NĂM GIỚI MẦU NHIỆM
Giới thứ nhất:
Ý thức được những
khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để
bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để
kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống
hàng ngày của con.
Giới thứ hai:
Ý thức được những
khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con
xin học theo hạnh đại từ để đem lại niềm vui sống và an lạc
cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và
tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải
do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác,
nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và
làm giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của con người và
của muôn loại.
Giới thứ ba:
Ý thức được những
khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần
trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi
người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm
với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức
được rằng những hành động bất chính sẽ gây ra những đau khổ
cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc
của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết
của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ
trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các
gia đình và của đời sống đôi lứa.
Giới thứ tư:
Ý thức được những
khổ đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo
hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và
làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem
lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những
lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời
chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con
nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những
lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những
tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên
án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những
điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể,
những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Giới thứ năm:
Ý thức được những
khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học
cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu
thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc
cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con
nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không
ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một
số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và
chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các
độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các
thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ
hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho
gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất
thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
LỜI BẠT
Tôi sống ở phương
Tây đã gần ba mươi năm, mười năm gần đây tôi thường hay hướng
dẫn các khoá tu chánh niệm ở châu Âu, châu Úc, và Bắc Mỹ.
Trong những khoá tu này, chúng tôi đã được nghe nhiều câu
chuyện thương tâm, và chán ngán hay rằng bao nhiêu đau khổ ấy
đều là kết quả của sự nghiện rượu, lạm dụng ma túy, lạm dụng
tình dục, và các lề thói tương tự, truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Trong xã hội có một
sự băng hoại lớn. Nếu chúng ta đặt một người trẻ vào xã hội mà
không tìm cách bảo vệ họ, họ sẽ tiếp nhận những bạo động, căm
thù, sợ hãi, và bất an mỗi ngày, và rốt cuộc sẽ bị bệnh. Những
câu chuyện của chúng ta, những chương trình tivi, quảng cáo,
sách báo đều tưới tẩm các hạt giống khổ đau nơi những người
trẻ, và nơi cả những người lớn. Chúng ta thấy có một sự trống
vắng trong lòng, và chúng ta tìm cách khoả lấp bằng cách ăn
uống, đọc, nói, hút thuốc, uống rượu, xem tivi, đi coi phim,
hay thậm chí làm việc quá độ. Nương tựa vào những thứ này chỉ
làm chúng ta càng cảm thấy đói khát, không thoả mãn hơn, và
chúng ta muốn hấp thụ nhiều hơn nữa. Chúng ta cần một vài
nguyên tắc chỉ đạo, một vài phương thuốc ngăn ngừa để phòng hộ
cho mình, để rồi chúng ta có thể lành mạnh trở lại. Chúng ta
cần tìm cho ra phương thuốc cho căn bệnh của mình. Chúng ta
cần tìm cho ra những gì lành, đẹp và thật để có thể nương tựa
vào.
Khi lái xe, chúng
ta buộc phải tuân theo một số quy luật nhất định để không gây
tai nạn. Hai ngàn năm trăm năm trước, Bụt đã đưa ra các nguyên
tắc chỉ đạo nhất định cho những người đệ tử tại gia của Ngài
để giúp họ sống một đời sống bình an, lành mạnh và hạnh phúc.
Đó là Năm Giới, và nền tảng của mỗi Giới này là chánh niệm.
Với chánh niệm, chúng ta ý thức được những gì đang xảy ra nơi
thân thể, cảm thọ, tâm hồn và thế giới quanh ta, và ta tránh
không gây tổn hại cho mình và cho người. Chánh niệm bảo hộ cho
ta, cho gia đình và xã hội ta, chắc chắn sẽ mang lại an lạc,
hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
Trong đạo Bụt,
Giới, Định, và Tuệ luôn đi chung với nhau. Ta không thể chỉ
nói đến một yếu tố mà không nói đến hai yếu tố kia. Ba phép
này được gọi là Tam Học – sila, tu Giới; samadhi,
tu Định; và prajna, tu Tuệ. Giới, Định, Tuệ ‘tương tức’
với nhau. Thực tập Giới mang đến Định, Định thì cần thiết cho
Tuệ. Chánh Niệm là nền tảng của Định, Định cho phép ta nhìn
sâu, và Tuệ chính là hoa trái của sự nhìn sâu. Khi có chánh
niệm, ta có thể thấy rằng nếu tránh không làm ‘điều này’, ta
có thể ngăn ngừa được ‘điều kia.’ Tuệ giác này không đến từ
sự áp đặt của quyền lực bên ngoài. Nó là hoa trái của sự quán
sát của chính chúng ta. Hành trì Giới, vì vậy, giúp ta trở nên
điềm tĩnh hơn, tập trung hơn, mang lại nhiều tuệ giác và sự
sáng suốt hơn, và do đó việc hành trì Giới của chúng ta lại
càng thêm vững chãi. Ba yếu tố này đan quyện với nhau; yếu tố
này hỗ trợ cho hai yếu tố kia, và cả ba mang chúng ta đến gần
hơn với sự giải thoát -- chấm dứt sự ‘rò rỉ.’ Chúng ngăn không
để ta rơi trở lại vào vô minh, phiền não. Khi đã bước được ra
ngoài dòng khổ đau hệ lụy, ta gọi đó là anasvara, ‘vô
lậu.’ Chừng nào còn tiếp tục rò rỉ thì chừng ấy chúng ta cũng
giống như một chiếc bình rạn nứt, và không sao tránh khỏi sa
vào đau buồn, khổ não và vô minh.
Năm Giới chính là
tình thương. Thương có nghĩa là hiểu, bảo vệ, và mang lại an
vui cho đối tượng thương yêu của chúng ta. Hành trì Giới là
thực hiện điều này. Chúng ta bảo vệ cho mình và bảo vệ cho
nhau.
Năm Giới trong sách
này được diễn dịch theo hình thức mới. Đây là kết quả của
những tuệ giác gặt hái được từ việc thực tập chung như một
tăng thân. Một truyền thống tâm linh cũng giống như một cái
cây, cần được chăm tưới để cho ra những cành, lá mới để có thể
tiếp tục là một thực thể sinh động. Chúng ta giúp cái cây Phật
giáo phát triển bằng cách sống sâu sắc chân tinh thần của nó,
sự hành trì Giới, Định, Tuệ. Nếu chúng ta tiếp tục thực tập
Giới một cách sâu sắc, trong tương quan với xã hội và văn hoá
chúng ta, tôi tin rằng con cháu chúng ta sẽ có một sự hiểu
biết về Năm Giới còn sâu hơn chúng ta bây giờ và sẽ có nhiều
an lạc hơn.
Cho đến gần đây,
tôi vẫn hay dùng chữ ‘cấm giới’ thay vì ‘phương pháp rèn luyện
chánh niệm.’ Nhưng nhiều người bạn Tây phương nói với tôi rằng
chữ ‘cấm giới’ gợi cho họ cảm giác tốt xấu, nghĩa là nếu họ
‘phạm’ giới thì họ thấy mình hoàn toàn thất bại. Giới khác với
những ‘điều răn’ (trong đạo Chúa) hay ‘luật lệ.’ Giới là những
tuệ giác phát sinh từ sự quán sát chánh niệm và từ kinh nghiệm
trực tiếp về khổ đau. Giới là những nguyên tắc hướng dẫn giúp
ta tập sống như thế nào để có thể bảo hộ cho mình và cho những
người xung quanh. Trong khi thực tập Giới, chỗ hiểu biết và
hành trì của ta sẽ càng thêm sâu sắc. Khi mới bắt đầu, và cả
trong thời gian luyện tập, không ai có thể hoàn toàn cả. Giới
là biểu hiện cụ thể nhất của sự tu tập chánh niệm. Đó là lý do
tại sao trình bày Giới như ‘những phương pháp rèn luyện chánh
niệm’ trong tiếng Anh là khế cơ, khế lý.
Trong đạo Phật, một
trong những cách biểu lộ ước muốn tu tập theo con đường Hiểu
và Thương lúc ban đầu là quy y và tiếp nhận Năm Giới từ một vị
thầy. Trong buổi lễ truyền giới, vị thầy đọc từng giới một,
người học trò lập lại và phát nguyện học hỏi, hành trì theo
giới được tuyên đọc. Trước khi quyết định thọ Giới, hành giả
có thể còn cảm thấy hoang mang, nhưng với quyết định hành trì
Giới, nhiều sợi giây hoang mang, ràng buộc được cắt đứt. Khi
buổi lễ hoàn tất, ta có thể thấy ngay trên gương mặt người ấy
một sự giải phóng lớn.
Khi phát nguyện thọ
trì dù chỉ một giới, quyết định mạnh mẽ nảy sinh từ tuệ giác
ấy sẽ đưa ta đến tự do và hạnh phúc đích thực. Tăng thân có
mặt đó để yểm trợ và chứng minh cho sự ra đời của tuệ giác và
quyết tâm của mình. Buổi lễ thọ giới có sức mạnh xuyên thủng,
giải phóng và xây dựng. Sau buổi lễ, nếu chúng ta tiếp tục
thực tập Giới, nhìn sâu để có tuệ giác sâu hơn về thực tại, sự
bình an và giải thoát của chúng ta sẽ tăng trưởng. Cách ta
hành trì Giới biểu lộ mức độ bình an và chiều sâu của tuệ giác
chúng ta.
Khi một người chính
thức phát nguyện học hỏi và hành trì Năm Giới, người ấy cũng
quy y nơi Tam Bảo – Bụt, Pháp, và Tăng. Hành trì Năm
Giới là một biểu hiện cụ thể của lòng biết ơn và tin tưởng nơi
Ba Viên Ngọc Quý này. Bụt chính là chánh niệm; Pháp là con
đường của tình thương và sự hiểu biết; Tăng là đoàn thể nâng
đỡ cho sự tu học của chúng ta.
Năm Giới và Tam Bảo
là những đối tượng xứng đáng của niềm tin chúng ta. Đó không
phải là những cái gì trừu tượng – ta có thể học hỏi, tu tập,
khám phá, nới rộng, và kiểm lại với kinh nghiệm của chính
mình. Học hỏi và thực tập theo Năm Giới và Tam Bảo chắc chắn
sẽ mang lại an lạc cho bản thân, cộng đồng, và xã hội ta. Là
con người, chúng ta cần có một cái gì để tin tưởng, một cái gì
lành, đẹp, và thật, một cái gì ta có thể tiếp xúc được. Niềm
tin vào sự thực tập chánh niệm – vào Năm Giới và Tam Bảo – là
điều mà bất cứ ai cũng có thể khám phá, công nhận, và đưa vào
đời sống hằng ngày.
Năm Giới và Tam Bảo
có những giá trị tương đương ở trong mọi truyền thống tâm
linh. Đây là những gì đến tự chiều sâu thẳm của mỗi chúng ta,
hành trì theo đó sẽ giúp ta cắm rễ sâu hơn trong truyền thống
của mình. Sau khi đã học về Năm Giới và Tam Bảo, tôi mong rằng
các bạn sẽ quay về truyền thống của mình và chiếu ánh sáng lên
những viên ngọc vốn đã có đó. Năm Giới là phương thuốc cho
thời đại chúng ta. Tôi khẩn thiết mong các bạn thực tập Giới
theo cách chúng được trình bày ở đây, hay theo cách chúng được
giảng dạy trong truyền thống của bạn.
Cách tốt nhất để
hành trì Giới là cách nào? Tôi không biết. Tôi vẫn còn đang
học hỏi, cùng với các bạn. Tôi thấm thía cụm từ dùng trong Năm
Giới: ‘tìm cách.’ Chúng ta không biết hết mọi việc. Nhưng
chúng ta có thể giảm thiểu tối đa sự ngu dốt của mình. Khổng
Tử từng nói rằng: ‘Biết rằng mình không biết tức là chỗ khởi
đầu của cái biết.’ Tôi nghĩ đây là cách để thực tập. Chúng ta
cần có sự khiêm tốn và cởi mở để có thể học hỏi cùng nhau.
Chúng ta cần một Tăng thân, một cộng đồng, để yểm trợ cho ta,
và chúng ta cũng cần phải tiếp cận với xã hội để hành trì
giới. Nhiều vấn đề hôm nay không tồn tại trong thời của Bụt.
Vì vậy, chúng ta cần phải quán chiếu chung để mở ra những tuệ
giác có thể giúp chúng ta và con cái chúng ta tìm ra được cách
để sống một đời sống lành mạnh, hạnh phúc và khương kiện.
Khi có người hỏi:
‘Anh có quan tâm không? Anh có quan tâm đến tôi? Em có quan
tâm đến cuộc đời? Chị có quan tâm đến trái đất?’, cách hay
nhất để trả lời là hành trì Năm Giới. Đây là dạy bằng thân
giáo chứ không phải chỉ bằng lời. Nếu bạn thật sự quan tâm,
xin hãy hành trì các Giới này để bảo hộ cho mình và cho mọi
người, mọi loài khác nữa. Nếu chúng ta thực tập hết lòng thì
tương lai sẽ còn có mặt cho chúng ta, và con cháu chúng ta.
(Thích Nhất Hạnh,
1993)
GIỚI THỨ NHẤT
:
Tôn Trọng Sự Sống
Ý thức được những
khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để
bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để
kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống
hàng ngày của con.
Sự sống thật quý
giá. Sự sống có mặt khắp mọi nơi, trong ta và quanh ta; nó đa
hình đa dạng.
Giới thứ nhất đến
từ chỗ ý thức rằng sự sống khắp nơi đang bị hủy diệt. Chúng ta
thấy được những khổ đau do sự sát hại gây ra, và chúng ta
nguyện phát triển lòng từ bi, lấy đó làm nguồn năng lượng để
bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá. Giới thứ nhất là
một phép tu luyện tâm Bi, karuna -- khả năng làm vơi
nhẹ và chuyển hoá khổ đau. Khi thấy được nỗi khổ thì tâm Bi
phát sinh trong ta.
Tiếp xúc với khổ
đau của cuộc đời là điều rất cần thiết. Ta cần nuôi dưỡng ý
thức ấy thông qua nhiều phương tiện – hình ảnh, âm thanh, tiếp
xúc trực tiếp, thăm viếng, v.v... -- để giữ tâm Bi sống trong
ta. Nhưng ta phải cẩn thận, chớ đưa vào nhiều quá. Bất cứ
phương thuốc nào cũng phải có liều lượng. Ta nên tiếp xúc với
khổ đau trong chừng mực giúp ta không quên lãng, để tình
thương tuôn chảy trong ta, và biến thành năng lượng hành động.
Nếu lấy sự phẫn nộ làm động cơ hành động, ta sẽ có thể làm
những điều tai hại, những điều mà ta sẽ hối tiếc sau này. Theo
đạo Bụt, tình thương là nguồn năng lượng duy nhất có ích, và
an toàn. Với tình thương, năng lượng của chúng ta được sinh ra
từ tuệ giác; đó không phải là năng lượng mù quáng.
Con người chúng ta
được làm bằng những yếu tố không-phải-con-người, như cỏ cây,
khoáng chất, đất, mây, và ánh nắng. Để cho sự thực tập của
chúng ta được sâu và được thật, chúng ta phải bảo vệ luôn cả
hệ sinh thái. Nếu sinh môi bị tàn phá, con người cũng sẽ bị
hủy diệt. Không thể bảo vệ sự sống của con người mà không đồng
thời bảo vệ sự sống của cỏ cây, cầm thú, và đất đá. Kinh
Kim Cương dạy chúng ta rằng không thể phân chia ranh giới
giữa các loài hữu tình và vô tình. Đây là một trong những kinh
điển cổ của đạo Bụt dạy về sinh thái học ở mức độ sâu. Mỗi
hành giả trong đạo Bụt phải là một người bảo vệ môi trường.
Đất đá cũng có đời sống của chúng. Trong Chùa, chúng ta tụng:
‘Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí.’ Giới thứ nhất là sự
thực tập bảo vệ mọi sự sống, kể cả sự sống của khoáng vật.
‘Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để
kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống
hằng ngày của con.’
Chúng ta không thể tán thành bất cứ một hành động giết chóc
nào; không một sự giết hại nào có thể được biện hộ cả. Nhưng
không giết thôi không đủ. Chúng ta còn phải tìm cách ngăn
không cho kẻ khác giết hại. Chúng ta không thể nói: ‘Tôi không
chịu trách nhiệm. Họ làm chuyện đó, còn tay tôi sạch.’ Nếu
chúng ta sống ở Đức trong thời Nazis, ta không thể nói: ‘Họ
làm chuyện đó. Tôi không làm.’ Nếu trong cuộc chiến tranh vịnh
Gulf, chúng ta không nói hay làm gì cả để ngăn cản việc giết
chóc thì chúng ta đã không thực tập giới này. Cho dù những gì
chúng ta nói hoặc làm không cản được cuộc chiến, điều quan
trọng là ở chỗ chúng ta đã cố làm, vận dụng tuệ giác và tình
thương của mình.
Không phải chỉ
không dùng thân giết hại mới là giữ Giới thứ nhất. Nếu chúng
ta để cho sự giết hại diễn ra trong tư tưởng, chúng ta cũng đã
phạm Giới. Chúng ta phải nhất quyết không chấp nhập sự giết
hại, kể cả trong tâm tưởng. Theo Bụt, tâm là nền tảng của mọi
hành động. Giết trong tâm là nguy hiểm nhất. Khi chúng ta tin
tưởng, chẳng hạn như đường lối của chúng ta là đường lối duy
nhất cho nhân loại và kẻ nào đi theo đường lối khác là kẻ thù
của chúng ta, thì hàng triệu người có thể bị giết vì ý niệm
đó.
Tư duy nằm đằng sau
mọi việc. Ta cần phải để con mắt ý thức nằm đằng sau mỗi ý
nghĩ của mình. Không có sự hiểu biết đúng đắn về một hoàn cảnh
hay một con người, suy nghĩ của ta có thể lầm lạc và gây ra
hoang mang, tuyệt vọng, giận hờn, hay thù hận. Công việc quan
trọng nhất của chúng ta là phát triển sự hiểu biết đúng đắn.
Nếu chúng ta thấy được một cách sâu sắc bản chất tương tức,
nghĩa là tất cả nương nhau mà có mặt, chúng ta sẽ thôi không
còn trách móc, cãi vã, và giết hại, chúng ta sẽ trở nên bè bạn
với tất cả mọi người. Muốn thực tập bất bạo động, trước hết
chúng ta phải học cư xử một cách hoà bình với chính mình. Nếu
ta tạo được một sự hoà hợp đích thực trong chính con người
mình, chúng ta sẽ biết cách cư xử với gia đình, bạn bè, và
những người cộng tác với ta.
Khi phản đối chiến
tranh chẳng hạn, ta có thể cho rằng ta là một con người hiền
hoà, đại diện cho hoà bình, thế nhưng điều này lại có thể
không đúng. Nếu nhìn sâu, ta sẽ thấy rằng gốc rễ của chiến
tranh nằm ngay trong cách sống thiếu chánh niệm bao lâu nay
của chúng ta. Chúng ta chưa gieo trồng đủ những hạt giống bình
an và hiểu biết nơi ta và nơi những người khác, vì vậy chúng
ta liên đới chịu trách nhiệm: ‘Vì tôi như thế này, cho nên họ
như thế đó.’ Lối đặt vấn đề có tính toàn triệt hơn cả là lối
nhìn ‘tương tức’: ‘Cái này như thế này vì cái kia như thế
kia.’ Đây là con đường của Hiểu và Thương. Với cái thấy này,
ta có thể nhìn một cách sáng suốt và giúp cho chính phủ ta
nhìn một cách sáng suốt. Khi ấy ta có thể đi biểu tình và nói:
‘Cuộc chiến tranh này bất công, hủy diệt và không xứng đáng
với đất nước cao quý của chúng ta.’ Điều này hữu hiệu hơn là
giận dữ buộc tội cho nhau. Sự tức giận bao giờ cũng gây thêm
đổ vỡ.
