Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ
Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày |
Tăng
đoàn áo đá
Viện Vô Ưu, Walbröl, 06.05.09.
Thân
gởi các con của thầy ở Bát Nhã, và ở khắp nơi.
Hồi hôm ngủ ở đây, thầy đã nằm mơ thấy mình đang leo núi với Bụt, và với
bé Hải Triều Âm. Lúc đó khoảng hai giờ khuya bên này, tức là vào khoảng
tám giờ sáng ở Việt Nam.
Trong giấc mơ, thầy thấy Bụt còn trẻ lắm, khoảng 60 tuổi, còn thầy thì
độ 50 tuổi và bé Hải Triều Âm thì 10 tuổi. Bụt không đầy đặn, phúc hậu
như thầy Lệ Trang, mà hơi ốm ốm cao cao như thầy Pháp Hộ. Bụt leo núi
thoăn thoắt; thầy đi theo sát Ngài, thầy leo cũng khá giỏi, còn bé Hải
Triều Âm thì khỏi nói. Bụt và thầy không cần đợi nó. Tuy làm thị giả
nhưng bé Hải Triều Âm chẳng mang theo trà nước gì cả, chỉ mang theo một
chiếc túi kinh màu nâu, trong đó không biết có chứa gì không. Bụt không
mang bát, thầy không mang bát, và bé Hải Triều Âm cũng chẳng mang theo
bát của nó. Thầy và bé Hải Triều Âm đang đóng vai làm thị giả cho Bụt
thay thầy A Nan. Nhưng thầy và bé Hải Triều Âm làm sao làm khéo như thầy
A Nan, tại vì hai thầy trò đâu có giúp được gì cho Bụt, kể cả việc mang
y và bát cho Ngài.
Núi mà Bụt, thầy và bé Hải Triều Âm đang leo hơi giống núi Thứu, nhưng
không phải là núi Thứu. Ở đây, ngoài những vách đá màu lam, còn có những
vách đá sừng sững màu nâu, khó leo hơn ở núi Thứu nhiều. Leo hết tầng
này đến tầng khác, những tầng núi liên tiếp hiện ra trông hùng vĩ vô
cùng. Thầy không thấy mệt mà chắc bé Hải Triều Âm cũng không biết mệt.
Được leo núi với Bụt là một diễm phúc lớn, làm sao thấy mệt cho được hở
các con?
Trong cuộc đời thật, bé Hải Triều Âm, tức là thằng Tý trong sách Tý,
chiếc lá ổi non và trong sách Tý, cây tre triệu đốt, năm nay đã suýt
soát 40 tuổi, đã đậu bằng tiến sĩ luật, đã lập gia đình. Trong giấc mơ,
bé Hải Triều Âm chỉ có 10 tuổi, vẫn thơ ngây chăm chú như những ngày còn
sống ở cư xá Hồ Đào, Xóm Hạ, Làng Mai trong những năm đầu Làng mới mở
cửa. Nó mặc một chiếc áo nhật bình màu khói hương, và đeo một chiếc túi
vải màu nâu. Thầy mặc áo tràng màu nâu. Và điều lạ nhất là Bụt cũng mặc
áo tràng màu nâu, chứ không khoác áo Tăng già lê theo kiểu Nam Tông. Xem
bộ Bụt cũng ưa mặc áo tràng màu nâu, màu áo của giới xuất gia ở Việt
Nam. Hoặc giả là Bụt muốn “đồng sự” với thầy và bé Hải Triều Âm nên đã
mặc áo tràng để cùng leo núi cho vui? Sự thực là tại Làng Mai, có nhiều
thầy gốc Thái Lan, Nhật Bản, Đại Hàn, Nam Dương, Sri Lanka, Lào,
Campuchia... sau một thời gian sống chung với các thầy ở Tăng xá Xóm
Thượng Làng Mai cũng đã cất y Tăng già lê của họ để mặc áo tràng nâu với
các thầy mình cho vui, và chỉ khoác y của đất nước mình trở lại vào
những dịp tụng giới và truyền giới như thầy Pittaya, thầy Sariputta,
thầy Đạo Trị, thầy Ananda, sư chú Học Hiền… chẳng hạn.
Trong giấc mơ, có một lúc nào đó, Bụt dừng lại ngồi chơi ở bên một dòng
suối từ vách núi chảy ra. Thầy và bé Hải Triều Âm cũng được ngồi hầu bên
Ngài. Bé Hải Triều Âm tự nhiên lắm. Nó chắp tay nhìn lên Bụt, và hỏi
chuyện với Bụt. Nó nói: “Bạch Đức Thế Tôn, thầy con nói, màu nâu của
chiếc áo tràng mà các thầy và các sư cô ở Việt Nam thường mặc, tượng
trưng cho nếp sống giản dị của người xuất gia, và cũng nói lên được sức
mạnh của năng lượng bồ đề tâm của người xuất gia. Con cũng thương cái
màu nâu đạm bạc ấy lắm. Nhưng tại sao mình lại gọi chiếc áo nâu đó là áo
tràng? Áo tràng là áo gì, bạch Đức Thế Tôn?”
