Khách
sạn Kim Liên, Hà Nội ngày 08.05.2008
Từ
ngày 05.05.2008 cho đến ngày 11.05.2008, từ khắp năm châu, 380 thiền
sinh và 70 vị xuất gia thuộc tăng thân Làng Mai đã đến Việt Nam tu
tập chánh niệm 7 ngày tại Khách sạn Kim Liên, Hà Nội trước khi chính
thức tham dự Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế 2008. Khách sạn Kim Liên là một
trong những khách sạn có mặt bằng rộng rãi nhất ở Hà Nội, rất tiện
cho những sinh hoạt ngoài trời như đi thiền hành, tập khí công và
thái cực quyền cho 450 người. Ban ghi danh liệt kê được 40 quốc gia
trong số 380 thiền sinh, chưa tính Việt Nam vì ban tổ chức đã cố
gắng tạo điều kiện để một số nhỏ Phật tử cư sĩ Hà Nội cũng được tham
dự vào khoá tu mang nhiều tính cách lịch sử tại Hà Thành. Dưới đây
là danh sách các quốc gia và số lượng thiền sinh đại diện:
Australia (Úc): 35 thiền sinh; Austria (Áo): 1; Bangladesh:1;
Belgium (Bỉ): 4; Brazil (Ba Tây): 2; Bulgaria (Bun-ga-ri):1; Canada:
24; Chile (Chi-Lê): 1; China (Trung Quốc): 1 Danmark (Đan Mạch): 1;
France (Pháp): 23; Germany (Đức): 25; Greece (Hy Lạp): 1; Hong Kong:
14; Iceland: 1; India (Ấn Độ): 1; Indonesia: 7; Ireland (Ái Nhĩ
Lan): 3; Israel (Do Thái): 3; Italy (Ý): 2; Japan (Nhật): 1; South
Korea (Nam Hàn): 1; Malaysia: 5; Mexico (Mễ Tây Cơ): 1; Nederlands
(Hà Lan): 7; New Zealand (Tân Tây Lan): 1; Norway: 3; Peru: 1;
Qatar:1; Russia (Nga): 3; Singapour: 6; South Africa (Nam Phi):1;
Spain (Tây Ban Nha):3; Sweden (Thuỵ Điển): 4; Switzerland (Thuỵ Sĩ):
8; Taiwan (Đaì Loan):3; Thailand (Thái Lan): 17; Tonga: 1; United
Kingdom (Anh): 24; USA (Mỹ): 136; Venezuela: 1; Vietnam: 8.
Vừa ghi danh xong thì các vị thiền sinh Tây phương được mặc chiếc áo
tràng màu lam của người Phật tử cư sĩ Việt Nam nên khi di chuyển,
dáng đi của họ thật khoan thai và từ tốn. Trong số 380 vị thiền sinh
Tây phương, gần phân nửa đã từng tiếp xúc và thực tập với những pháp
môn Làng Mai nên ngay trong những ngày đầu của khoá tu, năng lượng
tu tập thật tinh chuyên và hùng hậu. Nhân viên của khách sạn Kim
Liên rất ngạc nhiên khi thấy một số đông khách Tây phương như thế
nhưng không khí thật yên tĩnh và trang nghiêm, nhất là trong các bửa
cơm im lặng hoặc khi tăng thân đi thiền hành trên các lối đi của
khách sạn. Và chỉ vài ngày sau thì các anh chị nhân viên khách sạn
từ đội phục vụ nhà hàng đến các đội làm vệ sinh phòng ốc cũng tò mò
học thực tập thiền đi, thiền ngồi, tập ăn nói nhỏ nhẹ hầu giúp duy
trì bầu không khí trang nghiêm nhưng thân mật của các buổi sinh hoạt
trong khoá tu.