Tất cả chúng ta, kể
cả những người theo chủ nghĩa hoà bình, đều có những nỗi khổ
niềm đau trong lòng. Chúng ta cảm thấy bực tức, thất vọng, và
chúng ta cần tìm một người nào đó sẵn sàng lắng nghe và có khả
năng hiểu được những nỗi khổ niềm đau của chúng ta. Trong nghệ
thuật mô tả bằng hình tượng của đạo Bụt có một vị Bồ Tát nghìn
tay nghìn mắt tên là Quan Thế Âm. Nghìn tay tượng trưng cho
hành động, và con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho sự
hiểu biết. Khi chúng ta hiểu một hoàn cảnh hay một con người
thì những gì chúng ta làm sẽ giúp được cho tình trạng và sẽ
không gây thêm đau khổ. Khi có con mắt ở trong bàn tay, chúng
ta sẽ biết cách thực tập bất bạo động đích thực.
Muốn thực tập bất
bạo động, trước hết ta phải thực tập với chính mình. Trong mỗi
chúng ta đều có một mức độ bao động và bất bạo động nào đó.
Tùy thuộc vào tình trạng của chúng ta lúc ấy, cách chúng ta
phản ứng đối với sự việc sẽ mang ít hay nhiều tính chất bạo
động. Cho dù ta có hãnh diện rằng mình là người ăn chay đi nữa
thì ta cũng phải công nhận rằng trong nước chúng ta luộc rau
có biết bao nhiêu là vi sinh vật. Chúng ta không thể hoàn toàn
bất bao động, nhưng với việc ăn chay, chúng ta đang đi về
hướng bất bạo động. Nếu muốn đi về hướng Bắc, ta có thể dùng
sao Bắc Đẩu để nhắm hướng, nhưng không thể nào đến được sao
Bắc Đẩu. Nỗ lực của chúng ta chỉ nhằm đi về hướng đó.
Ai cũng có thể thực
tập bất bạo động ở một mức nào đó, kể cả các tướng lĩnh quân
đội. Chẳng hạn họ có thể chỉ huy cuộc hành quân của mình như
thế nào để tránh không giết hại những người vô tội. Để giúp
những người lính đi về hướng bất bạo động, chúng ta phải tiếp
xúc với họ. Nếu chúng ta chia thực tại ra làm hai phe -- bạo
động và bất bạo động – rồi đứng về một phe chống lại phe kia,
thế giới sẽ không bao giờ có hoà bình. Chúng ta sẽ luôn trách
cứ và buộc tội những người chúng ta cho là chịu tránh nhiệm
cho tình trạng chiến tranh và bất công xã hội mà không hề nhận
ra mức độ bạo động trong chính con người mình. Chúng ta phải
cải hoá chính mình, đồng thời làm việc với những người chúng
ta buộc tội nếu muốn có một ảnh hưởng đích thực.
Vạch một ranh giới
và gạt một số người sang hàng ngũ kẻ thù -- dù là người hành
xử bạo động – chẳng bao giờ giúp được gì cả. Ta phải đến với
họ với tình thương trong trái tim ta và làm mọi cách có thể để
giúp họ đi về hướng bất bạo động. Nếu chúng ta hoạt động cho
hoà bình bằng sự phẫn nộ, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thành
công. Hoà bình không phải là điểm kết thúc. Hoà bình không bao
giờ có thể đến được bằng những phương tiện không hoà bình.
Quan trọng nhất là
trở thành bất bạo động, để khi một tình huống xảy đến,
chúng ta sẽ không tạo thêm đau khổ. Để thực tập bất bạo động,
chúng ta cần có sự nhẹ nhàng, từ, bi, hỷ, xả đối với thân tâm
mình, và đối với kẻ khác. Bằng chánh niệm -- sự thực tập bình
an – ta có thể bắt đầu bằng việc chuyển hoá những cuộc chiến
trong ta. Có những kỹ thuật để làm chuyện này. Hơi thở có ý
thức là một. Mỗi khi ta cảm thấy bất mãn, ta có thể ngưng
những gì mình đang làm, tránh không nói bất cứ điều gì, và thở
vào thở ra vài lần, ý thức từng hơi thở vào, ra. Nếu vẫn còn
không vui, ta có thể đi thiền hành, chánh niệm với từng bước
chân chậm rãi và từng hơi thở của mình. Nuôi dưỡng hoà bình
bên trong, chúng ta mang lại hoà bình cho xã hội. Tùy thuộc
vào ta cả. Tu tập hoà bình trong ta có nghĩa là giảm thiểu đến
mức tối đa những cuộc chiến tranh giữa cảm thọ này với cảm thọ
khác, ý niệm này với ý niệm khác, rồi ta cũng có thể có hoà
bình với những người khác, kể cả những thành viên trong gia
đình mình.
Tôi thường được
hỏi: ‘Nếu anh thực tập bất bạo động mà có người xông vào nhà,
bắt cóc con hay giết vợ mình thì sao? Anh phải làm gì? Anh có
còn hành xử theo cách bất bạo động không?’ Câu trả lời tùy
thuộc vào trạng thái của anh. Nếu đã có sự chuẩn bị, anh có
thể phản ứng một cách trầm tĩnh và thông minh, theo cách bất
bạo động nhất mà anh có thể làm. Nhưng muốn sẵn sàng để có thể
phản ứng với sự thông minh và bất bạo động, anh phải có sự rèn
luyện từ trước. Có thể phải mười năm, hay lâu hơn. Nếu chờ cho
đến khi có chuyện mới hỏi câu hỏi ấy thì sẽ quá muộn. Câu trả
lời theo kiểu nên-thế-này-hay-thế-khác sẽ là hời hợt vô ích. Ở
giây phút quyết định ấy, cho dù anh có biết rằng bất bạo động
thì tốt hơn là bạo động, nếu cái hiểu của anh chỉ ở trên trí
óc mà không nằm trong toàn bộ con người anh, anh sẽ không hành
xử bất bạo động. Sự sợ hãi và tức giận trong anh sẽ ngăn không
cho anh hành động theo cách bất bạo động nhất.
Chúng ta cần phải
nhìn sâu mỗi ngày để thực tập tốt Giới này. Mỗi lần mua sắm
hay tiêu thụ một thứ gì, ta có thể đang thao túng cho một dạng
giết chóc nào đó.
Trong khi thực tập
bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá, ta biết ta đang
bảo vệ cho chính mình. Ta cảm được mối dây liên hệ bền vững,
thân thương với tất cả mọi loài trên trái đất. Chúng ta được
bảo hộ bởi chánh niệm và lòng từ bi của Bụt và của bao thế hệ
Phật tử đã hành trì Giới pháp. Năng lượng từ bi này mang đến
cho ta cảm giác an ninh, lành mạnh và hoan hỷ, và như vậy mới
xứng đáng với giây phút mà chúng ta quyết định thọ trì giới
thứ nhất.
Xót thương chưa đủ.
Ta phải học cách biểu lộ tình thương ấy. Đó là vì sao ta phải
có hiểu biết đi kèm. Sự hiểu biết và tuệ giác chỉ cho ta nên
hành động như thế nào.
Kẻ thù đích thực
của chúng ta chính là sự lãng quên. Nếu chúng ta nuôi dưỡng
chánh niệm mỗi ngày và tưới tẩm những hạt giống bình an trong
ta và trong những người xung quanh ta, ta sẽ trở nên sống
động, và ta có thể giúp cho chính mình cũng như những người
khác đạt đến an ổn và từ bi.
Sự sống thật quý
giá, vậy mà trong đời sống hằng ngày ta lại thường bị cuốn
theo những quên lãng, giận hờn, và lo lắng, ta đắm chìm trong
quá khứ, và không có khả năng tiếp xúc với sự sống trong giờ
phút hiện tại. Khi chúng ta thật sự sống động, những gì ta làm
hay tiếp xúc đều là phép lạ. Thực tập chánh niệm tức là quay
trở về với sự sống trong giờ phút hiện tại. Phép thực tập của
Giới thứ nhất chính là một lễ hội tôn vinh sự sống. Khi chúng
ta biết trân quý cái đẹp của sự sống, chúng ta sẽ làm bất cứ
việc gì trong khả năng mình để bảo vệ cả cuộc đời.
GIỚI THỨ HAI
:
Mở Rộng Lòng
Ý thức được những
khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con
xin học theo hạnh đại từ để đem lại niềm vui sống và an lạc
cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và
tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải
do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác,
nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và
làm giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của con người và
của muôn loại.
Bóc
lột, bất công xã hội, và trộm cắp có nhiều dạng. Áp bức là một
dạng trộm cắp gây ra nhiều đau khổ ở cả các nước phát triển
lẫn các nước thế giới thứ ba. Giờ phút chúng ta phát nguyện
học phát triển lòng Từ thì lòng Từ phát khởi trong ta, và
chúng ta nỗ lực để ngăn chặn sự bóc lột, bất công xã hội, trộm
cắp, và áp bức.
Trong
Giới thứ nhất, chúng ta thấy có chữ ‘Bi.’ Ở đây, chúng ta thấy
có chữ ‘Từ.’ Từ và Bi là hai yếu tố của tình thương trong giáo
pháp của Bụt. Bi, tiếng Sankrit và Pali là Karuna, có
nghĩa là ý hướng và khả năng làm vơi đi nỗi khổ nơi một người
hay một chúng sinh khác. Từ, tiếng Sankrit là maitri và
tiếng Pali là metta, có nghĩa là ý hướng và khả năng
mang niềm vui tới cho một người hay một chúng sinh khác. Bụt
Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng vị Bụt kế tiếp sẽ có tên là
Maitreya hay Từ Thị, vị Bụt của Tình Thương.
‘Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và bất công
xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại Từ để đem lại niềm
vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài.’ Cho dù đã
có Maitri như một nguồn năng lượng trong ta, chúng ta vẫn cần
phải học nhìn sâu để biết cách biểu lộ lòng Từ ấy. Chúng ta
tập làm như những cá nhân, và rồi tìm cách để làm như một dân
tộc. Muốn nâng cao phúc lợi của con người, cỏ cây, cầm thú, và
đất đá, chúng ta phải đến với nhau như một cộng đồng để xem
xét tình trạng của mình, vận dụng thông minh và khả năng nhìn
sâu của chúng ta để có thể tìm ra những giải pháp thích hợp để
biểu hiện lòng Từ giữa những vấn đề có thật.
Giả sử
ta muốn giúp những người đang đau khổ dưới ách độc tài. Trong
quá khứ có thể ta đã từng thử gửi quân sang lật đổ nhà cầm
quyền của họ, nhưng ta đã thấy rằng trong khi làm như vậy, ta
gây ra chết chóc cho không biết bao nhiêu người vô tội, và dù
vậy, ta có thể vẫn không lật đổ được kẻ độc tài. Nếu chúng ta
tập nhìn sâu hơn, với lòng từ, để tìm một giải pháp tốt đẹp
hơn để giúp những người này mà không gây khổ đau, ta có thể
nhận ra rằng thời điểm tốt nhất để giúp là trước khi nước ấy
rơi vào tay độc tài. Nếu ta làm việc đó ba mươi năm trước thì
bây giờ nước đó có thể đã là một nước dân chủ, và ta đã không
phải bỏ bom hay gởi quân để ‘giải phóng’ họ. Đây chỉ là một ví
dụ về việc nhìn sâu và học hỏi có thể giúp ta tìm ra những
cách làm phù hợp với lòng Từ ra sao. Nếu chúng ta đợi cho đến
khi tình trạng trở nên tồi tệ rồi thì quá trễ. Nếu chúng ta
cùng hành trì Giới với các nhà chính trị, quân nhân, thương
gia, luật sư, người làm luật, nghệ sĩ, nhà văn, và nhà giáo,
thì chúng ta có thể tìm ra được những phương pháp tốt đẹp nhất
để thực tập Từ, Bi, và Hiểu Biết.
Muốn
thực tập tâm rộng rãi thì cần phải có thời gian. Chúng ta có
thể rất muốn giúp những người nghèo đói, nhưng chúng ta lại bị
kẹt vào những vấn đề trong cuộc sống hằng ngày của riêng mình.
Đôi lúc, một viên thuốc hay một chút gạo đã có thể cứu mạng
một em bé, nhưng ta lại không dành thời giờ để giúp, vì ta
nghĩ ta không có giờ. Ở thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn, có
những em bé sống ngoài hè phố, các em tự gọi mình là ‘bụi
đời.’ Những đứa trẻ này không nhà, lang thang ngoài đường ban
ngày và về ngủ dưới gốc cây ban đêm. Chúng bới những đống rác
để tìm những thứ như bao nylon để bán với giá hai xu nửa ký.
Các thầy và các sư cô ở thành phố Hồ Chí Minh đã mở cửa chùa
cho những đứa trẻ này, và nếu các em chịu ở lại bốn tiếng buổi
sáng để học đọc, học viết, chơi với quý thầy và quý sư cô, thì
các em được mời ăn cơm chay. Xong các em lại có thể vào Phật
đường ngủ trưa. (Ở Việt Nam, người ta luôn luôn ngủ trưa sau
khi ăn vì trời quá nóng. Khi người Mỹ đến, họ mang sang lối
làm việc tám giờ liên tục của mình, từ chín đến năm giờ. Nhiều
người trong chúng tôi thử làm, nhưng không làm được. Chúng tôi
cần giấc ngủ trưa lắm lắm.)
Đến hai
giờ, lại có thêm giờ học và chơi với các em, những em ở sinh
hoạt buổi chiều sẽ được ăn tối. Chùa không có chỗ cho các em
ngủ ban đêm. Trong cộng đồng chúng tôi ở bên Pháp, chúng tôi
vẫn đang yểm trợ cho quý thầy và quý sư cô này. Chỉ tốn có hai
mươi xu cho một đứa trẻ ăn trưa và ăn tối, và sẽ giữ em không
lang thang ngoài đường, nơi em có thể đánh cắp thuốc lá, hút
thuốc, dùng ngôn ngữ của du côn, và tập những lề thói xấu.
Bằng cách khuyến khích các em lại chùa, ta giúp ngăn không để
cho các em trở thành du đãng và phải vào tù sau này. Cần có
nhiều thời gian để giúp những em bé này, chứ không phải nhiều
tiền. Có biết bao nhiêu việc đơn giản như vậy ta có thể làm để
giúp người, nhưng vì ta không thể tự mình tháo gỡ bớt đi những
ràng buộc của hoàn cảnh và cách sống của mình, ta chẳng làm gì
cả. Chúng ta cần phải đến với nhau như một cộng đồng, nhìn
sâu, tìm ra những cách tháo gỡ cho mình để chúng ta có thể
thực tập Giới thứ hai.
‘...để chia xẻ thời giờ, năng lực, và tài vật của con đến
những kẻ thiếu thốn.’ Câu này thật rõ ràng. Có lòng và có
khả năng chưa đủ. Ta còn phải thể hiện tâm hào hiệp đó. Chúng
ta có thể có cảm tưởng mình không có thời giờ để mang hạnh
phúc cho người khác – ‘Thời giờ là tiền bạc,’ chúng ta nói –
nhưng thời giờ còn nhiều hơn là tiền bạc nữa. Đời sống có
nhiều ý nghĩa hơn là dùng thời giờ để kiếm tiền. Thời giờ là
để sống, để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc với mọi người. Người
giàu thường lại không có khả năng làm cho người khác hạnh
phúc. Chỉ có những người có thời giờ mới có thể làm điều này.
Tôi
biết một người đàn ông ở tỉnh Thừa Thiên, Bác Siêu, không
ngừng thực hành hạnh bố thí trong suốt năm mươi năm; Bác là
một vị Bồ Tát đích thực. Chỉ với một chiếc xe đạp, bác đã đến
thăm nhiều làng xã trong suốt mười ba tỉnh, mang cho nhà này
món này, nhà kia món kia. Khi tôi gặp Bác năm 1965, tôi hơi
hãnh diện về Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội của chúng tôi.
Chúng tôi đã bắt đầu huấn luyện cho ba trăm tác viên xã hội,
trong đó có các thầy và các sư cô, để đi đến các làng quê xa
xôi hẻo lánh giúp người dân cất nhà và đổi mới cơ cấu kinh tế
địa phương, hệ thống y tế, giáo dục. Rốt cuộc chúng tôi đã có
mười ngàn tác viên trong toàn quốc. Trong khi kể cho Bác Siêu
nghe về các đề án của trường, tôi nhìn chiếc xe đạp của Bác và
nghĩ rằng với một chiếc xe đạp Bác chỉ có thể giúp ít người
thôi. Nhưng khi người Cộng Sản tiếp quản và đóng cửa Trường
chúng tôi, Bác Siêu vẫn tiếp tục, vì cách làm việc của Bác vô
hình vô tướng. Các cô nhi viện, trạm phát thuốc, trường học,
và các trung tâm giúp người chạy loạn ổn định nơi chốn của
chúng tôi đều bị đóng cửa hay bị nhà nước tịch thu. Hàng ngàn
tác viên phải ngưng làm việc và ẩn lánh. Nhưng Bác Siêu không
có gì để mất. Bác là một vị Bồ Tát đích thực, làm việc vì phúc
lợi của kẻ khác. Tôi thấy khiêm nhượng hơn bây giờ về cách tu
tập hạnh Thí.
Chiến
tranh đã tạo ra hàng ngàn trẻ mồ côi. Thay vì gây quỹ để lập
cô nhi viện, chúng tôi đã tìm người bảo trợ ở các nước Tây
phương để xin bảo trợ cho từng em bé. Chúng tôi tìm các gia
đình trong làng chịu chăm sóc một em, và gởi cho họ $6 đô một
tháng để nuôi và cho em đi học. Bao giờ có thể chúng tôi đều
cố gửi em vào nhà bà con, dì, chú hoặc ông bà của em. Chỉ với
$6 đô, em bé được ăn và được học, những em bé khác trong gia
đình cũng được giúp theo. Trẻ em được lợi lạc rất nhiều khi
lớn lên dưới một mái gia đình. Sống trong cô nhi viện nhiều
khi giống như ở trong quân đội – các em không lớn lên một cách
bình thường. Nếu chúng ta chịu tìm và chịu học những cách để
thực hành hạnh Thí, chúng ta sẽ luôn có sự tiến bộ.
Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải
do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác,
nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và
làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và
của muôn loại.’ Khi ta hành trì một Giới cho sâu sắc, ta
sẽ khám phá ra rằng mình đang hành trì cả năm Giới. Giới thứ
nhất là về sự giết hại, một dạng lấy cắp -- lấy cắp đi cái quý
nhất của kẻ khác: mạng sống. Khi quán chiếu về Giới thứ hai,
chúng ta thấy trộm cắp, dưới hình thức bóc lột, đàn áp và bất
công xã hội, đều là những hành động giết hại -- giết từ từ
bằng sự bóc lột, duy trì tình trạng bất công, và đàn áp kinh
tế, chính trị. Vì vậy, Giới thứ hai dính dáng rất nhiều đến
Giới không giết hại. Chúng ta thấy tính ‘tương tức’ của hai
Giới đầu. Điều này cũng đúng với tất cả năm Giới. Có những
người chỉ thọ một hay hai Giới. Tôi không phiền gì cả, vì nếu
các bạn giữ một hay hai Giới cho sâu sắc thì cả năm Giới đều
sẽ được giữ.
