệm vụ ghi chép và nghiên cứu.
Năm 2002 từ việc giúp một gia đình liệt sĩ mà thành ra một sự kiện lớn,
có hai vợ chồng thượng tướng Nguyễn Nam Khánh 80 tuổi cùng hành trình
tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, có sự giúp đỡ cơ quan quân sự địa phương, của
trung ương. Câu chuyện trong một cánh rừng già Tây Nguyên năm 1965 đã
xãy ra một trận đánh lớn, gần một ngàn người tham chiến. Nơi đây giữa
rừng, xa thành phố, dân cư thưa thớt, không có điều kiện thu dọn hậu
chiến như các chỗ khác. Có lẽ đây là trận đánh thất bại đẫm máu, nên các
tướng lĩnh muốn quên đi tất cả. Tới gần 40 năm sau đoàn chúng con tới
đây, mới biết nhiều tâm sự của các liệt sĩ. Tất cả đều nói lên ước
nguyện được quan tâm. Nhiều câu chuyện trong cõi vô hình xúc động về các
liệt sĩ, con kể cho thầy nghe một chuyện trong chuyến đi ấy, có liên
quan lễ trai đàn của thầy.
Hôm đó là ngày tìm kiếm thứ tư. Tại một cánh ruộng khô chúng con tiếp
xúc với một anh tiểu đội trưởng liệt sĩ Sơn, người Quảng Nam, Đà Nẵng.
Anh nói rằng thay mặt gần bốn mươi liệt sĩ nằm ở đây nói lên nguyện
vọng muốn về nghĩa trang liệt sĩ. Nhìn đồng đội phơi xương trắng đồng
thế này tôi đau lòng lắm. Đừng bỏ chúng tôi ở đây. Nếu đưa tên tuổi
chúng tôi lên tượng đài, mà chúng tôi vẫn phơi xác ở đây thì có nghĩa lý
gì? Gần 40 người nằm rãi trên ruộng này, không có ai gom lại. Tôi nhìn
anh em đồng đội ở đây rất là thương, rất trẻ, 17, 18 tuổi. Các đồng chí
phơi xương ở đây không một nén hương thắp. Tôi đau lòng lắm …
Anh bảo chúng con chờ đợi thêm các anh em đi vắng chưa kịp về. Trong lúc
chờ đợi anh kể về gia đình của anh: Nhà tôi ngày xưa ở thành phố, bây
giờ không còn ai. Có 5 anh em đều hy sinh cả, bố cũng hy sinh. Còn một
mình mẹ đau thương quá cũng mất sớm. Có một chị gái cũng hy sinh cả hai
vợ chồng. Bây giờ tôi muốn về nghĩa trang. Không riêng mình tôi, có
nhiều người không quê quán như tôi. Tôi đấu tranh cho các anh em được về
nghĩa trang. Biết đoàn vào đây mục đích chính không phải là tìm chúng
tôi, nhưng vì tình nghĩa đối với liệt sĩ mà đến đây với chúng tôi. Khi
đoàn vào đây mọi người mừng lắm, vì trước đây tưởng rằng không có ai
biết tới, một nén hương cũng không có. Cảm ơn đoàn.
Mãi cho đến năm nay 2007 vẫn chưa giải quyết xong nguyện vọng của các
anh ấy, vì rất nhiều tiếng nói bị rơi vào vô vọng. Rất nhiều công sức và
quyết tâm
của một tập thể tự nguyện đã tìm dược hơn 150 hài cốt. Còn lại gấp 3
lần. Lúc đó con hiểu hoàn cảnh có những khó khăn không đáp ứng được
nguyện vọng của các liệt sĩ, nên con nghĩ tới khả năng tâm linh giúp các
anh về với Phật. Con lựa lời nói: Việc về nghĩa trang rất khó khăn, các
anh nằm rải trên vùng rộng lớn, mà kinh phí của huyện, Kbang quá eo hẹp,
họ không làm nổi. Có một duyên lành em có mặt ở đây, có thể giúp các anh
đi tu học hoặc đi tái kiếp. Vậy các anh hãy quyết định ngay vì khó có
dịp nào em trở lại đây.
-
đi tái kiếp thì tôi không muốn nữa, cuộc sống trên đó và dưới này chẳng
khác gì nhau. Còn đi tu học là cái gì?
-
Là về nơi có Phật, nơi toàn là tình thương, các đức Phật sẽ giúp các anh
học hỏi, trút bỏ tất cả những nặng nề khổ đau của kiếp sống này,
-
Biết đâu đi tu học chúng tôi có thêm tài năng để quay lại trở lại đây
giúp đỡ các anh em khác. Thế thì tôi đồng ý đi tu học. Còn các anh em
trẻ, họ không biết gì đâu, chị đợt tôi nói với họ.
-
Mọi người muốn hỏi chị một câu: Nếu khi nào muốn quay trở lại có được
không?
-
Các anh có thể quay lại khi có người cần gọi các anh về.
-
Vậy tất cả chúng tôi đi tu học. Xin chị giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi
thật mai mắn không ngờ, xin cảm ơn. Chị có thể giúp cho những người khác
nữa không?