Vào ngày 06/05/2008, Thầy giảng bằng tiếng Anh về tương quan giữa 51
tâm hành trong Duy Biểu Học và Đạo Phật Dấn Thân (DPDT). Các pháp
bao gồm ba lãnh vực: vật lý, sinh lý và tâm lý. Về tâm lý, các tâm
hành được chia ra làm ba loại: các tâm hành tích cực (niềm vui, lòng
từ bi, tình yêu, hạnh phúc,…), các tâm hành tiêu cực ( buồn, giận,
ghét, khổ, u mê, đam mê, ganh tỵ,…) và các tâm hành trung hòa (đứng
giữa, có thể trở thành tích cực hoặc tiêu cực như ý tưởng phát
khởi). Các tâm hành hay các pháp đều là vô thường, có biểu hiện hoặc
thôi biểu hiện, tùy theo điều kiện cho phép. Các hạt giống hay chủng
tử được ta tưới tẩm từ trước, sẽ có cơ hội đi từ tàng thức trồi lên
ý thức. Nếu ta thực tập chánh niệm hàng ngày và thực tập tinh chuyên
thì chánh niệm sẽ phát sinh năng lượng đủ để ôm ấp những tâm hành
tiêu cực như cơn giận hoặc lòng ganh tỵ. Ôm ấp như người mẹ ôm ấp
con thơ. Không có kẻ thù phải tiêu diệt. Không cần phải chiến đấu để
loại bỏ. Phiền não tức Bồ đề. Đạo Phật chủ trương bất nhị, không có
hai. Mình không kỳ thị cái xấu ác vì tốt hay xấu cũng là mình. Chỉ
cần nhận diện, cần nhìn sâu, tìm hiểu cội nguồn rồi ôm ấp và chuyển
hóa. Với chánh niệm, mình có thể thực tập bất cứ ở đâu, vào mỗi giây
phút trong cuộc sống của mình chứ không đợi vào thiền đường mới thưc
tập.
Cũng tương tự như thế, Đạo Phật Dấn Thân không có nghĩa đối đầu với
bất công xã hội, mà là đáp ứng những đòi hỏi của thân, tâm và môi
trường sống. Thầy có kể lại vào năm 1949, lúc Thầy mới được truyền
đăng giáo thọ, Thầy đã giúp xây dựng chùa Ấn Quang cùng với Thầy
Thích Trí Hữu. Lúc đó tên chùa còn là chùa Ứng Quang. Đất nước chia
đôi vào năm 1954, một triệu người di cư vào Nam tìm tự do. Được sự
hỗ trợ của người Mỹ, Ông Ngô Đình Diệm, người theo đạo Công giáo trở
thành vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cọng Hòa. Ông đã từng lập
ra thuyết Nhân-vị. Ông Vũ ngọc Các, chủ nhiệm của tờ báo Dân Chủ, có
yêu cầu Thầy viết về phương hướng cần có cho một đất nước đang rối
bời, Thầy có viết 10 bài dưới cái tựa Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới.
Quần chúng Việt Nam thời bấy giờ đang khao khát, chờ đợi tiếng nói
chính thức cùng là sự đóng góp của khối Phật giáo, chiếm đại đa số
trong cộng đồng dân tộc. Thầy Trí Quang đi mua báo mỗi ngày để đọc
loạt bài đó.
Tại Huế, Thầy Thích Đức Tâm, chủ bút của tạp chí Hoa Sen, chùa Cồn
Hến, yêu cầu Thầy viết 10 bài về Đạo Phật Ngày Nay (Buddhism of
Today). Ông Lê văn Hảo ở Paris có dịch sang tiếng Pháp và in thành
sách dưới tựa đề “Aujourd’hui le Buddhism”. Qua năm 1963, một năm
nhiều biến cố phức tạp, Thầy cho ra đời cuốn sách Đạo Phật Đi Vào
Cuộc Đời (Engaged Buddhism) hay nói theo Trung Hoa là Nhân Gian Phật
Giáo. Sau đó, Thầy viết cuốn Đạo Phật Hiện Đại Hóa, rồi Đạo Phật
Ngày Mai (Buddhism of Tomorrow).