Giới
thứ hai là không trộm cắp. Thay vì trộm cắp, bóc lột, hay đàn
áp, chúng ta thực tập Thí. Trong đạo Bụt, chúng ta nói có ba
loại tặng phẩm. Thứ nhất là tặng phẩm vật chất. Thứ hai là
giúp người tự lực tự cường, giúp cho họ kỹ thuật cũng như giúp
cho họ biết cách đứng vững trên hai chân mình. Giúp bằng chánh
Pháp để người ta có thể chuyển hoá những sợ hãi, giận hờn, và
tuyệt vọng của mình thuộc vào loại tặng phẩm thứ hai. Loại thứ
ba là món quà vô úy. Chúng ta sợ đủ thứ. Chúng ta cảm thấy
không an ninh, sợ cô đơn, sợ bệnh, sợ chết. Để giúp người
không bị tàn phá bởi những nỗi sợ hãi của mình, chúng ta thực
tập loại bố thí thứ ba.
Bồ Tát
Quan Thế Âm là người thực tập điều này rất giỏi. Trong Tâm
Kinh Bát Nhã, Ngài chỉ chúng ta cách chuyển hoá, vượt
thắng sợ hãi, và mỉm cười cưỡi trên sóng sinh tử. Ngài nói
rằng không có sinh, không có diệt, không có có, không có
không, không có tăng, không có giảm. Nghe như vậy giúp chúng
ta nhìn sâu vào bản chất của thực tại để thấy rằng sinh và
diệt, có và không, đến và đi, tăng và giảm đều là những ý niệm
mà chúng ta gán lên cho thực tại, trong khi đó, thực tại vượt
lên trên mọi khái niệm. Khi nhận ra được bản chất tương tức
của vạn vật – rằng ngay cả sinh và tử đều là những khái niệm –
chúng ta vượt thắng sợ hãi.
Năm
1991, tôi thăm một người bạn ở Nữu Ước đang trong tình trạng
hấp hối, Alfread Hassler. Chúng tôi đã cùng làm việc với nhau
trong phong trào hoà bình trong gần ba mươi năm. Có vẻ như
Alfred đã đợi tôi đến thăm trước khi ông ra đi, và ông đã qua
đời vài giờ sau cuộc thăm viếng ấy. Tôi đến cùng với người
đồng sự thân cận nhất, sư cô Chân Không.
Alfred không còn
tỉnh khi chúng tôi đến. Cô Laura, con gái ông, tìm cách thức
ông dậy nhưng không được. Tôi nhờ sư cô Chân Không hát Bài
Ca Không Đến Không Đi cho Alfred: ‘Mắt này không phải là
tôi, Tôi không bị kẹt vào nơi mắt ấy. Thân này không phải là
tôi, Tôi không bị kẹt vào nơi thân ấy. Tôi là sự sống thênh
thang, Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng
diệt’, lấy ý từ Kinh Tạp A Hàm.
Cô Chân Không hát rất hay, tôi thấy những dòng nước mắt lăn
trên má của vợ con ông Alfred. Đó là nước mắt của sự hiểu
biết, rất trị liệu.
Bỗng
Alfred hồi tỉnh lại. Sư Cô Chân Không bắt đầu thực tập những
gì Cô đã học được từ Kinh Giáo Hoá Người Bệnh. Sư Cô
nói: ‘Alfred, ông có nhớ thời chúng ta làm việc với nhau
không?’ Sư Cô nhắc lại nhiều kỷ niệm hạnh phúc chúng tôi đã
từng chia sẻ, Alfred nhớ lại được từng kỷ niệm một. Dù đau đớn
thấy rõ, ông đã mỉm cười. Sự thực tập này mang lại kết quả
ngay tức thời. Khi một người đang chịu những đau đớn về thân
thể, đôi lúc ta có thể làm vơi đi những đau đớn đó bằng cách
tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc trong họ. Thăng bằng được
lấy lại, và người ấy thấy đỡ đau.
Trong
lúc đó, tôi xoa bóp bàn chân ông, tôi hỏi ông có cảm thấy bàn
tay tôi không. Khi hấp hối, các phần trên thân thể ta trở nên
tê cứng, ta có cảm giác như mình đã mất đi những phần thân thể
ấy. Xoa bóp nhẹ nhàng trong chánh niệm cho người hấp hối cảm
giác ông vẫn còn sống và đang được quan tâm, săn sóc. Người ấy
biết tình thương có mặt. Alfred gật đầu, và mắt ông có vẻ như
nói: ‘Có, tôi cảm thấy tay Thầy. Tôi biết bàn chân tôi có đó.’
Sư Cô
Chân Không hỏi: ‘Ông có biết chúng tôi đã học rất nhiều từ ông
khi chúng ta sống và làm việc với nhau không? Công việc ông
khởi đầu, nhiều người trong chúng tôi vẫn đang tiếp tục. Ông
đừng lo gì cả.’ Sư Cô nói với ông nhiều điều như vậy, và ông
có vẻ bớt đau đớn. Có một lúc ông hé miệng nói: ‘Mầu nhiệm.
Mầu nhiệm.’ Và ông thiếp đi.
Trước
khi rời, chúng tôi khuyến khích gia đình ông tiếp tục làm như
vậy. Ngày hôm sau tôi được tin Alfred đã qua đời năm tiếng
đồng hồ sau khi chúng tôi ra về. Đây là một món quà thuộc vào
nhóm thứ ba. Nếu chúng ta có thể giúp cho người ta cảm thấy an
toàn, bớt sợ đời sống, con người, và cái chết, thì chúng ta
đang thực tập loại Thí thứ ba.
Có lần,
trong lúc thiền, tôi có một hình ảnh rất mầu nhiệm – hình dạng
một con sóng, khởi đầu và kết thúc. Khi các nhân duyên hội đủ,
chúng ta thấy con sóng, và khi nhân duyên không đầy đủ nữa,
chúng ta không còn thấy con sóng. Sóng được làm bằng nước. Ta
không thể dán lên con sóng nhãn hiệu có hay không có. Sau cái
mà chúng ta gọi là sự chấm dứt của con sóng, không có gì mất
đi, không có gì chết cả. Sóng đã rút về với nước, và bằng cách
này hay cách khác, thời gian sẽ mang sóng trở lại. Không có
tăng, giảm, sinh, hay diệt. Khi hấp hối, ta nghĩ rằng mọi
người đều đang sống, chỉ có mình đang chết mà thôi, cảm giác
cô đơn của chúng ta có thể không chịu đựng nổi. Nhưng nếu ta
có thể quán tưởng hàng trăm ngàn người đang cùng hấp hối với
ta, cái chết của chúng ta có thể sẽ trở nên thanh thản hay
thậm chí vui. ‘Tôi đang chết trong cộng đồng. Hàng triệu chúng
sinh cũng đang chết đi trong giờ phút này. Tôi thấy tôi đang
cùng với triệu triệu chúng sinh khác; chúng ta chết có tăng
thân. Đồng lúc ấy, triệu triệu chúng sinh cũng đang ra đời.
Tất cả chúng ta đều đang làm việc đó với nhau. Tôi vẫn đang
tiếp tục được sinh ra, và đồng thời đang chết. Chúng ta tham
dự vào toàn bộ sự việc ấy như một tăng thân.’ Đó là những gì
tôi thấy trong khi thiền quán. Trong Tâm Kinh, Bồ Tát
Quan Thế Âm chia sẻ tuệ giác này và giúp ta vượt thắng sợ hãi,
lo lắng, và đau đớn. Món quà Vô Úy mang lại một sự chuyển hoá
trong ta.
Giới
thứ hai là một pháp thực tập rất sâu. Chúng ta đã nói đến thời
giờ, năng lực, và tài vật, nhưng thời giờ không phải chỉ để
dành cho năng lực và của cải. Thời giờ là để có đó cho nhau --
có đó với một người đang hấp hối hay đang đau khổ. Thật sự có
mặt dù chỉ năm phút thôi cũng có thể đã là một món quà hết sức
quan trọng. Thời giờ không phải chỉ để làm ra tiền bạc. Thời
giờ là để tạo ra món quà Chánh Pháp và Vô Úy.
GIỚI THỨ BA :
Bảo Vệ
Tiết Hạnh
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm
gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ
tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã
hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ
hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất
chính sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con.
Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì
phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con
sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm
tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi
lứa.
Hành động tà dâm đã gây tàn
hoại cho không biết bao nhiêu cuộc đời, làm đổ vỡ không biết
bao nhiêu gia đình. Thực tập Giới thứ ba là để hàn gắn cho
mình và hàn gắn cho xã hội. Đó là sống có chánh niệm.
Giới thứ năm – không tiêu thụ
rượu, ma túy, và các độc tố gây ra – có liên hệ với Giới thứ
Ba. Cả hai đều liên quan đến lối sống có tính cách phá hoại và
làm mất đi sự vững chãi. Các Giới này là liều thuốc thích đáng
nhất cho chúng ta. Ta chỉ cần tự mình giữ giới, và thế nào
những người xung quanh ta cũng sẽ thấy được sự thật. Sự vững
chãi của bản thân ta cũng như của gia đình ta không thể có
được nếu không có sự hành trì hai Giới này. Nếu nhìn vào những
cá nhân và gia đình không có vững chãi và hạnh phúc, ta sẽ
thấy nhiều người trong số họ không thực tập hai Giới này. Ta
có thể tự mình chẩn bệnh, và ta nhận ra rằng thuốc trị cũng có
đó. Thực tập những Giới này là cách hay nhất để khôi phục lại
sự vững chãi trong gia đình và xã hội. Với một số người, Giới
này rất dễ thực tập, nhưng với một số người khác thì Giới này
lại rất khó giữ. Những người này cần phải đến với nhau và chia
sẻ kinh nghiệm.
Trong truyền thống đạo Bụt, ta
nói đến tính thống nhất của thân tâm. Cái gì xảy ra cho thân
cũng đồng thời xảy ra cho tâm. Sự trong sạch của thân thể cũng
là sự trong sạch của tâm hồn; sự bạo động của thân cũng chính
là sự bạo động của tâm. Khi giận, chúng ta nghĩ mình giận
trong tâm chứ không phải giận nơi thân, nhưng điều ấy không
đúng. Khi thương ai, ta muốn ở gần người đó, khi giận ai ta
lại không muốn đụng đến họ, hay bị họ đụng đến mình. Ta không
thể nói thân là riêng và tâm là riêng.
Quan hệ giới tính là một kết
hợp giữa thân thể và tâm hồn. Đây là một cuộc gặp gỡ hết sức
quan trọng, không thể hành động một cách tùy tiện, bê bối
được. Trong tâm hồn ta có những vùng riêng tư – những kỷ niệm,
những nỗi đau, những bí mật --, ta chỉ muốn chia sẻ với người
ta thương và tin cậy nhất mà thôi. Không phải với ai mình cũng
đem tâm can ra thổ lộ. Trong Hoàng Thành có một khu vực không
ai được bước đến, gọi là Tử Cấm Thành; chỉ có nhà Vua và thân
tộc mới được qua lại trong đó mà thôi. Trong tâm hồn ta cũng
có một vùng như vậy, ta không cho phép ai bước vào, ngoại trừ
người mà ta thương và tin cậy nhất.
Với thân thể cũng vậy. Có những
vùng nơi thân thể ta không muốn ai lại gần hay đụng đến, trừ
phi đó là người mà ta kính trọng, thương và tin cậy nhất. Khi
ta bị đụng chạm một cách bừa bãi, tùy tiện, với một thái độ
thiếu nhẹ nhàng tế nhị, ta cảm thấy bị sỉ nhục trong thân thể
và tâm hồn. Một người đến với ta bằng sự tôn trọng, nhẹ nhàng,
tế nhị, và hết lòng quan tâm mang lại cho ta một sự truyền
thông và cảm thông sâu sắc. Chỉ trong trường hợp đó ta mới
không cảm thấy bị tổn thương, xúc phạm, hay lợi dụng, cho dù
một mảy may. Điều này không thể xảy ra nếu không có tình
thương và sự cam kết đích thực. Quan hệ bừa bãi không thể được
gọi là tình yêu. Tình thương thì sâu, đẹp, và trọn vẹn.
Tình thương đích thực phải có
sự kính trọng. Trong văn hoá Á Đông, vợ chồng phải trân trọng
nhau như khách, khi thực tập kính trọng như vậy, tình thương
và hạnh phúc sẽ tiếp tục lâu dài. Trong quan hệ giới tính, sự
tôn trọng là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Sự kết
hợp giới tính phải giống như một nghi lễ, được cử hành trong
chánh niệm với sự tôn trọng, quan tâm, và thương yêu lớn. Tham
muốn không phải là tình thương. Thương là một cái gì thiên về
trách nhiệm. Trong tình thương có sự quan tâm chăm sóc.
Chúng ta phải khôi phục lại ý
nghĩa của chữ ‘yêu.’ Chúng ta đã sử dụng từ này một cách bừa
bãi. Khi ta nói, ‘Tôi yêu (thích) cà rem,’ ta không phải nói
về tình yêu. Ta đang nói về sự thèm ăn của ta, thèm món cà
rem. Ta không nên nói phóng đại và dùng sai từ như thế. Làm
như vậy, ta khiến cho các từ ngữ như ‘yêu’ bị bệnh. Chúng ta
phải nỗ lực để chữa lành cho ngôn ngữ chúng ta bằng cách thận
trọng trong khi dùng từ. Từ ‘yêu’ là một trong những từ rất
đẹp. Ta phải khôi phục lại ý nghĩa của nó.
‘Con nguyện không ăn nằm với
những người không phải là vợ hay chồng của con.’ Nếu chữ
‘yêu’ được hiểu theo nghĩa sâu sắc nhất của nó, tại sao chúng
ta phải nói đến ‘sự cam kết lâu dài’? Nếu tình thương có thật,
ta không cần phải có cam kết dài hay ngắn, hay thậm chí đám
cưới. Tình thương đích thực phải có ý thức trách nhiệm, chấp
nhận người kia như là chính họ, với những điểm mạnh và yếu kém
của người đó. Nếu ta chỉ thích những gì tốt đẹp nhất nơi người
đó thì đó không phải là tình thương. Ta phải chấp nhận những
yếu kém của người kia và mang sự kiên nhẫn, hiểu biết, và năng
lượng của mình để giúp người kia chuyển hoá. Tình thương là
phải là Từ, maitri, khả năng mang lại niềm vui và hạnh phúc,
và Bi, karuna, khả năng chuyển hoá nỗi khổ niềm đau. Tình
thương theo cách này chỉ mang lại sự tốt đẹp. Nó không thể
được diễn tả là tiêu cực hay hủy hoại. Tình thương như vậy an
toàn, và bảo đảm được tất cả.
Ta có nên thay đổi ‘cam kết lâu
dài’ bằng ‘cam kết ngắn hạn’ không? ‘Cam kết ngắn hạn’ có
nghĩa là ta có thể sống với nhau vài bữa rồi sau đó kết thúc
liên hệ. Đó không phải là tình thương. Nếu ta có một liên hệ
như vậy, ta không thể nói liên hệ đó đến từ tình thương và sự
quan tâm chăm sóc. ‘Cam kết lâu dài’ giúp người ta hiểu được ý
nghĩa của chữ ‘thương yêu.’ Trong một tình thương đích thực,
cam kết chỉ có thể là cam kết lâu dài. ‘Tôi muốn thương em.
Tôi muốn giúp em. Tôi muốn chăm sóc cho em. Tôi muốn phấn đấu
cho hạnh phúc. Nhưng chỉ trong vài hôm thôi.’ Có hợp lý chút
nào không?
Ta sợ phải cam kết -- với Giới,
với lứa đôi, và với mọi thứ. Ta muốn có tự do. Nhưng hãy nhớ
rằng, ta phải cam kết thương yêu con mình một cách sâu sắc,
giúp đỡ nó đi qua hành trình cuộc đời cho đến khi nào ta không
còn sống nữa. Ta không thể nói, ‘Ba không thương con nữa.’ Khi
ta có một người bạn tốt, ta cũng làm một cam kết lâu dài. Ta
cần người ấy. Huống hồ là với người muốn cùng ta chia sẻ cuộc
đời, tâm hồn, và thân thể. ‘Cam kết lâu dài’ không thể diễn tả
được chiều sâu của tình yêu, nhưng ta phải mượn từ để nói cho
người ta hiểu.
Sự cam kết lâu dài giữa hai
người chỉ là điểm khởi đầu. Chúng ta còn cần có sự nâng đỡ của
bạn bè và những người khác nữa. Đó là vì sao xã hội chúng ta
có lễ cưới. Hai gia đình cùng đến với bạn bè để làm chứng cho
sự kiện hai người về chung sống với nhau như một đôi lứa. Vị
chủ hôn và tờ hôn thú chỉ là những biểu tượng. Điều quan trọng
là sự cam kết của hai người được chứng minh bởi hai họ và
nhiều bè bạn. Bây giờ hai người có sự yểm trợ của những người
này. Một cam kết lâu dài sẽ mạnh và dài lâu hơn nếu được làm
trong khung cảnh của Tăng thân.
Tình cảm sâu đậm của hai người
rất quan trọng, nhưng không đủ để duy trì hạnh phúc. Không có
những yếu tố khác, cái mà ta gọi là tình yêu chẳng bao lâu sẽ
có thể trở thành chua chát. Sự cùng đến yểm trợ của gia đình
và bạn bè đã dệt nên một mạng lưới. Sức mạnh của tình cảm hai
người chỉ là một sợi tơ trong mạng lưới đó. Được yểm trợ bởi
nhiều yếu tố, đôi lứa ấy sẽ vững hơn, như một cái cây. Nếu cái
cây muốn khoẻ mạnh, nó cần phải cắm một số rễ sâu vào lòng
đất. Nếu cái cây chỉ có một cái rễ, nó có thể sẽ bị gió lật
trốc. Đời sống lứa đôi cũng cần có sự hổ trợ của nhiều yếu tố
khác nhau – gia đình, bè bạn, lý tưởng, tu tập, và Tăng thân.
Ở
Làng Mai, cộng đồng tu tập nơi tôi sống tại Pháp, mỗi khi có
một Lễ Cưới, cả cộng đồng được mời tới để ăn mừng và hổ trợ
cho hai người. Sau Lễ cưới, mỗi ngày rằm, hai vợ chồng đọc lại
Năm Điều Ước nguyện với nhau, nhớ lại rằng bạn bè khắp nơi đều
đang nâng đỡ cho liên hệ của họ được vững bền và hạnh phúc.
Cho dù liên hệ của hai người có được kết hợp bởi luật pháp hay
không, nó cũng sẽ mạnh và bền hơn nếu được cam kết với sự hiện
diện của Tăng thân -- những người bạn thương mến và muốn yểm
trợ mình trong tinh thần của Hiểu và Từ Bi.
Tình yêu có thể là một căn
bệnh. Ở Tây phương cũng như Á Châu đều có từ ‘bệnh tương tư.’