Bích Nham
đá dựng - Làng Mai New York |
Bụt đưa mắt nhìn ra những dãy núi cheo leo rồi nhìn lại bé Hải Triều Âm
bằng một cái nhìn rất dễ thương, Ngài nói: “Con có thể gọi chiếc áo
tràng ấy là áo vách núi, áo núi đá, hoặc áo vách núi đá”.
Giấc mơ của thầy chấm dứt đột ngột sau câu nói của Bụt. Thức dậy, thầy
tiếc ngẩn ngơ, tại vì giấc mơ đẹp quá. Thầy nằm thở, và cố ghi nhớ lại
những chi tiết của giấc mơ. Câu nói của Bụt vừa được ghi lại ở trên,
thầy chỉ bảo đảm là đúng khoảng 70% mà thôi. Hình như Bụt chỉ dùng một
cái tên thôi, hoặc đó là áo vách núi, hoặc là áo núi đá, hoặc là áo vách
núi đá. Nhưng có một điều chắc chắn là tên áo chỉ có hai chữ, hoặc là
núi đá, hay đá núi, hoặc vách núi, hoặc vách đá, chứ không thể là vách
núi đá, cái tên ba chữ quá dài. Thầy ghi lại tất cả cho chắc ăn, đứng về
phương diện ý, chứ không phải Bụt đã dùng từng chữ rành rọt như thế.
Bé Hải Triều Âm là một chú tiểu mặc áo nhật bình màu lam, nghĩa là màu
khói hương hay khói sương. Đó là màu núi đá trên núi Linh Thứu. Màu lam
này không hẳn là màu xanh. Nó chỉ là màu khói sương, nó là màu áo nhật
bình mà cũng là màu áo Gia đình Phật tử. Nó cũng đại diện cho sự thanh
khiết nhẹ nhàng của khói hương, sương lam, và hùng khí của núi rừng. Núi
Lam là vùng đất thiêng nơi vị anh hùng áo vải Lê Lợi chuẩn bị cuộc đánh
đuổi quân Minh xâm lược. “Vầng ô lên, sương tan mờ trong mây núi”. Cho
nên màu lam cũng là mầu của hùng lực. Chiếc áo tràng màu nâu mà các vị
xuất gia Việt Nam đã sử dụng từ hai ngàn năm nay cũng đại diện cho nếp
sống lành mạnh và đạm bạc của người dân quê Việt Nam. Dân quê Việt Nam
ưa mặc màu nâu. Các cô thôn nữ Việt Nam ngày xưa và cả bây giờ mặc áo
dài màu nâu non rất đẹp. Màu nâu thầm lặng đơn sơ và có nhiều hùng lực.
Cho nên thầy đã từng nói với bé Hải Triều Âm là các vị xuất gia trẻ đệ
tử của thầy nên giữ lấy màu nâu ấy của truyền thống Phật giáo Việt Nam,
và chỉ nên đắp y vàng trong những lễ truyền giới và tụng giới. Bé Hải
Triều Âm đã nhớ điều đó, và đã thỏ thẻ bạch lên Đức Thế Tôn trong chuyến
leo núi hôm qua. Giờ này, ngồi viết thư cho các con, nhớ tới hình ảnh
của Đức Thế Tôn trong chiếc áo tràng màu nâu, thầy cảm thấy rất vui. Đức
Thế Tôn “đồng sự” với mình đó. Thầy tính đề nghị với các con là từ nay,
mình gọi áo nhật bình màu lam là áo núi lam, và gọi chiếc áo tràng màu
nâu là áo vách núi. Ở các tu viện Lộc Uyển và Bích Nham có những vách
núi rất cheo leo mà các thầy các sư cô mình hay ưa trèo lên. Vách đá
cheo leo là một cụm từ rất thiền. Nó tượng trưng cho một con đường khó
đi, nhưng leo tới được thì hạnh phúc vô cùng. Con đường xuất gia cũng là
một con đường khó đi, nhưng rất đẹp. Chúng ta đều đang được leo núi với
Đức Thế Tôn. Thi sĩ Nguyễn Công Trứ cũng đã có khi muốn bỏ tất cả để
được đi leo núi. Ông có nói tới một cây thông đứng vững chãi trên sườn
núi cheo leo, độc lập không bị hệ lụy vào bất cứ vào một tình huống nào.
Đó đích thực là hình ảnh của một người xuất gia. Ông viết:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa vùng vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”.