Trong phần hai của bài pháp thoại, Thầy giảng về Tứ Diệu Đế dưới cái
nhìn mới cho phù hợp với thế kỷ 21, và Thầy giảng về Năm Giới, chìa
khóa của cuộc sống có hạnh phúc. Thầy nhấn mạnh Đạo Phật Dấn Thân
cần phải đáp ứng được luôn luôn với mọi thống khổ và mọi phiền não
của mọi loài chúng sinh.
Trong bài pháp thoại của ngày 07/05/2008 Thầy tiếp tục giảng về lịch
sử và sự liên hệ của Đạo Phật Dấn Thân và Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm. Đạo
Phật, không phải là một tôn giáo yếm thế như phần đông ngộ nhận, mà
trái lại, là một đạo của lạc quan yêu đời, đạo của tình thương, của
hạnh phúc và giác ngộ. Khi nói tới giác ngộ, người ta phải nói giác
ngộ về cái gì đó. Biết mình đang sống là giác ngộ. Biết mình đang có
hạnh phúc là giác ngộ. Biết mình đang vui là giác ngộ. Tỉnh thức là
giác ngộ. Khinh an là giác ngộ. Nhà văn Pháp André Gide đã từng phát
biểu: Dieu est bonheur, God is happiness. Chánh niệm là một trong
tám yếu tố của Bát Chánh Đạo. Có chánh niệm là có giác ngộ. Thầy cho
đại chúng thực tập hơi thở như sau:
mỗi bước chân là sự sống
mỗi bước chân là phép lạ
mỗi bước chân là trị liệu
mỗi bước chân là thảnh thơi
Qua Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm, chúng ta thấy rõ đạo Phật là đạo lạc
quan, đạo của hạnh phúc. Sự thật thứ nhất:
ill-being. Đời là bể
khổ. Nào là căng thẳng tinh thần, xung khắc, căm thù, giận ghét, bạo
động, chiến tranh, bế tắc truyền thông, hiểu lầm, vọng tưởng,…
Sự thật thứ hai: the path
leading to ill-being. Nguyên nhân của khổ đau chính là
tham lam, ham muốn tiền tài, danh vọng, xì ke, ma tuý, đọc sách hay
xem phim bạo động, tưới tẩm hạt giống xấu,…
Sự thật thứ ba: well-being.
Chấm dứt khổ đau, thay thế bằng thư giản, lòng từ bi, hòa giải, tuệ
giác, nhìn sâu hiểu thấu,... Sự thật thứ tư:
the path of well-being. Chấm dứt lòng tham lam, đọc
sách, xem phim lành mạnh, tưới tẩm lòng từ bi, tưói hạt giống tốt,
thực tập chánh niệm, thực tập hiểu và thương,…
Chấm dứt cái ác thì cái thiện hiển lộ. Chấm dứt bạo động, căm thù,
thì tình thương hiện diện. Chấm dứt bóng tối thì ánh sáng tràn lan.
Chấm dứt vọng tưởng thì tuệ giác hiện về. Chấm dứt lăng xăng thì có
chánh niệm. Tóm lại, chấm dứt khổ đau thì hạnh phúc có mặt. Cho nên
mình có thể nói không ngần ngại: đạo Phật là đạo của tình thương,
của lạc quan.
Đạo Phật Dấn Thân có sứ mạng đem an lạc lại bằng cách tháo gở những
căng thẳng, những u mê, những vọng tưởng của chính ta và của mọi
người. Xã hội loài người trải qua 3 giai đoạn: bộ lạc (tribes, đa
thần quyền, polytheism), quân chủ (kingdom, monotheism) và dân chủ
(interbeing, tương quan trách nhiệm: tiếp hiện).