Cái làm chúng ta bệnh là sự ràng buộc. Dù đó là một nội kết
ngọt ngào, thứ tình thương ràng buộc này cũng giống như thuốc
phiện. Nó làm cho chúng ta thấy khoan khoái, nhưng một khi đã
nghiện ngập, ta không còn một chút bình an nào nữa. Ta không
thể học, không thể làm việc gì, thậm chí không thể ngủ. Ta chỉ
nghĩ đến đối tượng kia thôi. Ta bị bệnh vì tình. Thứ tình này
dính líu đến ước muốn chiếm hữu và độc quyền của ta. Ta muốn
đối tượng tình yêu của ta phải hoàn toàn thuộc về ta và chỉ
riêng cho ta mà thôi. Đó là sự chuyên chế. Ta không muốn ai
ngăn không cho ta ở gần người đó cả. Thứ tình yêu này có thể
được gọi là nhà tù, nơi ta giam cầm người ta thương và chỉ gây
khổ đau cho người ấy. Người bị thương bị tước đoạt đi tự do --
quyền được là mình và vui sống. Thứ tình yêu này không thể
được gọi là Từ (maitri) hay Bi (karuna.) Nó chỉ là ước muốn
dùng người khác để thoả mãn những nhu cầu của mình mà thôi.
Khi có những năng lượng tình
dục làm cho ta không hạnh phúc, mất đi sự an ổn nội tại, ta
cần phải biết thực tập để không làm những việc mang lại khổ
đau cho người và cho mình. Ta phải học điều này. Ở châu Á, ta
nói có ba loại năng lượng – tinh, khí, và thần. Tinh,
năng lượng tình dục, là loại đầu. Khi ta có nhiều năng lượng
tình dục hơn mức độ cần thiết, cơ thể và toàn bộ con người ta
sẽ mất quân bình. Ta cần phải biết làm sao để tái lập lại quân
bình, nếu không ta sẽ có thể hành xử một cách vô trách nhiệm.
Trong đạo Lão và đạo Bụt, có những phép thực tập giúp tái lập
lại sự quân bình này, như tập thiền hay võ thuật. Ta có thể
học những cách để chuyển năng lượng tình dục này sang những
mức độ thành đạt sâu trong nghệ thuật và thiền tập.
Nguồn năng lượng thứ hai là
khí, hơi thở. Sự sống có thể được xem như một tiến trình
đốt cháy. Để đốt, mỗi tế bào trong cơ thể ta cần thức ăn và
dưỡng khí. Trong Kinh Lửa, Bụt nói, ‘Mắt đang cháy, mũi
đang cháy, thân đang cháy.’ Trong đời sống hằng ngày, ta phải
nuôi dưỡng năng lượng của mình bằng cách thực tập thở cho
đúng. Chúng ta nhờ không khí và oxygen trong đó, vì vậy ta
phải cẩn thận tránh không khí ô nhiễm. Có những người nuôi
dưỡng khí bằng cách tránh hút thuốc và chuyện trò, hay thực
tập hơi thở chánh niệm sau khi phải nói nhiều. Khi nói, ta nhớ
dành thì giờ để thở. Ở Làng Mai, mỗi khi nghe chuông chánh
niệm, mọi người đều dừng lại những gì họ mình đang làm và thở
ba hơi thở có ý thức. Chúng tôi thực tập như vậy để phát triển
và giữ gìn năng lượng khí.
Nguồn năng lượng thứ ba là
thần, năng lượng của tinh thần. Khi không ngủ ban đêm, ta
mất một số năng lượng này. Hệ thần kinh của chúng ta trở nên
mệt mỏi và ta không thể học, hành thiền hay quyết đoán tốt
được. Thần trí ta không minh mẫn vì thiếu ngủ hoặc lo lắng quá
độ. Lo nghĩ, bồn chồn làm kiệt quệ năng lượng này.
Vậy thì đừng lo lắng. Đừng thức
khuya quá. Giữ hệ thống thần kinh của mình cho khoẻ mạnh.
Tránh bồn chồn. Những thực tập như vậy nuôi dưỡng nguồn năng
lượng thứ ba. Ta cần năng lượng này để thực tập thiền cho tốt.
Sự khai mở tâm linh cần sức mạnh tinh thần, có được nhờ định
và nhờ biết bảo tồn nguồn năng lượng này. Khi có năng lượng
tinh thần mạnh, ta chỉ cần chuyên tâm vào đối tượng, và ta sẽ
có sự khai mở. Không có thần, ánh sáng định sẽ không toả sáng,
vì ngọn đèn phát ra rất yếu ớt.
Theo y học Á Đông, thần lực có
liên hệ đến tinh lực. Tiêu xài tinh lực thì cần phải có thời
gian mới khôi phục lại được. Trong y học Trung Quốc, muốn có
một tinh thần và một định lực mạnh, ta được khuyên phải tránh
có liên hệ giới tính hay ăn uống quá độ. Người ta dùng dược
thảo, rễ cây và thuốc để bồi bổ thần, và trong khi uống thuốc
ta phải tránh các liên hệ giới tính. Nếu thần yếu mà ta vẫn
tiếp tục quan hệ tình dục, Trung Y cho rằng thần lực sẽ không
thế nào cứu vãn được. Những ai tập thiền nên tập gìn giữ tinh
lực vì họ cần đến năng lượng này trong thiền tập. Nếu là một
nghệ sĩ, có lẽ bạn cũng nên thực tập chuyển tinh và thần của
mình vào tác phẩm.
Trong cuộc tranh đấu dành lại
độc lập cho Ấn Độ từ tay người Anh, ông Gandhi đã tuyệt thực
nhiều lần, và ông đã khuyên những người bạn tham dự tuyệt thực
với ông trong khi nhịn ăn không nên giao hợp. Khi đã nhịn ăn
nhiều ngày rồi mà còn có quan hệ giới tính thì có thể chết;
phải biết bảo tồn năng lượng. Một người bạn của tôi, thầy Trí
Quang, đã nhịn ăn một trăm ngày ở nhà thương Sài Gòn nằm 1966,
biết rất rõ không hành dục là điều rất cơ bản. Dĩ nhiên, là
một thầy tu, Thầy không có vấn đề gì với chuyện ấy. Thầy cũng
biết rõ rằng nói chuyện làm hao hơi tổn khí, thầy cũng tránh
nói chuyện. Khi cần gì, Thầy chỉ nói một hay hai chữ, hoặc
viết xuống. Viết, nói, hay cử động nhiều đều lấy đi năng lượng
từ ba nguồn này. Vậy thì hay nhất là nằm xuống và tập thở sâu.
Thở như vậy sẽ mang lại cho ta sức sống cần thiết để đi qua
cơn tuyệt thực một trăm ngày. Một khi không ăn, ta không thể
tiếp vào năng lượng dinh dưỡng. Nếu ta bớt đi việc học, nghiên
cứu, hay lo nghĩ, ta có thể bảo tồn được nguồn năng lượng này.
Ba nguồn năng lượng đều có liên hệ với nhau. Tu dưỡng một
nguồn, ta cũng giúp những nguồn kia. Đó là vì sao
anapanasati, sự thực tập hơi thở có ý thức, là rất quan
trọng trong nếp sống tâm linh. Sự thực tập này trợ giúp cho
tất cả mọi nguồn năng lượng khác trong ta.
Những người xuất gia, nam hay
nữ, không có những quan hệ giới tính vì họ muốn dồn hết năng
lượng của mình để có sự khai mở trong thiền tập. Họ học cách
chuyển tinh lực của mình sang tăng cường cho năng lượng tinh
thần để có sự khai mở. Họ cũng thực tập thở sâu để tăng thêm
năng lượng tinh thần. Sống đời sống độc cư, không có gia đình,
họ có thể dồn hầu hết thời gian của mình cho thiền tập và
giảng dạy, giúp những người cung cấp tứ sự cho mình. Họ tiếp
xúc với dân trong làng để chia sẻ Chánh Pháp. Vì không có nhà
hay gia đình để phải chăm sóc, họ có không gian và thời gian
để làm những việc họ ưa thích nhất – đi thiền, ngồi thiền,
thở, giúp những người xuất gia và tại gia tu học – và đạt được
điều họ mong muốn. Người xuất gia không lập gia đình để bảo
tồn thời giờ và năng lượng cho sự tu tập.
‘Trách nhiệm’ là từ then chốt
trong Giới thứ Ba. Trong một cộng đồng tu tập, nếu không có tà
hạnh, nếu cộng đồng đó thực tập Giới này giỏi, thì sẽ có sự
vững chãi và an bình. Mọi người đều cần phải thực tập Giới
này. Ta tôn trọng, yểm trợ, và bảo hộ lẫn nhau như những người
anh, người chị, người em trong Đạo. Nếu không thực tập Giới
này, ta có thể sẽ trở nên vô trách nhiệm và tạo vấn đề rắc rối
cho cộng đồng tu tập của ta và cộng đồng lớn bên ngoài. Chúng
ta đã từng thấy điều này. Nếu một vị thầy mà không tự chế
được, ngủ với đệ tử, thì vị ấy sẽ hủy hoại tất cả, có thể là
vài thế hệ lận. Chúng ta cần chánh niệm để có ý thức trách
nhiệm này. Chúng ta không tà hạnh vì chúng ta có tránh nhiệm
đến sự an nguy của bao nhiêu người. Nếu vô trách nhiệm, ta có
thể sẽ làm đổ vỡ tất cả. Thực tập Giới này, ta giữ cho Tăng
Đoàn còn đẹp mãi.
Trong quan hệ giới tính, người
ta có thể bị thương tổn. Thực tập Giới này là để ngăn không để
cho mình và kẻ khác bị thương. Thường ta nghĩ rằng chỉ có
người phụ nữ mới bị thương, nhưng người đàn ông cũng bị thương
rất nặng. Chúng ta phải hết sức cẩn thận, nhất là trong những
cam kết ngắn hạn. Thực tập Giới thứ ba là cách hữu hiệu nhất
để khôi phục lại sự bình an và vững chãi trong ta, trong gia
đình và xã hội ta. Chúng ta phải dành thời gian để thảo luận
về những vấn đề liên quan đến sự thực thập Giới này, như cô
đơn, quảng cáo, thậm chí cả vấn đề mãi dâm.
Cảm giác cô đơn rất phổ biến
trong xã hội ta. Không có truyền thông giữa ta và người khác,
kể cả những người trong gia đình; cảm giác cô đơn thúc đẩy ta
đi đến chỗ quan hệ tình dục. Ta tin tưởng một cách ngây thơ
rằng quan hệ tình dục sẽ giúp ta cảm thấy bớt cô đơn, nhưng
điều ấy không đúng. Khi không có đủ truyền thông với người
khác về mặt tâm hồn, quan hệ tình dục sẽ đào sâu thêm hố ngăn
cách và hủy diệt cả hai bên. Quan hệ của ta sẽ đầy bão tố, ta
sẽ chỉ làm khổ nhau. Niềm tin rằng quan hệ giới tính sẽ giúp
ta giải toả cô đơn là một thứ mê tín. Ta không nên bị nó đánh
lừa. Trên thực tế, ta sẽ cảm thấy còn cô đơn hơn sau đó.
Sự kết hợp của hai thân thể chỉ
tích cực khi nào có hiểu biết và cảm thông về mặt tâm hồn.
Ngay cả giữa vợ và chồng, nếu sự cảm thông về tâm hồn không có
đó, thì sự đến với nhau của hai thân thể chỉ làm cho hai người
xa cách nhau thêm. Trong trường hợp đó, tôi khuyên các bạn hãy
tránh quan hệ thân xác và tìm cách tái lập truyền thông trước
đã.
Tiếng Việt có hai chữ tình
và nghĩa, rất khó dịch ra tiếng Anh. Hai chữ đều có
nghĩa gần giống với thương yêu. Trong tình, ta thấy có yếu tố
say mê sôi nổi. Sự say mê này có thể rất sâu, tràn ngập cả con
người mình. Nghĩa là một loại tiếp nối của tình. Với nghĩa ta
thấy đằm hơn, có nhiều hiểu biết hơn, sẵn sàng hy sinh để làm
cho người kia hạnh phúc hơn, trung thành hơn. Ta không còn
hăng say như trong tình, nhưng tình thương của ta sâu hơn và
bền hơn. Nghĩa sẽ giữ hai người với nhau lâu dài. Đó là kết
quả của sự sống chung và chia sẻ niềm vui và gian khó trong
thời gian dài.
Ta bắt đầu bằng sự đam mê,
nhưng sống với nhau ta gặp phải khó khăn, và nhờ tìm cách ứng
phó với những khó khăn này mà tình yêu của ta sâu đậm thêm.
Trong khi sự đam mê phai lạt thì nghĩa lại mỗi lúc một tăng
trưởng. Nghĩa là một thứ tình thương sâu hơn, với nhiều trí
tuệ hơn, tương tức hơn, đoàn kết hơn. Ta hiểu người kia hơn.
Ta và người kia trở nên một thực thể. Nghĩa giống như một trái
cây đã chín. Nó không còn chua chát nữa; chỉ có vị ngọt thôi.
Trong nghĩa, ta thấy biết ơn
người kia. ‘Cảm ơn vì đã chọn tôi. Cảm ơn vì đã làm vợ hay
chồng tôi. Có biết bao nhiêu người ngoài kia, tại sao lại chọn
tôi? Tôi rất biết ơn.’ Đó là chỗ bắt đầu của nghĩa, cảm giác
biết ơn người ấy đã chọn mình làm người bạn đồng hành để chia
sẻ những gì tốt đẹp nhất của người ấy, cũng như những hạnh
phúc và khổ đau của mình.
Khi sống chung, ta hổ trợ lẫn
nhau. Ta bắt đầu hiểu được cảm thọ và những khó khăn của nhau.
Khi người kia tỏ ra hiểu được những vấn đề, khó khăn, và chí
hướng sâu xa của mình, ta cảm thấy biết ơn sự hiểu biết đó.
Khi thấy được người khác hiểu, ta không còn khổ sở nữa. Hạnh
phúc, trước hết là cảm thấy được hiểu. ‘Tôi biết ơn vì anh đã
chứng tỏ là anh hiểu tôi. Trong khi tôi đang gặp khó khăn và
thao thức trắng đêm, anh săn sóc tôi. Anh tỏ cho tôi thấy rằng
sự an nguy của tôi cũng là sự an nguy của anh. Anh đã làm
những điều không thể làm được để mang lại an ổn cho tôi. Anh
đã săn sóc tôi theo một cách mà không ai trên đời này có thể
có được. Vì vậy tôi biết ơn anh.’
Nếu hai người sống với nhau lâu
dài, ‘cho đến khi đầu bạc răng long’, đó là vì nghĩa, không
phải là vì tình. Tình là tình thương say đắm bồng bột. Nghĩa
là thứ tình thương có nhiều hiểu biết và biết ơn ở trong.
Mọi tình thương đều có thể bắt
đầu bằng sự say mê, nhất là với người trẻ. Nhưng trong quá
trình sống với nhau, họ phải học và thực tập yêu thương, để sự
ích kỷ -- khuynh hướng chiếm hữu -- sẽ bớt đi, và yếu tố hiểu
biết, thương yêu sẽ tụ lại dần dần, cho đến khi tình thương
của họ trở nên nuôi dưỡng, bảo vệ, và bảo đảm, yên tâm. Với
nghĩa, ta biết chắc người kia sẽ chăm sóc ta và thương ta cho
đến khi đầu bạc răng long. Không có gì bảo đảm được người kia
sẽ ở mãi với ta, ngoại trừ nghĩa. Nghĩa được bồi đắp bởi hai
người trong đời sống hằng ngày.
Thiền là nhìn vào bản chất của
tình thương của mình để xem những yếu tố nào có mặt trong đó.
Ta không thể nói tình thương của mình chỉ là tình hay nghĩa,
chiếm hữu hay vị tha, bởi trong tình thương có thể có cùng một
lúc hai yếu tố. Có thể có chín mươi phần trăm là tình yêu
chiếm hữu, ba phần trăm tình thương vị tha, hai phần trăm sự
biết ơn, v.v... Hãy nhìn sâu vào bản chất tình thương của mình
để nhận diện ra. Hạnh phúc của người kia và hạnh phúc của bạn
tùy thuộc vào bản chất của tình thương của bạn. Lẽ đương nhiên
ta có tình thương, nhưng điều quan trọng là bản chất của tình
thương đó. Nếu ta nhận thấy có nhiều Từ và Bi trong tình
thương của mình, thì tình thương ấy rất đáng yên tâm. Nghĩa sẽ
bền trong tình thương ấy.
Con cái, nếu chịu khó nhìn kỹ
sẽ thấy điều giữ cha mẹ mình lại với nhau chính là nghĩa chứ
không phải tình say đắm. Nếu cha mẹ biết săn sóc cho nhau,
trông nom con cái với sự bình tĩnh, dịu dàng, quan tâm, thì
nghĩa chính là nền tảng của sự quan tâm đó. Đó là thứ tình
thương chúng ta rất cần cho gia đình và xã hội ta.
Trong việc thực tập Giới thứ
ba, chúng ta phải luôn luôn nhìn vào bản chất tình thương của
mình để thấy rõ và không bị gạt bởi cảm thọ của mình. Đôi khi
ta nghĩ ta thương một người, nhưng tình thương ấy có thể chỉ
là một cố gắng để thoả mãn những nhu yếu vị kỷ của mình mà
thôi. Có thể ta chưa nhìn sâu đủ để thấy những nhu yếu của
người kia, trong đó có nhu yếu được an toàn, được bảo vệ. Nếu
có cái nhìn khai mở đó, ta sẽ nhận ra rằng người kia cần sự
bảo vệ của ta, và ta không thể xem người ấy đơn thuần như một
đối tượng của sự ham muốn của mình. Người kia không nên bị xem
là một món hàng.
Tình dục trong xã hội ta bị
dùng như một phương tiện để bán các mặt hàng. Chúng ta còn có
cả ngành kinh doanh tình dục. Nếu ta không nhìn kẻ khác như
những con người, với khả năng thành Bụt, ta có nguy cơ phá
Giới này. Vì vậy, việc thực tập nhìn sâu vào bản chất của tình
thương chúng ta có liên hệ rất nhiều đến sự thực tập Giới thứ
ba.
‘Con sẽ làm mọi cách có thể
để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ
vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.’ Những người
bị quấy rối tình dục khi còn nhỏ vẫn tiếp tục đau khổ rất
nhiều. Những gì họ nghĩ, nói, và làm đều mang dấu tích của vết
thương đó. Họ muốn chuyển hoá mình và làm lành vết thương đó,
cách hay nhất để làm việc này chính là hành trì Giới thứ ba.
Từ kinh nghiệm của chính mình, họ có thể nói: ‘Là nạn nhân của
việc lạm dụng tình dục, tôi nguyện bảo vệ tất cả mọi trẻ em và
người lớn khỏi nạn xâm phạm tình dục.’ Khổ đau của ta biến
thành một loại năng lượng tích cực, giúp ta trở thành một vị
Bồ Tát. Ta nguyện bảo vệ mọi trẻ em cũng như mọi người. Và ta
cũng nguyện giúp những người đã lợi dụng tình dục trẻ
em, vì họ là những người bệnh, cần sự giúp đỡ của ta. Những kẻ
làm ta đau khổ trở thành đối tượng của tình thương và sự bảo
hộ của chúng ta. Những kẻ sẽ xâm phạm trẻ em trong tương lai
cũng trở thành đối tượng của tình thương và bảo hộ của ta.