Thầy trò mình tuy rất ưa leo lên các vùng vách đá, nhưng thầy trò mình
vẫn muốn kiếp sau cứ được làm người như thường. Bài sám Quy mạng của
chúng ta trong sách Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 có câu:
“Kiếp sau xin được làm người
Sinh ra gặp pháp, sống đời chân tu
Dắt dìu, nhờ bậc minh sư
Nương vào chánh tín, hạnh từ xuất gia”.
Thầy rất hạnh phúc mỗi khi nhớ tới là thầy trò chúng ta trong giờ phút
hiện tại đang được cùng nhau leo lên ngọn đồi thế kỷ thứ hai mươi mốt.
Chúng ta đã leo gần được mười năm rồi (năm nay đã là năm 2009). Năm
2050, chúng ta sẽ đứng trên đỉnh đồi và chắc chắc là khi nhìn xuống sẽ
thấy đẹp lắm, không thua gì đứng trên núi Thứu. Thầy Giác Thanh đệ nhất
trụ trì tu viện Lộc Uyển trước giờ thị tịch đã được thầy trao một bài kệ
(1), và sau khi thị tịch còn được thầy trao thêm một câu đối. Câu đối
như sau:
“Một lá ngô đồng rơi, người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ
Ngàn hoa thủy tiên hé, đất cứ theo trời hát khúc vô sinh”.
Hai câu này đã được khắc trên tháp kỷ niệm của thầy Giác Thanh tại một
vách đá cheo leo trên tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.
Trong truyền thống Thiền, có một tác phẩm rất nổi tiếng bình giảng về
các công án Thiền, đó là sách Bích Nham Lục. Nham là vách đá. Bích là
màu xanh lam. Núi Yên Tử nơi Trúc Lâm Đại Sư Trần Nhân Tông tu học và
hành đạo cũng là một vùng đất thiêng, đầy sương khói màu lam. Màu áo của
chúng ta có truyền thống lâu đời, các con nhớ giữ cho được hai màu áo
ấy, màu lam và màu nâu.
Ở Bát Nhã không có vách núi cheo leo nhưng thầy trò mình cũng đã leo đồi
xuống suối nhiều lần, và lần nào cũng có rất nhiều hạnh phúc. Con đường
xuất gia không phải là một xa lộ êm ái mà là một con đường cheo leo. Các
con đã leo núi rất giỏi. Bé Hải Triều Âm đã leo núi rất giỏi, vì có Bụt
cùng leo. Thầy cũng vậy. Cho nên thầy trò ta đều đang có nhiều hạnh
phúc, dù vẫn còn gặp những khó khăn. Các con là những người xuất gia hay
tại gia đã từng lên tu tập ở Bát Nhã hay các đạo tràng khác như Từ Hiếu,
Bích Nham, Lộc Uyển, Đình Quán, Trúc Lâm, Diệu Trạm… tất cả các con đều
là bé Hải Triều Âm của thầy, vẫn còn giữ được tâm hồn vô tư trong sáng
của người trẻ tuổi có chí nguyện độ đời. Dù chưa phải là người xuất gia,
các con cũng có thể sử dụng hai màu áo ấy. Cái cách chúng ta đi, đứng,
nằm, ngồi trong chánh niệm, tu tập trong niềm vui, và chế tác tình huynh
đệ hàng ngày đủ để làm cho mọi người trong xã hội nhận ra được chúng ta
là ai.
Chúng ta là sự nối tiếp của Bụt và chư Tổ sư, trong đó có Trúc Lâm Đại
Sĩ, Thiền sư Lâm Tế, Thiền sư Liễu Quán và Thiền sư Nhất Định. Chúng ta
đi như một dòng sông, và chúng ta cũng đồng thời đang leo đồi thế kỷ với
rất nhiều niềm vui.
Thầy đang ở tại Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu trong một chương trình
hướng dẫn tu tập cho thiền sinh người Đức. Mấy hôm nay, người trẻ Đức
tới tu tập đông lắm. Ngày thứ sáu, 08.05.09 tới đây, Tăng đoàn áo đá
vách núi đã được ông Thị trưởng thành phố mời tới tòa thị chính để chào
mừng, vì đây là lần đầu tiên có những ngày quán niệm được tổ chức tại
thành phố xinh đẹp này. Các thị giả của thầy, thầy Pháp Hy và thầy Pháp
Hữu sẽ kể chuyện cho các con nghe về những sinh hoạt đang diễn ra tại
miền trái tim của Châu Âu.
Hẹn các con ở thư sau.
Thầy của các con,
Nhất Hạnh
--------------------------------
(1) Trượng phu tiếng đã biết
Việc cần làm đã làm
Tháp vừa dựng sườn núi
Tiếng cười trẻ đã vang.
Từng bước
thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|
...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh
vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia
lớn nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (... )
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng
chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa
của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích
thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (... )
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong
khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn
tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý
thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ
còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng
ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|