-
Em giúp được, anh đi gọi mọi người về đây, chỉ cần chạm vào hào quang
của em, cùng một lời cầu nguyện, thì sở nguyện của các anh sẽ thành. Xin
chúc mừng các anh đã có sự lựa chọn tốt đẹp nhất.
Thẩm Thúy Hoàn nói rằng: Em thấy rất đông liệt sĩ reo mừng lao về
phía chị, nhanh quá không còn thấy ai nữa.
Chúng con đi tiếp nhiều cánh ruộng quanh đấy không thấy liệt sĩ. Đi
quãng xa nữa bên vệ đường có 6 liệt sĩ đứng chờ, sau khi ghi tên họ, các
anh nói: Xin chị giúp chúng tôi đi tu học, vì biết chị vừa giúp cho
các anh em ở đằng kia.
Buổi tối con hẹn Thẩm Thúy Hoàn tiếp tục hợp tác việc này với con để gặp
liệt sĩ Ngô Trọng Đãi, là người lãnh đạo các liệt sĩ ở đây, thêm một
tình huống nữa xãy ra,
liệt sĩ Đãi cũng nói rằng: Đi tái kiếp thì tôi hiểu,còn tu học là gì?
Sau khi được giải đáp, chú nói rằng: Thế thì tốt quá, tôi sẽ vận động
anh em … Tôi còn về quê, và tôi phải ở lại đây để đấu tranh đưa anh em
ra khỏi khu rừng. Bây giờ chị cứ cho anh em ở đây, có người muốn tái
kiếp, có người muốm đi tu. Con nói: Chú Đãi thật cao thượng, chú
luôn hy sinh và lo lắng cho đồng đội, vậy cũng là một đức tu lớn, cảm ơn
chú rất nhiều.
Câu chuyện tâm linh này không có trong chương trình của đoàn, con làm âm
thầm, nếu nói ra thêm phiền vì không có người ủng hộ. Trong lòng con
canh cánh nỗi niềm
về các liệt sĩ đã hy sinh, tìm kiếm không xuể. Hàng bao nhiêu thế kỷ đổ
máu, còn có những câu chuyện tương tự. Các anh ấy đau khổ, tìm cách đấu
tranh để có một nấm mộ, nhưng vẫn đùm bọc lo lắng cho nhau với đức hy
sinh cao thượng, muốn tu học theo Phật để còn trở về giúp đỡ các anh em
khác. Còn những người đã chết trong thù hận, họ ai oán đến đâu. Nhiều
người không tin nổi có những câu chuyện như thế, hoặc là họ không muốn
ai biết. Nhưng thầy đã biết, thầy đã lo lắng vượt tất cả khó khăn lập
được lễ trai đàn lớn,
lớn nhất của bao nhiêu trăm năm. Có những lời dèm pha vô nghĩa vì họ
không hiểu sự vĩ đại trong trái tim của
thầy
đã qui tụ về đây những sức mạnh yêu thương hóa giải gánh nặng của đất
nước, cởi trói cho dân tộc Việt Nam. Thầy đã chọn địa điểm khu đền Sóc
Sơn là vô cùng chuẩn xác. Con đã dự lễ trai đàn 3 ngày, con không mang
theo máy di động để tránh nhiểu sóng, con nghe
thấy
thầy
khuyên các hương linh quy y Phật. Thầy nói thế nào con làm như thế.
Sáng sớm ngày thứ 4 một mình con leo lên đỉnh núi Sóc Sơn. Con cảm ơn
trời đất đã phù hộ để cho
thầy
tổ chức thành công lễ trai đàn chẩn tế, mở đường cho đất nước Việt Nam
được lớn mạnh. Con nhặt một viên đá tại nơi đức Thánh Gióng thăng lên
trời, để tặng
thầy
làm kỷ niệm Sóc Sơn. Viên đá này mang tất cả tâm tư của con kính tặng
thầy.
Cách đây 7 năm con có ý định làm cuốn phim tư liệu khoa học về tiềm năng
trí tuệ Việt Nam, con đã chọn đức Thánh Gióng là biểu tượng sức mạnh
tinh thần Việt Nam, đang thai nghén một cậu bé không nói được, nhưng sẽ
vụt lớn thành khổng lồ Thánh Gióng. Con đã viết bản nháp này cho đến nay
chưa thực hiện được. Việt Nam có rất nhiều người tài giỏi, nhưng ở
thầy
còn có tình thương lớn của trí huệ tỉnh thức. Khi ở trên đỉnh núi Sóc
Sơn con chợt nghĩ ra
thầy
chính là người đang khai thông trí tuệ Việt Nam, từ người dân đến lãnh
đạo, soi sáng đến toàn cầu được sống thanh bình, lùi dần bóng tối khổ
nạn chiến tranh. Thầy đã chạm tới đỉnh cao sức mạnh Thánh Gióng xua tan
giạc tối tăm. Cả đức khiêm tốn của thầy và bước chân tự tại của thầy
chúng con theo học mãi.
Con kính ơn thầy.
Con kính chúc thầy luôn mạnh khỏe, tăng đoàn làng Mai có khắp toàn cầu.
Đoàn Thanh Hương
|