Ta thấy rằng cho đến bao giờ
những người bệnh hoạn được bảo hộ và giúp đỡ, thì trẻ em vẫn
tiếp tục bị lạm dụng tình dục. Ta nguyện giúp những người này
để họ không còn xâm phạm trẻ em nữa. Đồng thời, ta nguyện giúp
trẻ em. Ta không chỉ đứng về phía những trẻ em bị xâm phạm, ta
cũng đứng về phía bên kia nữa. Những người quấy nhiễu trẻ em
là những người bệnh, sản phẩm của một xã hội bất ổn. Họ có thể
là một ông chú, bà dì, ông, bà, hay cha, mẹ. Họ cần phải được
theo dõi, giúp đỡ, và, nếu có thể, trị lành. Khi ta quyết tâm
giữ Giới này, năng lượng phát sinh trong tâm ta giúp ta trở
thành một vị Bồ Tát, và sự chuyển hoá này có thể chữa lành cho
ta thậm chí trước khi ta bắt đầu thực tập. Cách hay nhất cho
những người bị xâm phạm thời thơ ấu chữa lành vết thương là
thọ Giới này và phát nguyện bảo vệ trẻ em và những người lớn
bị bệnh, những kẻ có thể sẽ tiếp diễn những hành động phá
hoại, khiến cho một đứa trẻ sẽ bị thương tích suốt đời.
GIỚI THỨ TƯ : Ái
Ngữ và Lắng Nghe
Ý thức được những
khổ đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo
hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và
làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem
lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những
lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời
chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con
nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những
lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những
tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên
án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những
điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể,
những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Tục ngữ Việt Nam có
câu: ‘Lời nói chẳng mất tiền mua.’ Ta chỉ cần cân nhắc lựa lời
là có thể làm cho người khác đẹp lòng. Dùng ngôn ngữ cho có
chánh niệm, với tâm Từ, là thực tập hạnh rộng rãi, hiến tặng.
Vì vậy Giới này có liên hệ trực tiếp tới Giới Thứ Hai. Chỉ cần
thực tập ái ngữ ta đã có thể làm cho nhiều người hạnh phúc.
Một lần nữa ta lại thấy tính tương dung của Năm Giới.
Nhiều người nghĩ
rằng họ chỉ có thể thực tập hạnh Thí khi nào họ đã tích tụ
được một món tài sản nho nhỏ. Tôi biết những người trẻ mơ được
giàu có để có thể mang hạnh phúc lại cho người khác: ‘Tôi muốn
trở thành bác sĩ hay thành chủ tịch một công ty lớn để có thể
làm thật nhiều tiền và giúp nhiều người.’ Họ không biết rằng
thường khi đã giàu người ta lại khó thực tập hạnh Thí hơn. Nếu
ta được thúc đẩy bởi từ bi thì có rất nhiều cách để mang hạnh
phúc lại cho kẻ khác ngay bây giờ, bắt đầu bằng ngôn ngữ thân
ái. Cách ta nói có thể mang lại cho người khác niềm vui, hạnh
phúc, sự tự tin, hy vọng, lòng tin, và giác ngộ. Nói năng có
chánh niệm là một thực tập sâu sắc.
Bồ Tát Quan Thế Âm
là một người đã học được nghệ thuật nghe và nói một cách sâu
sắc để giúp người ta buông đi những sợ hãi, khổ đau, và tuyệt
vọng của mình. Ngài là mẫu mực của phép tu tập này, cánh cửa
Ngài mở ra gọi là ‘Phổ Môn’, cánh cửa mở ra tất cả. Nếu chúng
ta thực tập nghe và nói theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm, ta cũng
sẽ có thể mở được cánh cửa Phổ Môn và mang niềm vui, an lạc
đến cho bao người và làm vơi đi nỗi lầm than của họ.
‘Hải chấn triều âm
thuyết Phổ Môn
Cửu liên hoa lý hiện đồng chơn
Dương chi nhất đích chơn Cam Lộ
Tán tác sơn hà đại địa xuân.’
(Phổ Môn vọng tiếng
triều dâng
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đoá sen
Cam Lộ một giọt rưới lên
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.)
Tôi biết bài thơ đẹp này khi học Kinh Pháp Hoa ở tuổi mười
sáu. Khi ta nghe ‘tiếng hải triều’, phép tu của Bồ Tát Quan
Thế Âm, tượng trưng cho cánh cửa Phổ Môn, ta biến thành đứa bé
sinh ra trong lòng hoa sen. Chỉ một giọt nước từ bi từ cành
dương liễu của Bồ Tát, mùa xuân trở về trên trái đất khô cằn
của chúng ta. Trái đất khô cằn tượng trưng cho thế giới của
lầm than, đau khổ. Giọt nước từ bi là sự tu tập tâm Từ, tượng
trưng bởi giọt nước trên cành dương liễu. Bồ Tát Quan Thế Âm
được người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, và Nhật Bản miêu
tả như một người cầm nhành dương liễu. Ngài nhúng nhành dương
vào nước từ bi trong trái tim Ngài, nơi nào Ngài rảy nước ấy
lên thì nơi ấy đều có sự hồi sinh. Khi Ngài rảy nước Cam Lộ ấy
lên những cành cây khô, chết, thì những cành cây ấy xanh tươi
trở lại. Những cành cây chết cũng tượng trưng cho đau khổ, lầm
than; cây cỏ xanh tươi tượng trưng cho sự quay về của an lạc.
Chỉ cần một giọt nước ấy thôi, mùa Xuân đã trở về trên Đại
Địa.
Trong
Phẩm ‘Phổ Môn’ của Kinh Pháp Hoa, tiếng nói của Bồ Tát
Quan Thế Âm (Avalokitesvara) được diễn tả bằng năm cách:
‘Tiếng Nhiệm, Tiếng Quan Âm, Tiếng Phạm, tiếng Hải Triều,
Tiếng Vượt Thoát Tiếng Đời. Hãy thường nên quán niệm.’
Trước
hết là tiếng Nhiệm mầu (Diệu Âm.) Đây là thứ ngôn ngữ mở ra
cánh cửa Phổ Môn và khiến cho tất cả đều được khai thông trở
lại. Thứ tiếng này rất dễ nghe. Thứ tiếng này làm cho khoẻ
khoắn, đem đến sự bình tĩnh, yên ủi, và trị liệu cho tâm hồn.
Bảnchất của âm thanh này là từ bi.
Thứ hai
là tiếng Quan Âm (Quán Thế Âm.) Avalokitesvara có nghĩa là
‘người nhìn sâu vào cuộc đời và lắng nghe tiếng kêu thương của
cuộc đời.’ Tiếng này làm vơi đi những nỗi khổ niềm đau của
chúng ta, vì đó là tiếng của người hiểu ta một cách sâu sắc --
những đau đớn, tuyệt vọng, và sợ hãi của ta. Khi thấy mình
được hiểu, chúng ta bớt khổ đi rất nhiều.
Thứ ba là tiếng
Phạm (Phạm Âm.) Phạm (Brahma) có nghĩa là cao quý – không phải
là tiếng thường tình, mà là ngôn ngữ cao quý, phát sinh xuất
từ ước muốn mang lại hạnh phúc và lấy đi khổ đau. Từ, Bi, Hỷ,
và Xả là Tứ Phạm Trú (Brahmaviharas), chỗ cư trú cao quý của
chư Bụt và chư vị Bồ Tát. Nếu ta muốn chung sống với chư Bụt
và chư vị Bồ Tát, ta có thể an trú trong bốn toà nhà này.
Trong thời của Bụt,
mục đích tu tập của nhiều người là để sinh và sống chung với
Phạm Thiên. Điều này cũng giống như phép tu của đạo Ki-tô,
muốn lên thiên đường sống với Thượng Đế. ‘Trong nhà của Cha ta
có rất nhiều toà nhà lớn,’ và các bạn muốn sống trong một
trong những toà nhà đó. Với những người muốn cộng trú với Phạm
Thiên, Bụt nói: ‘Hãy thực tập bốn nơi cư trú cao quý: Từ, Bi,
Hỷ, và Xả.’ Nếu ta muốn chia sẻ một lời dạy của Bụt với những
người bạn theo đạo Ki-Tô thì cũng vậy: ‘Thượng đế là tình
thương, bác ái, niềm vui, và sự công bình không thiên vị.’ Nếu
anh muốn sống với Thượng Đế thì hãy thực tập bốn nơi an trú
đó. Nếu anh không thực tập bốn điều này, thì cho dù anh có cầu
nguyện hay nói về sống với Chúa bao nhiêu đi nữa cũng không
làm sao có được chuyện lên Thiên Đường.
Thứ tư, tiếng Hải
Triều (Hải Triều Âm) là tiếng của Phật Pháp. Đây là một thứ
tiếng mầu nhiệm, thứ tiếng có thể làm im bặt mọi tà kiến và ức
đoán. Đó là tiếng Sư Tử Hống, mang lại sự im lặng tuyệt đối
cho núi rừng, và mang đến sự chuyển hoá và trị liệu.
Thứ năm, tiếng Vượt
Thoát Tiếng Đời (Thắng bỉ Thế Gian Âm) là tiếng nói không có
gì sánh kịp. Tiếng nói này không nhằm vào danh, lợi, hay một
khía cạnh đua tranh nào. Đây là sự im lặng sấm sét làm tiêu
tan mọi ý niệm và khái niệm.
Tiếng Nhiệm, tiếng
Quan Âm, tiếng Phạm, tiếng Hải Triều, tiếng Vượt Thoát Tiếng
Đời là những tiếng mà ta cần phải lưu ý tới. Quán chiếu về năm
thứ tiếng này tức là chúng ta đang giúp Bồ Tát Quan Thế Âm mở
cửa Phổ Môn, cánh cửa của lắng nghe đích thực, nói năng đích
thực.
Bởi vì Ngài sống
một đời sống có chánh niệm, luôn luôn quán chiếu vào cuộc đời,
bởi vì Ngài là người quán sát thế gian, Quan Thế Âm nhận ra
bao nhiêu là đau khổ. Ngài biết rằng rất nhiều khổ đau đã được
sinh ra từ lời nói thiếu chánh niệm, và từ sự không biết lắng
nghe; vì vậy Ngài thực tập lời nói chánh niệm, từ ái, và lắng
nghe sâu. Bồ Tát Quan Thế Âm có thể được xem như một người có
thể dạy ta cách hay nhất để hành trì Giới thứ Tư.
‘Ý thức được những
khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm (và sự không biết lắng
nghe) gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để
dâng tặng niệm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của
người.’
Đây chính là pháp môn Phổ Môn mà Bồ Tát Quan Thế Âm thực tập.
Chưa bao giờ trong
lịch sử nhân loại chúng ta có nhiều phương tiện truyền thông
như bây giờ -- truyền hình, viễn thông, điện thoại, máy fax,
radio, đường dây nóng, đường dây đỏ -- nhưng chúng ta vẫn tiếp
tục là những hòn đảo tách rời. Có quá ít truyền thông giữa
những thành viên trong gia đình, giữa những cá nhân trong xã
hội, và giữa các quốc gia. Chúng ta khốn đốn vì bao nhiêu cuộc
chiến tranh và xung đột. Rõ ràng chúng ta chưa trau dồi nghệ
thuật nghe và nói. Chúng ta không biết lắng nghe nhau. Chúng
ta ít có khả năng để theo đuổi một cuộc đàm thoại thông minh
và có ý nghĩa. Cánh cửa vạn năng của sự truyền thông cần phải
được mở ra một lần nữa. Không truyền thông được ta sẽ bệnh, và
một khi bệnh đã nặng lên, ta sẽ đau khổ và vung vãi khổ đau
của mình lên kẻ khác. Chúng ta trả tiền cho các nhà tâm lý trị
liệu lắng nghe nỗi khổ niềm đau của chúng ta, nhưng nếu các
nhà tâm lý trị liệu không thực tập Phổ Môn, họ sẽ không thành
công được. Những nhà tâm lý trị liệu cũng là những con người,
cũng phải đối diện với những khổ đau như tất cả chúng ta. Họ
có thể có khó khăn với vợ hay chồng, với con cái, bạn bè, và
xã hội. Họ cũng có những nội kết. Họ có thể có nhiều khổ đau
chất chứa, không thể nói với bất cứ ai, kể cả người thân
thương nhất trong đời họ. Làm sao họ có thể ngồi đó lắng nghe
những khổ đau của ta và thấu hiểu được những khổ đau đó? Các
nhà tâm lý trị liệu cần phải thực tập Phổ Môn, tức là Giới Thứ
Tư -- lắng nghe và ai ngữ.
Trừ phi chúng ta
chịu khó nhìn sâu vào bản thân mình, việc thực tập này sẽ
không dễ chút nào. Nếu trong ta có quá nhiều khổ đau thì ta
khó có thể lắng nghe hay nói những lời dễ thương với kẻ khác.
Trước hết ta phải nhìn sâu vào bản chất của cơn giận, sự tuyệt
vọng, và đau khổ của mình để tự tháo gỡ cho mình, xong ta mới
có thể rảnh tay cho kẻ khác. Giả dụ chồng mình hôm thứ Hai đã
nói điều gì đó không dễ thương, làm mình đau. Anh ta đã dùng
lời lẽ thiếu chánh niệm, và lại không có khả năng lắng nghe.
Nếu ta trả lời ngay lúc ấy, từ sự bực bội và đau khổ của mình,
ta có nguy cơ làm anh ta đau, cũng như đào sâu thêm những niềm
đau đã có của anh ấy. Ta phải làm gì đây? Nếu ta đè nén cơn
giận của mình hay làm thinh, ta có thể gây tổn hại cho mình,
bởi nếu ta đàn áp cơn giận trong ta thì ta cũng đang đàn áp
chính mình. Ta sẽ khổ sau này, và nỗi khổ của ta sẽ mang lại
thêm nhiều đau khổ cho chồng ta.
Cách thực tập hay
nhất lúc đó là thở vào và thở ra để làm lắng xuống cơn giận
của mình, xoa dịu niềm đau: ‘Thở vào, tôi biết là tôi giận.
Thở ra, tôi làm lắng dịu cảm giác giận của tôi.’ Chỉ cần thở
cho sâu với cơn giận của mình, ta sẽ làm cho nó lắng lại. Ta
có chánh niệm về cơn giận của mình chứ không đè nén nó. Khi
chúng ta đã có đủ bình tĩnh, ta có thể sử dụng ngôn ngữ chánh
niệm. Một cách thân ái và chánh niệm, ta có thể nói: ‘Anh ơi,
em muốn anh biết rằng em đang giận. Những lời anh nói làm em
rất đau, em muốn anh biết điều đó.’ Chỉ nói như vậy thôi, một
cách bình tĩnh và chánh niệm, sẽ làm cho ta vơi nhẹ phần nào.
Thở với chánh niệm để làm lắng xuống cơn giận của mình, ta sẽ
có thể nói cho người kia biết là mình đang khổ. Trong thời
gian đó, ta sống với cơn giận của mình, tiếp xúc với nó bằng
năng lượng chánh niệm. Ta không hề chối bỏ nó.
Khi nói với các nhà
tâm lý trị liệu về điều này, tôi gặp phải một vài khó khăn.
Khi tôi nói cái giận làm chúng ta khổ, họ cho điều này có
nghĩa là cái giận là một cái gì tiêu cực, cần phải bị lấy ra.
Nhưng tôi luôn nói rằng cái giận là một hiện tượng có tính hữu
cơ, cũng giống như tình thương vậy. Giận có thể trở thành
thương. Phân xanh của chúng ta có thể trở thành một hoa hồng.
Nếu ta biết cách chăm sóc rác hữu cơ, ta có thể biến nó thành
một hoa hồng. Ta nên gọi rác là tiêu cực hay tích cực đây? Rác
có thể là tích cực, nếu ta biết xử lý nó. Cái giận cũng vậy.
Nó có thể là tiêu cực, nếu ta không biết xử lý nó, nhưng nếu
ta biết cách xử lý cơn giận của mình, thì cơn giận đó có thể
rất tích cực. Chúng ta không cần phải bỏ đi một thứ gì hết.
Sau khi đã thở vào,
thở ra vài lần để lấy lại bình tĩnh, cho dù cơn giận vẫn còn
có đó, ta có chánh niệm về nó, ta có thể nói với người kia
rằng ta giận. Ta cũng có thể nói với người ấy rằng ta muốn
nhìn sâu vào nó, và cũng muốn người ấy cũng nhìn sâu vào nó.
Rồi ta có thể hẹn gặp nhau tối thứ Sáu để cùng nhìn vào vấn
đề. Một người nhìn vào những gốc rễ của khổ đau của mình là đã
hay lắm rồi, hai người nhìn thì hay hơn, và hai người cùng
nhìn với nhau thì hay nhất.
Tôi đề nghị tối thứ
Sáu vì hai lý do. Thứ nhất, lúc này ta đang còn giận, nếu ta
bắt đầu bàn thảo bây giờ thì có thể rất mạo hiểm. Ta có thể
nói những điều làm cho tình trạng tệ thêm hơn. Từ bây giờ cho
đến chiều thứ Sáu, ta có thể thực tập nhìn sâu vào bản chất
của cái giận của mình, và người kia cũng có thể làm như vậy.
Trong khi lái xe, người kia có thể tự hỏi: ‘Cái gì nghiêm
trọng vậy? Tại sao cô ấy không vui? Phải có nguyên do.’ Trong
khi lái xe, ta cũng sẽ có cơ hội nhìn sâu vào đó. Trước tối
thứ Sáu, một hay cả hai người có thể thấy gốc rễ của vấn đề và
có thể nói và xin lỗi với người kia. Và tối thứ Sáu, hai người
có thể uống trà và vui vẻ với nhau. Nếu hẹn ngày giờ, hai
người sẽ có thời gian để lắng lại và nhìn sâu. Đây là thiền
tập. Thiền là làm lắng con người mình lại và nhìn sâu vào bản
chất của những nỗi khổ niềm đau của mình.
Đến tối thứ Sáu,
nếu nỗi khổ vẫn chưa được chuyển hoá, ta sẽ có thể thực tập
nghệ thuật của Quan Thế Âm. Hai người ngồi lại với nhau và
thực tập lắng nghe sâu -- một người phát biểu trong khi người
kia lắng nghe thật sâu. Khi nói, ta nói lên sự thực sâu xa
nhất mà ta thấy, và ta thực tập ái ngữ. Chỉ với ngôn ngữ đó
người kia mới có cơ hội để nghe hiểu và chấp nhận. Trong khi
lắng nghe, ta biết rằng chỉ bằng cách lắng nghe sâu như vậy
ta mới có thể làm vơi đi nỗi khổ của người kia mà thôi. Nếu
chỉ lắng nghe bằng nửa lỗ tai thôi thì ta không thể làm được
chuyện đó. Ta phải có mặt đích thực và sâu sắc. Phẩm chất lắng
nghe của ta phải cao thì mới có thể giúp được người kia vơi đi
nỗi khổ. Đây là sự thực tập Giới thứ Tư. Lý do thứ hai để đợi
đến tối thứ Sáu là nếu ta hoá giải được sự buồn bực đó vào tối
thứ Sáu thì ta sẽ được vui vẻ với nhau vào hai ngày cuối tuần.