Từ năm 1960 đến 1964, Thầy đã bắt đầu thiết lập dòng tu tiếp hiện,
để thích ứng với tình trạng xung khắc ý thức hệ giữa các phe lâm
chiến: người ta nhân danh các chủ nghĩa ngoại lai từ Nga, Tàu và Mỹ
để đánh chửi nhau và mang các vũ khí tối tân từ bên ngoài để chém
giết nhau dã man nhân danh tổ quốc, nhân danh dân tộc. Giới thứ nhất
trong 14 giới tiếp hiện là: Ý thức được khổ đau do thái độ cuồng tín
và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng
mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ
nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo; những giáo nghĩa Bụt dạy phải
được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi
tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo
vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.
Thầy nhấn mạnh chánh kiến là không bị kẹt vào bất kỳ một quan điểm
nào (Right view is the absence of all views). Thầy kể câu chuyện của
một người thương gia trong lúc vắng nhà thì nhà ông bị cháy ban đêm.
Nghe tin dữ, ông vội vã về sáng hôm sau để tìm đứa con trai thân yêu
của ông bị kẹt bên trong. Ông vô cùng thất vọng. Nhà của ông bấy giờ
chỉ là một đống tro khổng lồ! Ông tìm hốt nắm tro xương cốt của con
ông ngay chỗ giường nằm của nó và bỏ vào một cái hủ, đi đâu lúc nào
cũng mang theo. Ông yên chí là con ông đã chết. Ba ngày sau, sau khi
sửa lại nhà để ở tạm, vào nửa đêm, ông nghe tiếng gỏ cửa, giọng của
một đứa bé: “Ba ơi! mở cửa cho con, Ba ơi!” Ông trả lời: “Con tao đã
chết rồi! Mày đừng nhát ma tao! Đi đi!” Và ông ta không còn cơ hội
để gặp lại đứa con thương yêu nữa. Năm 1964, Thầy thành lập Trường
Thanh Niên Phụng sự Xã hội để giúp người dân nạn nhân của chiến
tranh. Lúc đó, chiến tranh đang khốc liệt, không một tăng sĩ nào có
thể ngồi yên để tu hành, để gỏ mõ tụng kinh, mặc cho thế sự đảo
điên. Trường thu hút khoảng trên 10.000 người trẻ, giúp dân làng qua
bốn lãnh vực: dạy học, chăm sóc sức khỏe, kinh tế và canh nông. Năm
1965, Thầy cho ra đời cuốn sách Hoa Sen Trong Biển Lửa để nói lên sự
tàn khốc và phi lý của cuộc chiến được áp đặt lên dân tộc Việt Nam,
Bồ Tát Thích Quảng Đức và một số tăng ni đã tự thiêu đễ được nói
những lời không ai cho phép nói! Chính vì sự vô lý và độc ác của
chiến tranh mà dòng tu Tiếp Hiện với giới thứ nhất như trên được ra
đời.
Để kết luận Thầy cho biết Đạo Phật Dấn Thân sẽ đi xa hơn nữa với sự
thành lập của Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu tại Đức quốc (European
Institute of Applied Budhism).
Dưới đây là một số hình ảnh của khóa tu.
Thiền hành
trong khuôn viên khóa tu
Nhóm Pháp đàm
(chia sẻ hoa trái, kinh nghiệm thực chứng) 1
5 Lời quán niệm
trước khi ăn (bằng tiếng Anh) nhằm đánh thức chánh
niệm cho từng thiền sinh
Nhóm Pháp đàm
(chia sẻ hoa trái, kinh nghiệm thực chứng) 2
Nghe Pháp thoại
1
380 thiền sinh
ngoại quốc hiện diện cho 40 quốc tịch khác nhau từ khắp 5
châu, cùng 70 vị thiền sinh xuất gia và tại gia của Làng Mai,
tổng cộng là 450 vị cùng tu học miên mật trong 7 ngày đêm liên
tục.
|
Từng
bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|