Giả sử ta có một
nội kết nào đó với một thành viên trong gia đình hay cộng
đồng, và ta không vui khi gặp người đó. Ta có thể nói những
câu đơn giản, sơ sơ, nhưng không thoải mái để nói những chuyện
sâu hơn với người đó. Rồi một bữa nọ, trong khi làm việc nhà,
ta nhận thấy người kia không làm gì cả, không chia xẻ những
công việc cần phải làm, và ta thấy khó chịu. ‘Tại sao tôi phải
làm nhiều như vậy, còn cô ấy không làm gì cả? Đáng lẽ cô ta
phải làm cái gì mới phải.’ Vì sự so sánh này, ta mất an lạc.
Nhưng thay vì nói với người kia: ‘Em làm ơn đến đây phụ bớt
công việc,’ ta lại bảo mình: ‘Cô ấy lớn rồi. Tại sao mình lại
phải nói với cô ấy? Lẽ ra cô ấy phải có trách nhiệm hơn!’ Ta
nghĩ như vậy bởi vì ta đã sẵn có nội kết với người kia. Con
đường ngắn nhất bao giờ cũng là con đường thẳng. ‘B’ có thể
đến với ‘A’ và nói, ‘Em ơi, làm ơn đến phụ một tay.’ Nhưng ta
không làm như vậy. Ta giữ trong lòng và phiền trách người kia.
Lần sau lại xảy ra
y hệt như vậy, cảm thọ của ta lại càng mạnh hơn. Nội kết của
ta lớn lên từ từ, cho đến khi ta khổ quá và cần phải than thở
với người thứ ba. Ta cần tìm một sự cảm thông để chia bớt nỗi
khổ tâm đó. Thay vì nói thẳng với ‘A,’ ta lại nói với ‘C.’ Ta
chọn ‘C’ vì ta nghĩ ‘C’ là một đồng minh, sẵn sàng đồng ý với
ta là ‘A’ cư xử không tốt.
Nếu ta là ‘C’ thì
ta phải làm gì? Nếu ta đã có sẵn những nội kết về ‘A,’ thì ta
có thể sẽ rất mừng khi có người cũng cảm thấy như ta vậy. Nói
với nhau như vậy có thể sẽ làm ta thấy khoẻ hơn. Hai người trở
thành liên minh – ‘B’ và ‘C’ chống lại ‘A.’ Tự nhiên ‘B’ và
‘C’ thấy gần với nhau hơn, và cả hai thấy xa cách với ‘A,’ A
sẽ nhận ra điều ấy.
‘A’ có thể rất dễ
thương. Cô sẽ có khả năng đáp lại trực tiếp với ‘B’ nếu ‘B’
nói được cảm thọ của mình cho cô ấy. Nhưng ‘A’ không hay biết
gì về sự uất ức của ‘B.’ ‘A’ chỉ cảm thấy có một sự lạnh nhạt
giữa mình và ‘B,’ mà không biết tại sao. A nhận thấy ‘B’ và
‘C’ trở nên gần gũi, trong khi cả hai đều nhìn mình một cách
khó chịu. Và cô nghĩ: ‘Họ không muốn mình, thì mình cũng
chẳng cần họ.’ Cô rút lui, và tình trạng càng tệ hơn. Thế tam
giác đã được thiết lập.
Nếu là ‘C’ thì
trước hết, tôi sẽ lắng nghe ‘B’ một cách chăm chú, hiểu rằng
‘B’ cần chia xẻ nỗi khổ tâm của mình. Biết rằng con đường
thẳng là con đường ngắn nhất, tôi sẽ khuyến khích ‘B’ đến nói
thẳng với ‘A.’ Nếu như ‘B’ không làm được chuyện này, tôi sẽ
đề nghị đến nói với ‘A’ dùm cho ‘B,’ với sự hiện diện của ‘B,’
hoặc chỉ đi nói một mình.
Nhưng quan trọng
hơn cả là tôi sẽ không nói với ai khác những gì ‘B’ đã tin
tưởng nói cho tôi. Nếu không có chánh niệm, tôi có thể nói với
người khác những điều tôi biết về cảm thọ của ‘B,’ và thế nào
gia đình hay cộng đồng cũng sẽ lộn xộn. Nếu tôi làm những điều
này -- khuyến khích ‘B’ nói thẳng với ‘A’ hoặc nói với ‘A’ dùm
cho ‘B,’ và không nói lại với ai những điều ‘B’ đã nói với
mình – tôi sẽ có thể bẻ gãy thế tam giác. Làm như vậy sẽ có
thể giúp hoá giải vấn đề, mang lại an lạc cho gia đình, cộng
đồng, và xã hội.
Nếu ta thấy ở trong
cộng đồng có người đang gặp khó khăn với người khác, ta phải
giúp đỡ ngay. Nếu sự việc càng kéo dài lâu thì sẽ càng khó
giải quyết. Cách hay nhất để giúp là thực tập ngôn ngữ chánh
niệm và tập lắng nghe sâu. Giới thứ Tư có thể mang lại hoà
bình, hiểu biết, và hạnh phúc cho mọi người. Phổ Môn là một
cánh cửa nhiệm mầu. Ta sẽ được sinh lại một lần nữa trên đoá
sen và giúp cho những người khác, trong đó có gia đình, cộng
đồng, và xã hội của ta, cũng được sinh ra trên đó.
Lời nói có thể có
giá trị xây dựng hay có tính phá hoại. Nói với chánh niệm có
thể mang lại hạnh phúc thật sự; lời nói thiếu chánh niệm có
thể giết hại. Khi một người nói với ta những điều làm cho ta
khoẻ mạnh và hạnh phúc, thì đó là món quá quý hoá nhất người
ấy có thể hiến tặng. Thỉnh thoảng, có người nói với ta những
điều rất ác và rất đau lòng khiến ta muốn đi tự tử; ta mất tất
cả mọi hy vọng, tất cả niềm vui sống của mình.
Người ta giết nhau
vì lời nói. Khi ta cuồng tín biện hộ cho một chủ thuyết, nói
rằng chỉ có đường lối suy nghĩ hay tổ chức xã hội này mới là
hay nhất, và nếu có người làm vướng đường mình thì mình phải
đàn áp hay loại trừ người đó. Điều này liên hệ mật thiết với
Giới Thứ Nhất -- thứ ngôn ngữ này có thể giết, không phải chỉ
có một người mà rất nhiều người. Khi ta tin vào một điều gì
mạnh mẽ như vậy, ta có thể bỏ hàng triệu người vào phòng hơi
ngạt. Khi ta dùng lời nói để nâng cao một chủ thuyết, xúi dục
người ta giết để bảo vệ và nâng cao chủ thuyết của mình, ta có
thể giết hàng triệu người. Giới thứ Nhất và thứ Tư của Năm
Giới tương tức với nhau.
Giới thứ Tư cũng
liên hệ với Giới thứ Hai, về trộm cắp. Cũng như đã có ‘kỹ nghệ
mãi dâm,’ có một thứ gọi là ‘kỹ nghệ nói dối.’ Nhiều người
phải nói dối để thành công như một nhà chính trị, hay như một
người bán hàng. Một giám đốc liên hiệp chế tác các phương tiện
truyền thông nói với tôi rằng nếu ông ta nói sự thật về các
sản phẩm của công ty mình thì người ta sẽ không mua. Ông nói
đến những điều tích cực về sản phẩm mà ông biết là không đúng,
và tránh không nói đến những hiệu quả tiêu cực của sản phẩm.
Ông biết là mình đang nói dối, và ông cảm thấy rất tồi tệ về
việc này. Nhiều người cũng đang bị kẹt vào những tình huống
tương tự. Trong chính trị cũng vậy, người ta nói láo để được
bầu. Đó là vì sao ta có thể nói đến thứ ‘kỹ nghệ nói dối.’
Giới này cũng liên
hệ đến Giới thứ Ba. Khi một người nói, ‘Tôi yêu em,’ đó có thể
là một lời nói dối. Đó có thể chỉ là một biểu lộ của sự ham
muốn. Có quá nhiều quảng cáo liên hệ đến tình dục.
Trong truyền thống
đạo Bụt, Giới thứ Tư luôn được diễn tả như là tránh làm bốn
việc:
1.
Không nói sai sự thật
(ngoa ngôn.) Nếu đó là đen mà mình lại nói là trắng.
2.
Phóng đại (ỷ ngữ.) Bịa
đặt, hoặc diễn tả sự việc đẹp hơn hay xấu hơn thực tế của nó.
3.
Nói lắt léo (lưỡng
thiệt.) Đến người này nói thế này, đến người khác lại nói thế
khác.
4.
Ngôn ngữ thô ác (ác ngữ.)
Lăng mạ hay xúc phạm người khác.
‘Con nguyện chỉ nói
những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng,
....’
Điều này cần phải được thực tập với trẻ em. Nếu ta nói với em
bé rằng em không được tích sự gì cả, em bé sẽ khổ trong tương
lai. Cần phải luôn luôn nhấn mạnh những điều tích cực, và đầy
hứa hẹn với con mình, và với vợ hay chồng mình nữa.
‘(Con nguyện chỉ
nói)... những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết
và hoà giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật,
không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không
loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không
phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện
không nói những điều có thể tạo nên sự bất hoà trong gia đình
và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn
thể.’
Hoà giải là một
pháp tu sâu, ta có thể thực tập được với sự lắng nghe và ngôn
ngữ chánh niệm. Hoà giải có nghĩa là mang lại hoà bình và hạnh
phúc cho quốc gia, con người, và thành viên trong gia đình ta.
Đây là công việc của một vị Bồ Tát. Để hoà giải, ta phải có
nghệ thuật lắng nghe, cũng như nắm được nghệ thuật ái ngữ. Ta
phải tránh liên kết mình với một bên để có thể hiểu được cả
hai phía. Đây là một phép tu khó.
Trong cuộc chiến ở
Việt Nam, chúng tôi cố gắng thực tập điều này. Chúng tôi cố
không liên minh với một phe tham chiến nào, cộng sản hay quốc
gia. Ta chỉ giúp được khi nào ta đứng vượt lên trên mâu thuẫn
và thấy được cả khía cạnh tốt lẫn khía cạnh xấu của hai bên.
Làm như vậy, ta đặt mình vào một tình thế nguy hiểm, vì ta có
thể bị cả hai bên ghét. Bên này nghi ta là công cụ của bên
kia, và bên kia lại nghi ta là công cụ của bên này. Ta có thể
bị giết cùng một lúc bởi hai phe. Đó chính là điều nhiều Phật
tử Việt Nam phải chịu đựng trong chiến tranh. Chúng tôi không
liên kết với cộng sản, nhưng cũng không liên kết với phe theo
Mỹ. Một bên nói anh không thể hoà giải với phe theo Mỹ. Bên
kia nói anh không thể hoà giải với cộng sản. Nếu ta nghe lời
hai phía thì thật chẳng bao giờ có thể hoà giải với ai cả.
Chúng tôi đã đào
tạo các tác viên đi đến các vùng hẻo lánh giúp đỡ về các vấn
đề sức khoẻ, kinh tế, giác dục, và chúng tôi bị cả hai phía
nghi ngờ. Công việc hoà giải của chúng tôi không phải chỉ là
việc nói, mà còn là việc làm. Chúng tôi đã nỗ lực giúp những
người nông dân tìm thấy hy vọng. Chúng tôi đã giúp nhiều người
tị nạn ổn định lại đời sống ở những ngôi làng mới. Chúng tôi
đã giúp bảo trợ hơn mười ngàn cô nhi. Chúng tôi đã giúp nông
dân dựng lại những ngôi làng đổ nát. Công việc hoà giải không
phải chỉ có tính ngoại giao; nó là những gì rất cụ thể. Trong
lúc ấy, chúng tôi cũng đồng thời nói lên tiếng nói hoà bình từ
trong tim mình. Chúng tôi nói người trong nhà phải nhìn nhau
như anh em và chấp nhận lẫn nhau. Mình không nên giết nhau vì
một chủ thuyết. Thông điệp ấy không được ưa chuộng chút nào
trong tình trạng chiến tranh.
Những bài viết của
tôi bị kiểm duyệt từ cả hai phía. Thơ của tôi bị cấm bởi hai
bên. Các bạn tôi đã in chui một trong những tập thơ ấy vì
chính phủ Sài Gòn không cho phép xuất bản. Và phía cộng sản
công kích tập thơ này trên đài, nói rằng nó có hại cho cuộc
đấu tranh, và có thể đã bị xúi giục bởi CIA. Cảnh sát quốc gia
đã tới các nhà sách để tịch thu những bài thơ này. Ở Huế, một
người cảnh sát tử tế đã đến một nhà sách Phật giáo và nói rằng
cuốn sách này không nên bày ra; nó cần phải được dấu và đưa ra
khi có người hỏi mà thôi. Không phải chỉ có những cố gắng nói
lên tiếng nói quan tâm và đề nghị những giải pháp dàn xếp vấn
đề giữa anh em của chúng tôi mới bị đàn áp, mà cả những cố
gắng giúp đỡ đồng bào của chúng tôi cũng bị đàn áp. Nhiều tác
viên của chúng tôi đã bị giết và bắt cóc bởi hai phía. Một số
tác viên đã bị ám sát bởi những người Ca-tô-lic cuồng tín,
nghi chúng tôi làm việc cho cộng sản, và một số tác viên bị
phía cộng sản bắt đi. Những tác viên của chúng tôi rất được
dân vùng quê thương mến. Họ là những người trẻ tận tụy, trong
đó có cả các thầy và các sư cô trẻ. Họ làm việc không lương,
họ chỉ muốn phụng sự và thực hành Phật Pháp. Trong tình trạng
chiến tranh, hành trang của họ là từ bi và phụng sự hết lòng,
họ chỉ nhận một chút thù lao nhỏ bé để sống mà thôi. Họ đi đến
những vùng quê, không mong một chút gì đền đáp lại.
Tôi nhớ một thanh
niên tên Ân, chuyên giúp dân học các phương pháp nuôi gà tân
tiến. Anh bày cho họ những kỹ thuật ngừa bệnh. Khi một người
nông dân hỏi anh: ‘Chú được chính phủ trả lương bao nhiêu một
tháng vậy?’ Ân nói, ‘Tụi con không được chính phủ trả gì hết.
Tụi con không phải từ chính phủ, tụi con đến từ chùa. Chùa gởi
chúng con tới đây để giúp quý bác.’ Ân không nói với bác nông
dân chất phác rằng mình thuộc trường Thanh Niên Phụng Sự Xã
Hội, sáng lập bởi Vụ Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất. Nói như vậy thì phức tạp quá, cho nên Ân chỉ nói
là mình được chùa gởi tới.
‘Sao lại đến từ
chùa?’
Ân nói, ‘Tụi con
làm công quả.’
Bác nông dân ngạc
nhiên: ‘Tui nghe nói muốn làm công quả thì phải tới chùa. Sao
bây giờ chú lại tới đây làm công quả?’
Chàng thanh niên
trả lời: ‘Bác thấy đó, bây giờ bà con khổ quá, Phật cũng phải
ra ngoài này để giúp. Tụi con là Phật tử phải làm công quả ở
đây, nơi có đồng bào khổ.’ Tuyên bố đó đã trở thành nền tảng
cho triết lý phụng sự xã hội của chúng tôi, Đạo Bụt nhập thế.
Bụt phải ở trong xã hội. Ngài không thể nán lại trong chùa lâu
hơn nữa, vì con người ta khổ quá.
Chỉ trong vài năm,
chúng tôi đã trở nên rất quen thuộc với bà con nông thôn.
Chúng tôi không có nhiều tiền, nhưng vì chúng tôi làm việc
theo lối làm công quả cho nên được bà con thương. Phía cộng
sản biết vậy và không muốn chúng tôi ở đó, ban đêm họ đến và
hỏi ai cho phép chúng tôi làm việc ở đây. Các tác viên nói
chúng tôi không có phép từ phía nào, dù là quốc gia hay cộng
sản. Chúng tôi chỉ tới đây làm công quả thôi. Một lần, người
cộng sản ra lệnh cho các tác viên rút khỏi một vùng, nói rằng:
‘Chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho sự an toàn của quý vị
nếu quý vị ở đây quá hai mươi bốn tiếng.’ Lần khác, những
người cuồng tín đến từ phía chính phủ, một cách không chính
thức, và hỏi các tác viên họ có phải là tác viên xã hội của
Phật giáo không. Và họ mang năm học viên ra bờ sông, và sau
khi kiểm lại một lần nữa cho chắc đây là những tác viên xã hội
của Phật giáo, họ nói: ‘Chúng tôi rất tiếc, nhưng chúng tôi
phải giết quý vị.’ Họ bắn cả năm người. Chúng tôi bị cả hai
bên đàn áp vào ban đêm. Họ biết nếu đàn áp chúng tôi vào ban
ngày thì nông dân sẽ phản đối.
Một trái lựu đạn
ném vào phòng tôi đã bị tấm màn làm cho chệch hướng. Một đêm
khác, nhiều quả lựu đạn đã được ném vào ký túc xá của trường,
làm hai người chết và nhiều người bị thương. Một thanh niên bị
bại liệt, và sau này được điều trị ở Đức. Một thiếu nữ bị hơn
một ngàn miểng nổ cắm vào mình. Cô mất rất nhiều máu, và đã
được một người bạn Nhật, cộng tác với chúng tôi, cứu sống. Sau
đó, chúng tôi đã mang được cô sang Nhật để giải phẩu. Người ta
đã cố để lấy các mảnh sắt vụn ra, nhưng vẫn còn 300 mảnh không
thể lấy ra được và vẫn còn nằm trong thân thể cô.
Một hôm, trong khi
tôi đang đại diện cho Phái Đoàn Hoà Bình của Phật Giáo để tham
dự Đàm Phán Hoà Bình tại Paris, tôi nhận được một tin nhắn qua
điện thoại từ Sài Gòn cho biết bốn tác viên vừa bị bắn chết.
Tôi đã khóc. Chính tôi đã kêu gọi họ đến để được đào luyện như
những tác viên. Một người bạn có mặt lúc ấy đã nói với tôi:
‘Thưa Thầy, Thầy cũng như một vị tướng lãnh đạo đội quân bất
bạo động, và khi quân đội của Thầy làm việc cho tình thương và
sự hoà giải thì thế nào cũng có những thương vong. Thầy đâu
cần phải khóc.’
Tôi nói, ‘Tôi không phải là một
ông tướng. Tôi là một con người. Tôi cần được khóc.’ Sáu tháng
sau, tôi viết một vở kịch về cái chết của những người học trò
này, với tựa đề:
Nẻo Về Tiếp Nối Đường Đi.
Công việc hoà giải
không phải đơn thuần là công việc ngoại giao. Không phải vì
mình đi gặp vài chục vị Ngoại Trưởng mà mình làm công việc hoà
giải. Ta phải dùng thân thể, thời gian, và cuộc đời mình để
làm công việc hoà giải. Ta làm việc này bằng nhiều cách, và ta
có thể bị đàn áp bởi những người ta đang tìm cách giúp đỡ. Ta
phải lắng nghe và hiểu nỗi khổ của bên này, rồi lại đến lắng
nghe nỗi khổ của bên kia. Như vậy ta sẽ có thể lần lượt nói
cho mỗi bên về những nỗi khổ mà phía bên kia phải gánh chịu.
Đây là công việc cốt yếu, và đòi hỏi phải có can đảm. Chúng ta
cần nhiều người có khả năng lắng nghe, ở Nam Phi, ở Trung
Đông, ở Đông Âu, và nhiều nơi khác.
Giới thứ Tư là một
Giới Bồ Tát. Chúng ta cần học hỏi cho sâu sắc để có thể thực
tập giỏi, trong phạm vi cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội
và thế giới.
GIỚI THỨ NĂM
:
Gìn Giữ Thân Tâm, Lành Mạnh Xã
Hội
Ý thức được những
khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học
cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu
thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc
cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con
nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không
ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một
số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và
chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các
độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các
thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ
hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho
gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất
thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Khi tắm, ta có thể
nhìn vào thân thể để thấy đó là món quà của cha mẹ, ông bà.
Cho dù nhiều người trong chúng ta không muốn dính dáng gì đến
cha mẹ của mình cả -- các người đã làm khổ mình quá nhiều –
nhưng khi nhìn sâu, ta thấy mình không thể hoàn toàn chối bỏ
mối dây liên hệ ấy. Nhìn vào từng phần nơi thân thể, ta có thể
hỏi mình, ‘Thân này là của ai? Ai đã truyền trao thân thể này
cho ta? Cái gì đã được trao truyền?’ Quán như vậy, ta sẽ khám
phá ra có ba thành phần: người trao truyền, vật được trao
truyền, và người tiếp nhận sự trao truyền. Người trao truyền
là cha mẹ ta. Chúng ta là sự tiếp nối của cha mẹ và tổ tiên
mình. Vật được trao truyền chính là thân thể. Người tiếp nhận
sự trao truyền là chúng ta. Nếu ta tiếp tục quán chiếu về vấn
đề này, ta sẽ thấy rõ rằng người trao truyền, vật trao truyền,
và kẻ tiếp nhận sự trao truyền là một. Ba thành phần đều có
mặt nơi thân ta. Khi ta tiếp xúc sâu sắc với giây phút hiện
tại, ta có thể thấy tất cả tổ tiên và tất cả các thế hệ tương
lai đều có mặt trong ta. Thấy điều này, ta sẽ biết mình phải
làm gì và không làm gì – cho mình, cho tổ tiên, và cho con
cháu.
Ban đầu, khi nhìn
cha, ta có thể không thấy mình và cha mình là một. Ta có thể
giận cha nhiều chuyện. Nhưng giờ phút ta hiểu và thương được
cha mình, ta nhận ra tính trống rỗng của sự trao truyền. Ta
nhận ra rằng thương mình chính là thương cha mình, và thương
cha mình chính là thương mình. Giữ gìn thân, tâm cho lành mạnh
chính là giữ gìn cho tổ tiên, cha mẹ, và các thế hệ tương lai.
Ta làm việc ấy cho xã hội, và cho tất cả mọi người, không phải
chỉ làm cho riêng mình. Điều ta cần phải nhớ trước tiên là ta
không thực tập như một cá nhân riêng lẻ. Những gì ta hấp thụ
thì ta cũng hấp thụ cho mọi người. Tất cả tổ tiên và các thế
hệ tương lại đều đang hấp thụ vào với ta. Đó là ý nghĩa đích
thực của tính không trong sự truyền trao. Giới thứ Năm cần
phải được thực tập trong tinh thần này.
Có những người uống
rượu say sưa, họ tàn hoại thân thể, gia đình, và xã hội của
mình. Họ cần phải dừng lại việc uống rượu đã đành. Nhưng mình
trong suốt ba mươi năm qua, chỉ uống mỗi tuần một ly vang,
chẳng hại gì, tại sao lại cần phải ngừng chuyện đó? Thực tập
Giới này làm chi nếu uống rượu không làm hại gì đến ai cả? Mặc
dù ta không làm hại đến mình trong ba mươi năm qua vì việc
uống một hay hai ly vang mỗi tuần, nhưng điều ấy lại có thể
làm hại đến con, cháu, và xã hội chúng ta. Ta chỉ cần nhìn sâu
để thấy điều này. Ta đang thực tập, không phải chỉ cho riêng
mình, mà cho tất cả. Con ta có thể có thiên hướng nghiện rượu,
và khi thấy ta uống rượu vang mỗi tuần, một người trong số các
con ta có thể trở nên nghiện rượu trong tương lai. Ta bỏ hai
ly rượu ấy là để tỏ cho con cái, bạn bè, và xã hội thấy rằng
cuộc đời mình không phải chỉ cho riêng mình mà thôi. Cuộc đời
ta là để cho tổ tiên, các thế hệ tương lai, và cả cho xã hội.
Dừng việc uống hai ly rượu mỗi tuần, cho dù việc này chưa mang
lại điều gì tai hại cho ta cả, là một thực tập rất sâu. Đó là
tuệ giác của một vị Bồ Tát, biết rằng những gì mình làm đều là
làm cho tất cả tổ tiên và con cháu của mình. Tính không của sự
truyền trao là nền tảng của Giới thứ Năm. Việc sử dụng ma túy
của nhiều người trẻ cũng phải được chấm dứt với cùng một thứ
tuệ giác ấy.
Trong đời sống hiện
đại, người ta nghĩ rằng thân thể mình là của mình, và mình có
thể làm gì thì làm với nó. ‘Chúng ta có quyền sống đời sống
của riêng mình.’ Khi ta tuyên bố như vậy, luật pháp ủng hộ
chúng ta. Đây là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân. Nhưng, theo giáo lý về Không, thân này không phải là của
mình. Thân này thuộc về tổ tiên, cha mẹ, và các thế hệ tương
lai. Thân này cũng thuộc về xã hội, và tất cả mọi loài chúng
sinh khác. Tất cả đã đến với nhau, làm nên sự có mặt của thân
thể này – cây cối, mây, và tất cả. Giữ thân mình cho lành mạnh
là tỏ lòng biết ơn đối với toàn thể vũ trụ, với tất cả tổ
tiên, và cũng là không phản bội các thế hệ tương lai. Chúng ta
thực tập Giới này cho toàn thể vũ trụ, và cho cả xã hội. Nếu
chúng ta lành mạnh, thì ai cũng lợi lạc cả -- không phải chỉ
trong xã hội loài người, mà cả trong xã hội cỏ cây, cầm thú,
và đất đá. Đây là Giới Bồ Tát. Trong khi thực tập Giới thứ
Năm, chúng ta đã ở trên con đường Bồ Tát Đạo.
Khi ta có thể ra
khỏi cái vỏ bản ngã nhỏ hẹp và thấy rằng mình có liên hệ với
tất cả mọi người và mọi vật, ta thấy rằng mỗi hành động của
mình đều dính liền với toàn thể nhân loại, toàn thể vũ trụ.
Giữ cho mình lành mạnh tức là tử tế với tổ tiên, cha mẹ, các
thế hệ tương lai, cũng như với xã hội của mình. Sức khoẻ không
phải chỉ là sức khoẻ thân thể, mà còn là sức khoẻ tâm hồn.
Giới thứ Năm chính là về vấn đề sức khoẻ và trị liệu.
‘Ý thức được những
khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học
cách chuyển hoá thân tâm, xây dựng sức khoẻ thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu
thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc
cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con.’
Bởi ta không phải làm việc ấy cho riêng mình, ngưng uống một
hay hai ly rượu vang mỗi tuần đích thực là hành động của một
vị Bồ Tát. Ta làm việc ấy cho tất cả mọi người. Trong bữa tiệc
tiếp tân, khi có người mời ta một ly rượu vang, ta có thể mỉm
cười và từ chối: ‘Cảm ơn. tôi không uống rượu. Nếu anh cho tôi
một ly nước trái cây hay nước lạnh thì tôi sẽ cảm ơn lắm.’ Ta
từ chối nhẹ nhàng, với nụ cười trên môi. Điều ấy rất ích lợi.
Ta làm gương cho bao nhiêu bạn bè có mặt, trong đó có các trẻ
em. Dù việc này có thể được làm một cách lễ độ, thầm lặng, nó
chính là hành động của một vị Bồ Tát, làm gương bằng chính đời
sống của mình.
Những gì bà mẹ ăn,
uống, lo, hay sợ đều sẽ ảnh hưởng đến bào thai trong người bà.
Cho dù em bé trong bụng bà vẫn còn rất nhỏ, tất cả đều dồn hết
trong em. Nếu bà mẹ không ý thức về bản chất tương tức này, bà
có thể sẽ gây thương tổn cho cả hai mẹ con đồng một lúc. Nếu
bà mẹ uống rượu, bà sẽ hủy hoại, đến một mức độ nào đó, những
tế bào óc trong thai nhi. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh
điều này.
Tiêu thụ có chánh
niệm là mục tiêu Giới này nhắm đến. Ta là sản phẩm của những
gì ta tiêu thụ. Nếu ta nhìn sâu vào những thứ ta tiêu thụ hằng
ngày, ta sẽ biết được bản chất của mình rất rõ. Ta phải ăn,
uống, tiêu thụ, nhưng nếu làm việc ấy một cách thiếu chánh
niệm, ta có thể tàn hoại thân tâm mình, vô ơn với tổ tiên, cha
mẹ, và các thế hệ tương lai.
Khi ăn có chánh
niệm, ta tiếp xúc được với thức ăn. Những thức ta ăn đến từ
thiên nhiên, từ các sinh vật, và từ vũ trụ. Tiếp xúc với thức
ăn bằng chánh niệm của mình tức là bày tỏ sự biết ơn. Ăn trong
chánh niệm có thể là một niềm vui lớn. Ta gắp một miếng thức
ăn lên, nhìn vài giây trước khi bỏ vào miệng, rồi nhai kỹ với
chánh niệm ít nhất năm mươi lần. Nếu ta thực tập như vậy, ta
sẽ có thể tiếp xúc được với toàn thể vũ trụ.
Tiếp xúc cũng có
nghĩa là biết được trong thức ăn có độc tố hay không. Ta có
thể nhận biết thức ăn có lành mạnh hay không nhờ chánh niệm.
Trước khi ăn, những người trong gia đình có thể thực tập thở
vào, thở ra, và nhìn các thức ăn trên bàn. Một người có thể
gọi tên các món ăn, ‘khoai tây,’ ‘xà lách,’ v.v... Gọi tên một
vật giúp ta tiếp xúc được một cách sâu sắc với vật ấy, và thấy
được bản chất đích thực của nó. Trong lúc đó, chánh niệm cho
ta biết sự hiện diện hay vắng bóng của các độc tố trong mỗi
món ăn. Trẻ em thích làm việc này nếu ta bày cho các em. Ăn có
chánh niệm là một phép giáo dục tốt. Nếu ta thực tập cách này
một thời gian, ta sẽ thấy mình ăn có chánh niệm hơn, và sự
thực tập ăn có chánh niệm của ta sẽ làm gương cho kẻ khác. Ăn
như thế nào để mang chánh niệm vào đời sống của mình là một
nghệ thuật.
Ta có thể có một
chế độ kiêng cữ cho thân thể, và cũng có thể có một chế độ
kiêng cữ cho tâm thức, sức khoẻ tâm hồn của mình. Ta cần tránh
hấp thụ các ‘món ăn’ tinh thần đưa độc tố vào tâm thức. Một số
chương trình truyền hình giáo dục và giúp ta có một nếp sống
lành mạnh, và ta cần phải dành thời gian để xem các chương
trình như vậy. Nhưng một số chương trình khác mang lại độc tố
cho ta, và ta cần phải tránh không xem chúng. Đây có thể là
một thực tập cho tất cả mọi người trong gia đình.
Chúng ta biết rằng
hút thuốc không tốt cho sức khoẻ. Chúng ta đã nỗ lực vất vả để
khiến các nhà sản xuất phải in một dòng trên bao thuốc lá:
‘CẢNH CÁO: HÚT THUỐC CÓ THỂ NGUY HẠI ĐẾN SỨC KHOẺ.’ Đó là một
tuyên bố mạnh, nhưng cần thiết vì các quảng cáo khuyến khích
việc hút thuốc rất thuyết phục. Những quảng cáo này mớm cho
người trẻ ý niệm rằng nếu không hút thuốc thì không thực sự
sống. Những quảng cáo này dính đến hình ảnh thiên nhiên, mùa
xuân, xe cộ đắt tiền, những người đẹp trai, đẹp gái, và những
mức sống cao. Người ta có thể cho rằng nếu không hút thuốc hay
uống rượu, thì mình sẽ không có hạnh phúc gì trên đời cả. Thứ
quảng cáo này rất nguy hại; nó thấm vào tâm thức mình. Có bao
nhiêu thứ mầu nhiệm và lành mạnh để ăn và để uống. Chúng ta
phải trỏ cho người ta thấy thứ tuyên truyền này phờ phỉnh con
người ra sao.
Cảnh báo trên bao
thuốc lá chưa đủ. Chúng ta phải đứng lên, viết bài, hay làm
bất cứ gì ta có thể làm để đẩy mạnh các cuộc vận động chống
hút thuốc và uống rượu. Chúng ta đang đi đúng hướng. Cuối cùng
chúng ta đã có thể đi may bay mà không phải chịu đựng khói
thuốc lá. Chúng ta cần phải cố gắng thêm nữa theo hướng ấy.
Tôi biết việc uống
rượu vang đã ăn sâu vào văn hoá phương Tây. Trong Lễ Rước
Thánh Thể của Đạo Ki-tô và Lễ Quá Hải của đạo Do Thái, rượu
vang là một yếu tố quan trọng. Nhưng tôi đã nói chuyện với các
linh mục và giáo sĩ Do Thái về vấn đề này, và họ nói với tôi
rằng có thể thay thế rượu vang bằng nước nho ép. Cho dù ta
không uống, ta vẫn có thể bị người say đụng chết ngoài đường.
Thuyết phục một người không uống rượu tức là làm cho thế giới
an toàn hơn cho tất cả chúng ta.
Đôi lúc ta không
cần phải ăn hay uống nhiều như vậy, nhưng ăn, uống đã trở nên
một thứ nghiện ngập. Ta cảm thấy quá cô đơn. Cô đơn là một
trong những nỗi khổ của cuộc sống hiện đại. Cũng giống như
trường hợp của Giới thứ Ba – ta cảm thấy cô đơn cho nên ta gia
nhập vào một câu chuyện, hay thậm chí vào một quan hệ tình
dục, hy vọng rằng cảm giác cô đơn sẽ biến đi. Ăn uống cũng có
thể là hậu quả của cô đơn. Ta muốn uống, hay ăn cho nhiều để
quên đi sự cô đơn trống trải, nhưng những gì ta ăn có thể mang
độc tố đi vào thân thể ta. Khi cô đơn, ta mở tủ lạnh, xem
tivi, đọc báo hay tiểu thuyết, hoặc nhắc điện thoại lên nói
chuyện. Nhưng tiêu thụ không có chánh niệm bao giờ cũng làm
cho tình trạng xấu thêm hơn.
Có thể có rất nhiều
bạo động, căm thù, và sợ hãi trong một cuốn phim. Nếu ta bỏ ra
một giờ xem cuốn phim đó, ta sẽ tưới tẩm những hạt giống bạo
động, căm thù, và sợ hãi trong ta. Chúng ta làm như vậy, và
cũng để cho con mình làm như vậy. Vì vậy ta cần phải có một
cuộc họp gia đình để bàn thảo một chính sách thông minh liên
quan đến việc xem tivi. Chúng ta có thể cũng cần phải dán lên
máy truyền hình của mình một hàng chữ giống như ta đã dán trên
các bao thuốc lá: ‘CẢNH CÁO: XEM TRUYỀN HÌNH CÓ THỂ NGUY HẠI
ĐẾN SỨC KHOẺ.’ Đó là sự thật. Có những thiếu niên đã vào băng
đảng, và nhiều em khác rất bạo động, một phần vì các em đã
thấy nhiều cảnh bạo động trên tivi. Chúng ta phải có những
chính sách thông minh liên hệ đến việc sử dụng truyền hình
trong gia đình.
Chúng ta nên thu
xếp thời khoá biểu của mình như thế nào để cả nhà có thời giờ
hưởng lợi ích từ các chương trình lành mạnh và tốt đẹp trên
tivi. Chúng ta không cần phải đập bể máy truyền hình; chúng ta
chỉ cần sử dụng nó với trí tuệ và chánh niệm. Điều này có thể
được bàn bạc trong gia đình và cộng đồng. Có một số việc ta có
thể làm, như yêu cầu đài truyền hình lập chương trình lành
mạnh hơn, hay đề nghị các nhà sản xuất chế ra những máy truyền
hình chỉ nhận sóng của các đài phát ra những chương trình giáo
dục, lành mạnh, chẳng hạn như đài PBS. Trong cuộc chiến Việt
Nam, quân đội Mỹ đã thả hàng trăm ngàn chiếc radio vào rừng,
những chiếc máy này chỉ có thể tiếp nhận sóng từ một đài phát
thanh mà thôi, đó là đài tuyên truyền cho phía chống cộng. Đây
không phải là chiến tranh tâm lý, nhưng tôi nghĩ nhiều gia
đình sẽ hoan nghênh chiếc máy truyền hình chỉ cho phép ta xem
những chương trình lành mạnh. Tôi hy vọng các bạn sẽ viết cho
các hãng sản xuất Tivi và các đài truyền hình để bày tỏ ý kiến
của mình về vấn đề này.
Chúng ta cần được
bảo vệ vì các độc đố quá ngập tràn. Chúng đang hủy hoại xã
hội, gia đình, và cá nhân ta. Chúng ta phải dùng mọi cách có
thể để bảo vệ chính mình. Thảo luận về đề tài này sẽ mang lại
những ý kiến quan trọng, như làm sao để bảo vệ mình khỏi các
chương trình truyền hình độc hại. Chúng ta cũng cần phải thảo
luận với gia đình và cộng đồng mình về những tạp chí mà mình
và con em mình thích đọc, đồng thời ta nên tẩy chay các tạp
chí tuông nhả độc tố vào xã hội chúng ta. Không phải chỉ không
đọc các tạp chí này, ta còn cần phải nỗ lực cảnh báo cho mọi
người tác hại của việc đọc và tiêu thụ các sản phẩm này. Với
các sách báo và chuyện trò khác cũng vậy.
Vì cô đơn, ta muốn
nói chuyện, nhưng câu chuyện của ta lại có thể mang lại nhiều
độc tố. Thỉnh thoảng, sau khi nói chuyện với một người xong,
ta cảm thấy tê liệt vì những gì mình vừa nghe. Chánh niệm sẽ
cho phép ta ngưng loại chuyện trò thêm vào cho ta nhiều độc
tố.
Các nhà tâm lý trị
liệu là những người lắng nghe nỗi khổ niềm đau của thân chủ
của họ. Nếu họ không biết thực tập trung hoà và chuyển hoá
những nỗi khổ niềm đau trong họ, thì họ sẽ không thể giữ sự
tươi mát và lành mạnh để chịu đựng lâu dài.
Bài tập tôi đề nghị
có ba điểm: Trước hết, nhìn sâu vào thân tâm mình và nhận diện
các loại độc tố đã có sẵn trong ta. Mỗi người phải là vị lương
y của chính mình, không phải chỉ cho thân mà còn cho tâm nữa.
Sau khi đã nhận diện những độc tố ấy, ta có thể tìm cách trục
chúng ra ngoài. Một trong những cách đó là uống cho nhiều
nước. Cách khác là thực tập xoa bóp, kích thích máu đến chỗ có
độc tố để máu có thể tẩy sạch chúng. Cách thứ ba là thở sâu
vào không khí trong lành. Cách này sẽ mang nhiều khí oxy vào
máu, giúp máu tống các chất độc ra khỏi thân thể. Có những vận
hành trong thân thể để trung hoà và trục xuất các chất này,
nhưng thân thể ta có thể quá yếu để có thể tự làm việc ấy.
Trong khi làm những việc này, ta phải ngừng hấp thụ thêm vào
các chất độc.
Đồng thời, ta nhìn
vào tâm thức để thấy các loại độc tố nằm sẵn trong đó. Chúng
ta có nhiều giận hờn, tuyệt vọng, sợ hãi, căm thù, tham lam,
và ganh tị -- tất cả những thứ này, Bụt gọi là chất độc. Bụt
nói đến ba chất độc căn bản là tham, sân, và si. Còn nhiều
nữa, ta phải nhận diện sự có mặt của chúng trong ta. Hạnh phúc
của chúng ta tùy thuộc vào khả năng chuyển hoá các chất độc
này. Chúng ta chưa từng tu tập, do đó bị cuốn theo nếp sống
thiếu chánh niệm của mình. Phẩm chất của đời sống chúng ta tùy
thuộc rất nhiều vào vốn liếng bình an và niềm vui có mặt trong
thân tâm chúng ta. Nếu có quá nhiều chất độc trong thân thể và
tâm thức mình, thì niềm vui và sự bình an trong ta sẽ không đủ
mạnh để làm cho ta hạnh phúc. Vì vậy bước đầu tiên là nhận
diện cho ra những chất độc đang có mặt trong mình.
Bước thứ hai của sự
thực tập là ý thức về những gì mình đang đưa vào trong thân
thể và tâm thức mình. Tôi đang đưa loại độc tố nào vào thân
thể ngày hôm nay? Tôi đang xem cuốn phim nào hôm nay? Tôi đang
đọc cuốn sách nào? Tôi đang coi tờ báo nào? Tôi đang có loại
chuyện trò nào? Hãy tìm cách nhận diện cho ra các độc tố.
Phần thứ ba của sự
thực tập là tự kê cho mình một chế độ kiêng cữ. Ý thức về sự
kiện có quá nhiều độc tố như vậy trong thân tâm mình, ý thức
về sự kiện mình đang đưa hết độc tố này đến độc tố khác vào
thân tâm mình mỗi ngày, khiến cho mình bị bệnh và gây đau khổ
cho những người thương của mình, mình nguyện không đưa thêm
độc tố vào thân thể và tâm thức nữa.
Do đó, mình nguyện
tránh không đưa vào thân tâm những thứ này nữa, và mình liệt
kê ra những thứ đó. Chúng ta biết có bao nhiêu thứ bổ dưỡng,
lành mạnh, và thú vị ta có thể tiêu thụ hằng ngày. Khi ta
không uống rượu, có bao nhiêu chọn lựa khác ngon và lành mạnh:
nước trái cây, trà, nước khoáng. Ta không cần phải lấy đi của
mình niềm vui sống, hoàn toàn không. Có bao nhiêu chương trình
đẹp đẽ, súc tích, và thú vị trên truyền hình. Có bao nhiêu
sách báo rất hay để đọc. Có bao nhiêu con người tuyệt diệu và
bao nhiêu đề tài lành mạnh để cùng nhau đàm luận. Khi phát
nguyện chỉ tiêu thụ những gì nuôi dưỡng sức khoẻ và an lạc cho
mình, cho gia đình và xã hội, ta không cần phải tước đi của
mình niềm vui sống. Thực tập bài tập thứ ba này mang cho ta
niềm an lạc sâu xa.
Thực tập kiêng cữ
là thực chất của Giới này. Chiến tranh, bom đạn là những sản
phẩm của tâm thức cá nhân và cộng đồng. Tâm thức cộng đồng của
chúng ta có quá nhiều bạo động, sợ hãi, thèm khát, và căm thù,
được biểu hiện bằng chiến tranh và bom đạn. Bom là sản phẩm
của sợ hãi. Vì kẻ khác có những trái bom có sức công phá lớn,
cho nên ta phải làm sao để chế tạo ra những trái bom còn hữu
hiệu hơn. Và khi các nước kia nghe ta có những trái bom thượng
thặng này, họ lại tìm cách chế tạo ra những trái bom còn mạnh
hơn thế nữa. Dẹp bỏ những trái bom không đủ. Cho dù ta có thể
chở bom đến một hành tinh xa xôi khác, ta vẫn không có an
ninh, vì gốc rễ của chiến tranh và bom đạn vẫn còn nguyên vẹn
trong tâm thức cộng đồng của chúng ta. Chuyển hoá các chất độc
trong tâm thức cộng đồng mới là cách đích thực để nhổ tận gốc
chiến tranh.
Khi chúng ta xem
cuộn băng Rodney King bị đánh trên đường phố Los Angeles,
chúng ta không hiểu tại sao năm cảnh sát lại phải đánh đi đánh
lại một người hoàn toàn không tự vệ như vậy. Chúng ta thấy sự
bạo động, căm thù, và sợ hãi trong những người cảnh sát. Nhưng
đây không phải chỉ là vấn đề của năm người cảnh sát ấy. Hành
động của họ là biệu hiện của tâm thức cộng đồng chúng ta. Họ
không phải là những người duy nhất bạo động và đầy dẫy sợ hãi,
căm thù. Hầu hết tất cả chúng ta đều như vậy. Có quá nhiều bạo
động trong tất cả các thành phố lớn, không phải chỉ ở Los
Angeles, mà còn ở San Francisco, New York, Washington D.C.,
Chicago, Tokyo, Paris, và nhiều nhiều nữa. Mỗi sáng, khi đi
làm, những người cảnh sát nhủ thầm: ‘Mình phải cẩn thận nếu
không thì có thể bị giết. Mình sẽ không thể trở về với gia
đình được.’ Một người cảnh sát huân tập sợ hãi mỗi ngày, và vì
vậy, anh ta có thể làm những việc hoàn toàn thiếu khôn ngoan.
Nhiều khi không thực sự có đe doạ, nhưng vì nghi mình có thể
bị bắn, anh ta cầm súng và bắn trước. Một tuần trước khi
Rodney King bị đánh, một nữ cảnh sát đã bị bắn vào mặt và
chết. Lẽ đương nhiên các cảnh sát trong vùng phẫn nộ khi nghe
tin, và đồng tới đám tang để biểu dương sự tức giận và căm hờn
của họ đối với xã hội và chính quyền vì đã không phòng bị cho
họ đầy đủ an toàn. Chính phủ cũng không an toàn – các tổng
thống và thủ tướng bị ám sát. Vì xã hội như vầy, cho nên cảnh
sát như kia. ‘Cái này có, vì cái kia có. Cái này như thế này,
vì cái kia như thế kia.’ Một xã hội bạo động tạo ra các cảnh
sát bạo động. Một xã hội đầy sợ hãi tạo ra các cảnh sát đầy sợ
hãi. Bỏ tù cảnh sát không giải quyết vấn đề. Chúng ta phải
thay đổi xã hội từ tận gốc rễ, đó là tâm thức cộng đồng của
chúng ta, nơi tiềm ẩn các năng lượng sợ hãi, tham, giận, và
ghét bỏ.
Chúng ta không thể
bãi bỏ chiến tranh bằng các cuộc biểu tình đầy phẫn nộ. Chúng
ta phải thực tập một chế độ kiêng cữ cho mình, cho gia đình,
và xã hội mình. Chúng ta phải làm việc ấy với những người
khác. Để có những chương trình truyền hình lành mạnh, ta phải
làm việc với các nghệ sĩ, nhà văn, nhà làm phim, luật sư, và
các nhà làm luật. Chúng ta phải đẩy mạnh cuộc tranh đấu này.
Thiền tập không nên là một thứ thuốc phiện làm cho ta quên đi
những vấn đề thực sự. Thiền tập phải mang lại sự tỉnh giác
trong ta, cũng như trong gia đình, và xã hội ta. Giác ngộ phải
có tính tập thể thì chúng ta mới đạt tới các kết quả. Chúng ta
phải ngừng các loại tiêu thụ đầu độc tâm thức cộng đồng của
chúng ta.
Tôi không thấy cách
nào khác hơn là thực tập những Giới Bồ Tát này. Chúng ta cần
phải thực tập như một xã hội để có thể tạo ra những thay đổi
mạnh mẽ cần thiết. Thực tập như một xã hội chỉ có thể có được
khi mỗi người trong chúng ta phát nguyện thực tập như một vị
Bồ Tát. Vấn đề rất lớn. Nó liên hệ đến sự sống còn của chúng
ta cũng như sự sống còn của nhân loại và trái đất. Đây không
phải là vấn đề thưởng thức một ly rượu. Nếu ta ngưng việc uống
ly rượu của mình, ta làm điều ấy cho cả xã hội. Chúng ta biết
rằng Giới thứ Năm cũng y hệt như Giới thứ Nhất. Khi ta thực
tập không sát hại và biết bảo vệ sinh mạng của cả những loài
vật nhỏ, ta nhận ra rằng ăn ít thịt có liên quan đến việc thực
tập Giới thứ Nhất. Nếu ta không thể chấm dứt hoàn toàn việc ăn
thịt, thì ít nhất hãy cố giảm ăn thịt. Nếu giảm được năm mươi
phần trăm việc ăn thịt và uống rượu, thì ta đã tạo ra được một
phép lạ; chỉ tự nó thôi đã có thể giải quyết nạn đói ở thế
giới thứ ba. Đó là vì sao trong suốt buổi lễ tụng Giới, chúng
ta luôn đáp lại câu hỏi ta có cố gắng học hỏi và hành trì Giới
hay không bằng hơi thở sâu. Đó là câu trả lời hay nhất. Thở
sâu có nghĩa là tôi đã có cố gắng, nhưng tôi có thể làm hay
hơn.
Giới thứ Năm có thể
cũng giống như vậy. Nếu ta không thể ngưng uống hoàn toàn, thì
hãy bớt bốn phần năm, hay ba phần tư. Sự khác biệt giữa Giới
thứ Nhất và Giới thứ Năm là rượu không giống như thịt. Rượu
gây nghiện. Một giọt này kéo theo nhiều giọt khác. Đó là vì
sao chúng ta được khuyến khích bỏ luôn dù là một ly vang. Một
ly có thể dẫn theo ly thứ hai. Mặc dù trong cùng một tinh thần
như Giới thứ Nhất, ta lại được khuyên một cách mạnh mẽ bỏ luôn
ly rượu đầu tiên. Khi ta thấy mình ở trong hiểm hoạ lớn, tránh
từ ly đầu tiên là một biểu hiện của sự thức tỉnh của mình. Ta
làm cho tất cả. Ta phải làm gương cho con em và bè bạn của
mình. Trên truyền hình Pháp người ta nói: ‘Một ly thì không
sao, nhưng ba ly thì sẽ dẫn tới nguy cơ hủy diệt.’ (Un
verre ca va; trois verres bonjour les dégâts.) Họ không
nói ly thứ nhất đưa đến ly thứ hai, và ly thứ hai đưa đến ly
thứ ba. Họ không nói, vì họ thuộc vào nền văn minh rượu vang.
Ở Làng Mai, thuộc vùng Bordeaux của nước Pháp, chúng tôi được
bao quanh bởi rượu vang. Nhiều láng giềng của chúng tôi ngạc
nhiên vì chúng tôi không những không hưởng lợi lạc gì khi ở
vùng này, mà còn là một ổ đề kháng. Tội nghiệp chúng tôi quá.
Khi còn là chú
điệu, tôi được biết rằng đôi khi chúng ta phải dùng rượu làm
thuốc. Có nhiều loại rễ, và dược thảo cần phải ngâm trong rượu
thì mới có hiệu nghiệm. Những lúc ấy, rượu được cho phép. Khi
các dược thảo đã được điều chế xong, chúng ta bỏ tất cả hỗn
hợp vào nồi và nấu lên. Chúng sẽ không còn tác dụng độc hại
nữa. Dùng rượu trong khi nấu nướng cũng vậy. Khi thức ăn đã
nấu chín, rượu trong món ăn sẽ không còn tính độc hại nữa.
Chúng ta không nên hẹp hòi quá về chuyện này.
Không ai có thể trì
Giới một cách hoàn hảo, kể cả Bụt. Các món chay cúng dường lên
Ngài không hoàn toàn chay lắm. Trong rau luộc có vi khuẩn
chết. Ta không thể thực tập Giới thứ Nhất hay bất cứ Giới nào
hoàn toàn. Nhưng vì hiểm hoạ đích thực trong xã hội chúng ta
-- nạn nghiện rượu đã phá hoại không biết bao nhiêu là gia
đình và đã gây ra không biết bao nhiêu là đau khổ -- cho nên
chúng ta phải làm một cái gì đó. Chúng ta phải sống như thế
nào để bứng tận gốc mối nguy hại này. Đó là vì sao dù bạn có
thể rất lành mạnh với một ly rượu mỗi tuần, tôi vẫn tha thiết
khuyên bạn hãy bỏ ly rượu ấy đi.
Tôi cũng xin được
nói về việc không sử dụng ma túy. Cũng như rượu từng là tai
hoạ của một thế hệ, ma túy là tai hoạ của một thế hệ khác. Một
thiếu nữ ở Úc nói với tôi cô chưa gặp ai đồng trang lứa mà
không dùng ma túy loại này hay loại khác. Thường những người
trẻ hút xách đến các trung tâm thiền tập để xử lý vấn đề đối
diện với cuộc sống như tự thân của nó. Họ thường là những
người rất có tài và nhạy cảm -- hoạ sĩ, thi sĩ, và nhà văn –
và trong khi trở nên nghiện ngập, họ đã ít nhiều làm hư hoại
một số tế bào óc. Điều này có nghĩa là bây giờ có có ít khả
năng hay tự chủ, có khuynh hướng mất ngủ và gặp ác mộng. Chúng
tôi đã làm những gì có thể để khuyến khích họ ở trọn khoá tu
trong thiền viện, nhưng vì họ rất dễ vỡ mộng, cho nên hay rời
khi sự việc trở nên khó. Những người từng nghiện ma túy cần có
kỷ luật. Tôi không chắc rằng trung tâm thiền tập như Làng Mai
là nơi tốt nhất để chữa các nạn nhân nghiện ma túy. Tôi nghĩ
rằng những nhà chuyên môn và chuyên khoa trong lĩnh vực này
được trang bị đầy đủ hơn chúng tôi. Một trung tâm thiền tập
nên có khả năng đón tiếp các nhà giáo dục và chuyên môn trong
lĩnh vực cai nghiện, cũng như tiếp nhận các nạn nhân nghiện ma
túy trong các khoá thiền ngắn hạn để người ta biết những chỗ
phải tìm khi thật sự cần đến.
Thực tập mà chúng
tôi cống hiến là Giới thứ Năm, ngăn người ta dính dấp đến ma
túy ngay từ đầu. Phụ huynh đặc biệt cần phải biết nên cho con
loại thức ăn tinh thần nào. Rất thường khi, con cái cảm thấy
đói khát về tinh thần bởi cách nhìn hoàn toàn thiên về vật
chất của cha mẹ. Phụ huynh không có khả năng trao truyền lại
cho con cái những giá trị của di sản tinh thần của họ, và vì
vậy con cái đi tìm sự thoả mãn trong ma túy. Ma túy có vẻ như
là giải pháp duy nhất, khi phụ huynh và thầy giáo nghèo nàn
trơ trọi về tâm linh. Tuổi trẻ cần được tiếp xúc với cảm giác
an ổn nằm sâu trong họ mà không phải đi qua con đường ma túy,
và công việc của các nhà giáo dục là giúp cho tuổi trẻ tìm
được thức ăn tâm linh và sự an lạc. Nhưng nếu các nhà giáo dục
cũng chưa tìm ra được cho mình nguồn nuôi dưỡng của tâm linh,
thì làm sao họ chỉ được cho người trẻ làm sao để có thể tìm ra
được nguồn nuôi dưỡng ấy?
Giới thứ Năm khuyên
ta tìm những thức ăn tinh thần lành mạnh, không phải chỉ cho
riêng mình mà còn cho con cháu và các thế hệ tương lại nữa.
Những chất liệu nuôi dưỡng lành mạnh, tâm linh có thể được tìm
nơi đoá hoa mùa xuân, ánh mắt em thơ, hay vầng trăng sáng.
Những bài thực tập căn bản nhất, ý thức về thân, tâm, và ngoại
cảnh có thể đưa ta tới một trạng thái đầy đủ, giàu có mà ma
túy không thể nào đem tới được. Chúng ta có thể vui được cái
vui sẵn có, trong những hạnh phúc đơn sơ nhất.
Việc sử dụng rượu
và ma túy gây ra không biết bao nhiêu là tai hại cho gia đình
và xã hội. Các chính phủ đã làm việc rất nhiều để ngăn chặn sự
buôn bán ma túy. Họ đã dùng máy bay, súng ống, và quân đội để
làm việc này. Hầu hết đều biết ma túy tàn hoại đến đâu, nhưng
người ta không thể cưỡng lại được vì nỗi đau và sự cô đơn
trong họ quá lớn, việc sử dụng rượu và ma túy giúp họ quên đi
trong chốc lát nỗi muộn phiền sâu xa đó. Một khi đã nghiện
rượu và ma túy, người ta có thể làm bất cứ chuyện gì miễn là
có thuốc mà thôi – nói dối, ăn trộm, ăn cướp, cho đến giết
người. Ngăn chặn sự buôn bán ma túy chưa phải là cách hay nhất
để ngăn ngừa việc sử dụng ma túy. Cách hay hơn cả là thực tập
Giới thứ Năm và giúp mọi người thực tập.
Tiêu thụ có chánh
niệm là cách thông minh để thôi đưa vào thân thể và tâm hồn
mình những độc tố, và cũng để ngăn không cho sự muộn phiền đi
đến chỗ tràn ngập, lấn áp. Học nghệ thuật tiếp xúc và tiếp thu
những yếu tố tươi mát, nuôi dưỡng, trị liệu là cách để khôi
phục lại sự quân bình, và chuyển hoá những nỗi đau và niềm cô
đơn sẵn có. Muốn làm như vậy, ta phải thực tập chung với nhau.
Việc thực tập tiêu thụ có chánh niệm nên trở thành một chính
sách quốc gia. Việc này cần được xem như giáo dục hoà bình
đích thực. Phụ huynh, giáo viên, nhà giáo dục, y sĩ, nhà trị
liệu, luật sư, tiểu thuyết gia, phóng viên, nhà làm phim, nhà
kinh tế, và các nhà làm luật phải thực tập với nhau. Nhất định
phải có những cách để tổ chức hình thức thực tập này.
Việc thực tập chánh
niệm giúp ta có ý thức về những gì đang xảy ra. Một khi chúng
ta thấy được một cách sâu sắc khổ đau, và những gốc rễ khổ
đau, ta sẽ được thúc đẩy để hành động, để tu tập. Năng lượng
chúng ta cần không phải là sợ hãi hay tức giận; năng lượng
chúng ta cần là năng lượng của hiểu biết và thương yêu. Trách
móc và buộc tội không có ích lợi gì. Những kẻ tự hủy hoại mình
không làm việc ấy một cách cố ý. Nỗi khổ và niềm cô đơn của
họ quá ngập tràn, và họ muốn thoát ra. Họ cần sự giúp đỡ,
không phải sự trừng phạt. Chỉ có tình thương và sự hiểu biết ở
mức độ tập thể mới có thể giải phóng chúng ta. Sự thực tập
Giới thứ Năm chính là sự thực tập chánh niệm và từ bi. Để cho
tương lại còn có mặt cho con cháu chúng ta, chúng ta cần phải
tu tập.
--------------------
© Phùsa |